Ngành công nghiệp văn hóa có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của các địa phương
Hôm nay, tại thành phố Hội An tươi đẹp – thành phố 3 lần được tôn vinh là “Điểm đến đô thị văn hóa hàng đầu châu Á”, Bộ VHTTDL rất vinh dự được Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh mời tham dự và có bài tham luận tại Diễn đàn “Đối thoại phát triển địa phương năm 2022” với chủ đề “Công nghiệp văn hóa, du lịch và phát triển địa phương”.
Bộ VHTTDL ý thức sâu sắc rằng, Diễn đàn có ý nghĩa hết sức quan trọng, là cơ hội để Bộ được lắng nghe các đại biểu, các chuyên gia thảo luận, đưa ra các sáng kiến, giải pháp phát triển công nghiệp văn hóa, du lịch gắn với phát triển kinh tế – xã hội, nhất là trong bối cảnh Bộ VHTTDL cũng đang tổ chức nhiều hoạt động nhằm đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Kính thưa quý vị!
Như chúng ta đã biết, tiếp cận từ góc độ văn hóa trong kinh tế, sự chuyển động và chuyển hóa hài hòa, sáng tạo của các nguồn tài nguyên văn hóa trong các sản phẩm văn hóa, sản phẩm du lịch, dịch vụ là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững.
Để làm rõ hơn những vấn đề then chốt liên quan đến chủ đề Diễn đàn, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ VHTTDL xin tham luận tập trung 3 nội dung chính sau:
Một là, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, du lịch.
Hai là, mối quan hệ của phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đối với sự phát triển của địa phương.
Ba là, một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa, du lịch đối với sự phát triển của địa phương.
Quang cảnh diễn đàn. Ảnh: Đức Hoàng
Chủ trương, chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, du lịch của Đảng và Nhà nước
Sau hơn 35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về chính trị, kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh. Trên lĩnh vực văn hóa, đường lối, chủ trương phát triển văn hóa của Đảng tiếp tục có sự đổi mới sâu sắc về vai trò của văn hóa trên cơ sở kế thừa nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” và xu thế tất yếu, khách quan của thời đại:
Tại Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (ngày 16/7/1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta đã khẳng định “Văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế”. Đây là cơ sở nền tảng cho sự phát triển của ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam.
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã nêu rõ mục tiêu xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa nhằm từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa. Đây là động lực cho việc xây dựng và triển khai Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam.
Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2020 cũng nhấn mạnh xu thế về sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp văn hóa trên toàn thế giới và cho rằng văn hóa Việt Nam không nên nằm ngoài những quỹ đạo đó. Điều này cho thấy chính phủ Việt Nam đặt ngành công nghiệp văn hóa là một phần quan trọng trong việc hoạch định chính sách kinh tế của đất nước.
Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã khẳng định công nghiệp văn hóa là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp và xã hội để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Chiến lược xác định các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam bao gồm 12 lĩnh vực: Quảng cáo; kiến trúc; phần mềm và các trò chơi giải trí; thủ công mỹ nghệ; thiết kế; điện ảnh; xuất bản; thời trang; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; truyền hình và phát thanh; du lịch văn hóa.
Trong mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp khoảng 3,61% GDP và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội. Đối với tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP và tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm.
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 đặt mục tiêu hoàn thiện cơ chế thị trường trong lĩnh vực văn hóa gắn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng, lợi thế.
Ở góc độ hợp tác quốc tế, Việt Nam đã thông qua Công ước 2005 của UNESCO về bảo tồn và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa, tạo điều kiện để các chương trình liên quan đến việc xây dựng cơ chế tài chính và khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển của ngành công nghiệp văn hóa tại Việt Nam được thực thi. Ví dụ, dự án Hỗ trợ kỹ thuật của UNESCO mang tên “Phát triển cơ chế và khung luật tài chính thích hợp cho ngành công nghiệp văn hóa và khuyến khích đầu tư cho ngành công nghiệp văn hóa tại Việt Nam”.
Việc hệ thống lại đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong 2 thập niên vừa qua, đặc biệt trong 5 năm gần đây cho thấy rất rõ, Đảng ta đã đề ra chính sách phát triển công nghiệp văn hóa là rất kịp thời, Việt Nam đang tiến những bước tiến vững chắc hơn trong lộ trình:
(1) Thừa nhận công nghiệp văn hóa là một bộ phận cấu thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
(2) Xây dựng cách hiểu thống nhất về phạm vi các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam;
(3) Đưa ra những mục tiêu phấn đấu bước đầu đối với ngành công nghiệp văn hóa;
(4) Khẳng định vai trò của chủ thể nhà nước trong việc tạo mọi điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát triển ngành công nghiệp văn hóa.
Bài học của thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy, các ngành công nghiệp văn hóa đang thực sự trở thành tâm điểm của nền kinh tế. Các địa phương nếu phát huy được vai trò của các ngành công nghiệp nhóm văn hóa sẽ góp phần đa dạng hóa cơ cấu các ngành nghề trong cấu trúc nền kinh tế theo hướng bền vững.
Đối với cộng đồng người dân địa phương: Lấy người dân địa phương làm chủ thể chính để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa tại địa phương. Người dân địa phương là người tạo ra, kế thừa và phát huy vốn văn hóa của địa phương mình. Họ sẽ thấu hiểu hơn ai hết những thế mạnh mang tính bản sắc của địa phương hơn bất kỳ người nào khác. Do vậy, việc nâng cao nhận thức, mở rộng sự hiểu biết của cộng đồng địa phương cách thức tham gia vào các ngành công nghiệp văn hóa là hết sức cần thiết.
Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng
Phát triển du lịch gắn với phát triển kinh tế bền vững ở địa phương
Ngày 16/01/2017, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó xác định: Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác, nhưng không nhất thiết địa phương nào cũng xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn.
Đây là những quan điểm, định hướng quan trọng để mỗi địa phương căn cứ vào tiềm năng, lợi thế về tài nguyên văn hóa, tài nguyên du lịch để có những ưu tiên về chính sách, cơ chế nhằm phát triển du lịch, trong đó có du lịch văn hóa – 1 trong 12 ngành công nghiệp văn hóa.
Luật Du lịch năm 2017 quy định nhiều nội dung cốt yếu để phát triển du lịch, trong đó có quan điểm: Phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, tài nguyên thiên nhiên, khai thác lợi thế của từng địa phương và tăng cường liên kết vùng.
Quyết định số 147/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, tập trung phát triển sản phẩm du lịch có chất lượng, đa dạng, khác biệt, có giá trị gia tăng cao và tăng trải nghiệm cho khách du lịch dựa trên lợi thế về tài nguyên văn hóa, tài nguyên du lịch của từng vùng, địa phương, phù hợp với nhu cầu thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam.
Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng phát biểu tại diễn đàn. Ảnh: Đức Hoàng
Mối quan hệ của phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, du lịch đối với sự phát triển của địa phương
Thực tiễn phát triển của ngành công nghiệp văn hóa trên thế giới và quá trình nhìn lại chủ chương, đường lối, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa tại Việt Nam cho thấy, các ngành công nghiệp văn hóa nói chung, du lịch văn hóa nói riêng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của các địa phương.
Sản phẩm công nghiệp văn hóa là cầu nối ngắn nhất quảng bá hình ảnh quốc gia, địa phương ra thế giới và thu hút du khách quốc tế đến với các quốc gia, địa phương thông qua du lịch như nền công nghiệp điện ảnh Hollywood của Mỹ, âm nhạc K-Pop của Hàn Quốc, công nghiệp hoạt hình của Nhật Bản…
Tại Việt Nam, các ngành công nghiệp văn hóa cũng đã bước đầu tạo ra các hiệu ứng du lịch, gia tăng giá trị thương hiệu của địa phương. Bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của đạo diễn Victor Vũ đã đánh thức tiềm năng vùng đất Phú Yên bên cạnh trung tâm du lịch biển nổi tiếng Nha Trang – Khánh Hòa và Quy Nhơn – Bình Định.
Phần lớn các hãng lữ hành đều cho biết, sở dĩ nhiều du khách nô nức mua tour đến Phú Yên vì quá mê mẩn những cảnh đẹp được quay trong bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” được trình chiếu trước đó. Chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng, việc bộ phim “Kong: Skull Island” được quay tại Ninh Bình đã góp phần làm gia tăng sức hấp dẫn của du lịch địa phương này.
Ngoài ra, các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam còn tham gia vào việc tái tạo các thành phố, cải thiện cuộc sống đô thị.
Việc thực hiện Đề án “Phát triển mạng lưới thành phố sáng tạo Việt Nam tham gia vào mạng lưới thành phố sáng tạo của UNESCO” do Chính phủ giao Bộ VHTTDL chủ trì thực hiện từ cuối năm 2021 được kỳ vọng góp phần thay đổi diện mạo các thành phố như TP. Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, Hạ Long, Hội An, Đà Lạt…, trở thành những thành phố sáng tạo mới của Việt Nam.
Trong lĩnh vực du lịch, với sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, sự chung tay phối hợp, hỗ trợ của các ngành, các cấp, các địa phương, sự vào cuộc của cộng đồng doanh nghiệp, du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng thời gian qua, từng bước khẳng định thương hiệu du lịch Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Năm 2019 đánh dấu mốc phát triển vượt bậc của ngành du lịch, với lượng khách quốc tế đạt hơn 18 triệu lượt, khách nội địa hơn 85 triệu lượt, tổng thu từ du lịch đạt 755.000 tỷ đồng, đóng góp của du lịch vào GDP đạt 9,2%.
Năm 2022, Việt Nam đã đón 2,2 triệu lượt khách quốc tế; số lượng khách nội địa đạt xấp xỉ 92 triệu lượt, vượt số lượng khách nội địa của năm 2019; tổng thu từ khách du lịch 10 tháng đầu năm 2022 ước đạt khoảng 425.000 tỷ đồng.
Các đại biểu tham dự diễn đàn chụp hình lưu niệm. Ảnh: Đức Hoàng
Giải pháp phát huy vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa, du lịch đối với sự phát triển của địa phương
Về phát huy vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa trong mối liên kết với du lịch, để phát huy vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa đối với sự phát triển bền vững của địa phương, Bộ VHTTDL xin đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất, về nhận thức: Đề nghị cấp ủy, chính quyền các địa phương tăng cường nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về tầm quan trọng cũng như tiềm năng của các ngành công nghiệp hoá trong việc khai thác các thế mạnh của địa phương.
Bài học của thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy, các ngành công nghiệp văn hóa đang thực sự trở thành tâm điểm của nền kinh tế. Các địa phương nếu phát huy được vai trò của các ngành công nghiệp nhóm văn hóa sẽ góp phần đa dạng hóa cơ cấu các ngành nghề trong cấu trúc nền kinh tế theo hướng bền vững.
Đối với cộng đồng người dân địa phương: Lấy người dân địa phương làm chủ thể chính để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa tại địa phương. Người dân địa phương là người tạo ra, kế thừa và phát huy vốn văn hóa của địa phương mình. Họ sẽ thấu hiểu hơn ai hết những thế mạnh mang tính bản sắc của địa phương hơn bất kỳ người nào khác.
Do vậy, việc nâng cao nhận thức, mở rộng sự hiểu biết của cộng đồng địa phương cách thức tham gia vào các ngành công nghiệp văn hóa là hết sức cần thiết.
Thứ hai, giải pháp phát triển nhân lực: Các địa phương của Việt Nam đều là những vùng đất giàu có về tài nguyên văn hóa. Mỗi miền đều có những bản sắc, những câu chuyện lịch sử rất riêng. Làm thế nào để biến những tài sản văn hóa đó thành sản phẩm văn hóa đưa lại giá trị kinh tế, rồi từ sản phẩm văn hóa chuyển hóa thành sản phẩm du lịch để thu hút du khách là những câu chuyện không hề dễ dàng.
Do vậy, các địa phương cần chú ý việc đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao liên quan đến văn hóa sáng tạo để có thể biến tiềm năng trở thành động lực trong phát triển của địa phương mình.
Thứ ba, giải pháp về thu hút xã hội hóa: Các địa phương cũng cần có cơ chế thu hút nguồn lực từ xã hội tham gia vào quá trình phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực văn hóa còn tương đối eo hẹp, việc thu hút các nguồn vốn từ các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đầu tư vào các lĩnh vực của ngành công nghiệp văn hóa là hết sức quan trọng, không chỉ cung cấp thêm vật lực mà còn tạo động lực mới cho các lĩnh vực được đầu tư.
Thứ tư, giải pháp về tính liên kết giữa phát triển các ngành công nghiệp văn hóa với du lịch, trong đó có du lịch văn hóa: Các địa phương cần coi trọng sự phối hợp chặt chẽ giữa công nghiệp văn hoá và lĩnh vực du lịch với cách tiếp cận.
Công nghiệp văn hóa là động lực để phát triển du lịch, du lịch văn hóa là một bộ phận cấu thành các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. Ngược lại, du lịch là cơ sở để thúc đẩy công tác giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa – nguồn tư liệu của các ngành công nghiệp văn hóa.
Trên cơ sở đó, địa phương cần tăng cường tính liên kết giữa các ngành, các vùng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong việc phát triển công nghiệp văn hóa.
Thứ năm, tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy số hoá các ngành công nghiệp văn hóa địa phương. Cùng với sự chuyển đổi số mạnh mẽ trong nền kinh tế, các ngành công nghiệp văn hóa cũng đang có quá trình số hóa phương thức sản xuất, kinh doanh, phân phối hàng hóa văn hóa đến người tiêu dùng. Số hóa tạo nên sự thay đổi về chất trong các ngành công nghiệp văn hóa.
Vì vậy, các địa phương cần tận dụng vai trò của công nghệ trong việc khai thác các tiềm năng lợi thế về văn hóa trong phát triển công nghiệp văn hóa và du lịch tại địa phương mình.
Về phát triển du lịch trong mối liên kết với các ngành công nghiệp văn hóa: Để chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa, phát huy được vai trò và đi vào thực tiễn địa phương trong mối quan hệ với các ngành công nghiệp văn hóa, thứ nhất, tăng cường sự phối hợp, cung cấp thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, cách làm sáng tạo giữa các bộ ngành địa phương trong việc tổ chức triển khai thực hiện.
Thứ hai, phát huy vai trò chủ động của các địa phương trong xây dựng chương trình và kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện các chủ trương, chính sách và giải pháp phát triển du lịch phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương, đảm bảo phát huy tối ưu tiềm năng, thế mạnh của các ngành công nghiệp văn hóa của mỗi địa phương để góp phần thúc đẩy phát triển du lịch sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Kính thưa quý vị,
Việt Nam đã và đang mang hình ảnh đất nước tươi đẹp, giàu bản sắc ra thế giới trong sự hiển diện ngày càng phong phú hơn của các sản phẩm công nghiệp văn hóa. Đồng thời, sự tăng trưởng nhanh chóng của du lịch dựa trên thế mạnh tài nguyên văn hóa đa dạng, dồi dào của từng địa phương cũng đang tạo nên sức hấp dẫn thu hút khách du lịch quốc tế đến với Việt Nam.
Bộ VHTTDL tin tưởng rằng các sáng kiến, đóng góp của các chuyên gia trong và ngoài nước, các địa phương thông qua các tham luận tại Diễn đàn sẽ tạo ra sức sống mới cho ngành công nghiệp văn hoá, ngành du lịch, tìm ra những hướng đi, cách làm hiệu quả, thiết thực để tạo sự phát triển bứt phá, bền vững, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia.
(*) Tít bài do Tòa soạn đặt.