Nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu khoa học

Vai trò của hoạt động nhận thức trong tâm lý học và trong xét xử các vụ án Hình sự

ThS

Ths. Nguyễn Thị Minh

Trong  hoạt
động tư pháp nói chung, hoạt động xét xử nói riêng, nhận thức đóng một vai trò
hết sức quan trọng. Nó là bộ phận, một mặt hoạt động rất cơ bản, cần thiết không
thể thiếu  trong hoạt động tư pháp.
Nhận thức góp phần xây dựng, thúc đẩy nhanh việc hoàn thành mục đích, nhiệm vụ
của giai đoạn xét xử trong hoạt động tư pháp. Tìm hiểu về hoạt động nhận thức
trong  tâm lý học giúp chúng ta hiểu
được cấu trúc, đặc điểm, vai trò của hoạt động nhận thức trong các giai đoạn của
hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng; từ đó giúp cho hoạt
động xét xử đạt chất lượng, hiệu quả.

 

1. Các
khái niệm

              a. Khái
niệm hoạt động nhận thức

Con người là thực thể sống tồn tại, hoạt động
trong thế giới khách quan, con người phải nhận thức, tỏ thái độ và hành động với
thế giới ấy. Nhận thức, tình cảm và hành động là ba mặt cơ bản của đời sống tâm
lý con người. Trong quá trình hoạt động, con người phải nhận thức, thông qua
hoạt động nhận thức, hiện thực xung quanh và hiện thực của bản thân được phản
ánh, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ, tình cảm và hành động. “Hoạt động nhận thức là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan và
bản thân con người thông qua các cơ quan cảm giác và dựa trên những hiểu biết
vốn liếng kinh nghiệm đã có của bản thân
”. Việc nhận thức thế giới có thể
đạt tới những mức độ khác nhau: từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Mức
độ nhận thức cảm tính, mức độ cao hơn là nhận thức lý tính.

Nhận thức cảm tính bao gồm cảm giác và tri giác,
trong đó con người phản ánh những cái bên ngoài, những cái đang trực tiếp tác
động đến giác quan con người.

Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng
thuộc tính riêng lẻ, bề ngoài của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan
hoặc trạng thái bên trong của cơ thể khi chúng đang trực tiếp tác động vào cơ
quan cảm giác tương ứng của con người.

Cảm giác bên ngoài là những cảm giác do nguồn
kích thích từ bên ngoài cơ thể gây ra. Để tiếp nhận nguồn kích thích này con
người phải nhờ vào hoạt động của các cơ quan cảm giác. Cảm giác bên ngoài bao
gồm: thị giác cho ta biết những thuộc tính về hình dạng màu sắc kích thươc, vị
trí, độ sáng…của đối tượng; thính giác là loại cảm giác cho ta biết những
thuộc tính về âm thanh, âm sắc của đối tượng; khứu giác cho ta biết những thuộc
tính về mùi của đối tượng; vị giác cho ta biết những thuộc tính về vị của đối
tượng, xúc giác là loại cảm giác cho ta biết những thuộc tính về nhiệt độ. Cảm
giác bên trong là những cảm giác do nguồn kích thích từ bên trong cơ thể gây ra:
cảm giác thăng bằng, cảm giác vận động.

Cảm giác con người diễn ra theo những quy luật tự
nhiên riêng. Hiểu và vận dụng được những quy luật này trong hoạt động thực tiễn
của cuộc sống là điều cần thiết với mỗi chúng ta.

Tri giác là một quá trình tâm nhận thức phản ánh
một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng trong hiện thực
khách quan khi chúng đang trực tiếp tác động vào các cơ quan cảm giác, người ta
chia thành các loại tri giác: tri giác nhìn; tri giác nghe; tri giác ngửi…

Tri giác bao gồm
các quy luật cơ bản: quy luật về tính đối tượng của tri giác; quy luật về tính
lựa chọn của tri giác, tổng giác, ảo ảnh tri giác, …

Trên đây là một
số kiến thức tâm lý cơ bản liên quan tới nhận thức cảm tính.

Để gắn kết với
kiến thức chuyên ngành Luật, chúng ta cùng nhau xem xét hồ sơ một vụ án cướp
tiệm vàng xảy ra tại Bắc Giang như sau:

Vào rạng sáng
ngày 24/8/2011, khi trời vẫn còn mờ tối, Lê Văn Luyện nấp cách tiệm vàng Ngọc
Bích một quãng, mắt đảo nhìn quanh. Khi không thấy bóng người, Lê Văn Luyện
nhanh chóng đột nhập lên tầng ba ngôi nhà. Công cụ của Luyện là một con dao nhọn
và một con dao phớ. Sau khi dùng đèn pin soi tầng ba không tìm thấy gì, Luyện
xuống tầng 2. Suy tính vàng và nữ trang giấu ở tầng 2 nên Luyện đi ngắt cầu dao
và camera. Lúc 5 giờ rưỡi, thấy chủ nhân lên phơi quần áo tại tầng 3, Lê Văn
Luyện vung dao đâm anh ta. Anh này tuy bị thương nhưng vẫn cố đoạt vũ khí và kêu
cứu. Vợ của anh ta chạy lên liền hứng thêm nhiều nhát dao của kẻ thủ ác khi chủ
nhà cướp được con dao nhọn, Luyện liền rút dao phớ chém tiếp. Chủ nhân lăn xuống
tầng 2,  Luyện tiếp tục chém nhiều nhát
đến khi anh ta im hẳn.

Con gái lớn của
chủ nhà thấy tiếng kêu bật dậy, tìm điện thoại liên lạc với bên ngoài. Lê Văn
Luyện sợ bị lộ nên vung dao chém đứt tay cô bé rồi đâm thêm nhiều nhát. Tưởng cô
bé này đã chết nên Luyện bỏ đi. Cô con gái thứ khóc to quá nên Luyện dùng dao
phớ cướp mạng sống của em luôn.

Sát hại xong cả
nhà người bị hại, Lê Văn Luyện đi lấy ba lô và cất hung khí rồi xuống tầng 1.
Sau đó, Luyện phá tủ kính và lấy vàng rồi mở cửa bếp thoát ra ngoài. Lúc này,
trời đã sáng, khu phố đã bắt đầu nhiều người qua lại. Sợ bị phát hiện, Luyện gọi
điện cho người anh họ đến đón rồi bỏ trốn.

Tại cấp sơ thẩm,
Lê Văn Luyện phải chịu mức án 18 năm tù. Khi vụ án đưa ra xét xử phúc thẩm thì
mức án vẫn giữ nguyên như bản án sơ thẩm.

Như vậy, dưới
góc nhìn tâm lý về nhận thức cảm tính chúng ta thấy rằng, chỉ vì lỡ cầm chiếc xe
máy đi mượn của người khác lấy tiền rồi tiêu xài, không có tiền chuộc trả lại
cho chủ sở hữu, Luyện đã thực hiện hàng loạt tội ác man rợ, dã man….cướp đi tính
mạng của 3 người (trong đó có cả trẻ không có khả năng kháng cự) và gây thương
tích nặng cho một người khác.

 Nếu
một người bình thường sau khi biết được vụ án này sẽ vội vàng đưa ra kết luận
rằng phải xử lý nghiêm đối với Lê Văn Luyện, hình phạt phải là chung thân, tử
hình mới đủ răn đe, làm bài học cho kẻ khác… Nhưng nếu là sinh viên chuyên
ngành Luật, hay người có am hiểu pháp luật thì sẽ không vội vàng kết luận ngay,
mà cần phải xem xét từng hành vi phạm tội của đối tượng này, các tình tiết vụ
án, căn cứ pháp luật, nhân thân đối tượng cần phải nghiên cứu để xem xét tội
danh, mức hình phạt tương xứng, tức là chúng ta đã tìm hiểu dưới góc độ nhận
thức lý tính.

Nhận thức lý tính là nhận thức ở mức độ cao, bao
dồm tư duy và tưởng tượng, trong đó con người phản ánh những cái thuộc bản chất
bên trong, những mối quan hệ có tính quy luật. Nhận thức cảm tính và nhận thức
lý tính có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung, chi phối lẫn nhau trong cùng một
hoạt động nhận thức thống nhất của con người.

Tư duy là một quá trình nhận thức mới về chất so
với nhận thức cảm tính. Tư duy không phản ánh những cái bên ngoài mà phản ảnh
những thuộc tính bên trong, thuộc tính bản chất, những mối liên hệ, quan hệ có
tính quy luật của các sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan. Quá trình
này mang tính gián tiếp và khái quát, nảy sinh trên cơ sở hoạt động thực tiễn.
Như vậy tư duy là quá trình tìm kiếm và phát hiện cái mới về chất, nhờ đó chúng
ta mới có khả năng giải quyết những nhiệm vụ phức tạp hơn.

Tư duy chỉ này sinh khi gặp những hoàn cảnh,
những tình huống ma bằng vốn hiểu biết cũ, con người không đủ để giải quyết, để
nhận thức, con người phải vượt ra khỏi những phạm vi hiểu biết cũ để đi tìm cái
mới. Những tình huống như vậy được gọi là “tình huống có vấn đề”. Vấn đề có thể
tồn tại dưới dạng các câu hỏi hay nhiệm vụ trong hoạt động. Trong hoạt động tư
duy, con người cần phải thực hiện các thao tác đó là: phân tích và tổng hợp; so
sánh; trừu tượng hóa; khái quát hóa, cụ thể hóa…

Tưởng tượng là một quá trình nhận thức phản ánh
những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những
biểu tượng mới trên cơ sở những hình ảnh, biểu tượng đã có.

Như vậy, tưởng tượng phản ánh những cái chưa từng
có trong kinh nghiệm của cá nhân, tức là phản ánh những cái mới đối với cá nhân
đó, bằng các biểu tượng. Biểu tượng vừa có tính cụ thể, vừa có tính khái quát.
Biểu tượng thường không rõ rệt như hình ảnh của tri giác mà nó thường xuất hiện
những nét cơ bản, chủ yếu của đối tượng, còn những nét khác thì mờ nhạt. Tưởng
tượng cũng phản ánh hiện thực khách quan vì để tạo ra những cái mới, con người
phải dùng chất liệu là những hình ảnh cũ, biểu tượng cũ cá nhân có được trong
hiện thực khách quan qua quá trình nhận thức cảm tính. Cũng như tư duy, tưởng
tượng nảy sinh từ hoàn cảnh có vấn đề nhưng khác với hoàn cảnh làm nảy sinh qua
trình tư duy. Khi những dữ kiện, điều kiện của hoàn cảnh có vấn đề đã được xác
định cụ thể, không quá xa lạ với hiểu biết của con người tạo nên những nhiệm vụ
rõ ràng, sáng tỏ và có cơ sở khoa học cụ thể để con người giải quyết vấn đề thì
khi đó con người giải quyết vấn đề theo quy luật tư duy. Khi dữ kiện của hoàn
cảnh có vấn đề mang tính không cụ thể, không rõ ràng thì việc giải quyết nhiệm
vụ của vấn đề sẽ diễn ra theo cơ chế tưởng tượng.

Trên đây là
những kiến thức khái quát trong tâm lý học về nhận thức lý tính.

Để liên kết đến
kiến thức pháp luật chúng ta xem kết luận cuối cùng mà Hội đồng xét xử đã tuyên
đối với bị cáo Lê Văn Luyện, tại bản án số 02/HSST ngày 11/01/2012 của 
TAND tỉnh Bắc Giang, Tòa án đã tuyên phạt bị cáo Lê Văn Luyện tổng cộng
18 năm tù về các tội danh mà bi cáo đã gây ra.

Theo nhận định của TAND Bắc Giang, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được
thẩm tra tại phiên tòa cho thấy không có cơ sở xác định Luyện có đồng phạm. Lời
khai của Luyện về việc đột nhập tiệm vàng trùng với kết quả thực nghiệm hiện
trường. Các vết chém trên người 4 nạn nhân khi khám nghiệm cũng khớp với lời
khai hung thủ. Với những phân tích trên, HĐXX cho rằng cáo trạng truy tố Luyện
về 3 tội danh là có cơ sở. Tuy nhiên, do chưa đến tuổi thành niên, Luyện bị phạt
18 năm tù về tội giết người, 18 năm tù cho tội cướp tài sản, 9 tháng tù về tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Theo quy định của pháp luật, bị cáo gây
án khi chưa đến tuổi thành niên (17 tuổi, 10 tháng 6 ngày) nên tổng hợp các hình
phạt đối với bị cáo không quá 18 năm tù.

Tại bản án số:
177 /HSPT ngày 30/3/2012 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xét xử phúc
thẩm thì vẫn giữ nguyên án sơ thẩm (18 năm tù tội giết người, 18 năm tù tội cướp
tài sản, 9 tháng tù tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản), tổng hợp hình
phạt áp dụng đối với Lê Văn Luyện là 18 năm tù.

Sau khi xét xử
sơ thẩm, phúc thẩm, Tòa án đưa ra phán quyết đối với Lê Văn Luyện với tổng mức
hình phạt là 18 năm tù thì đã có không ít người hoài nghi, không hài lòng, thậm
chí có phản ứng trái chiều về quyết định của Tòa án; nhưng đó chỉ là cảm nhận
cảm tính. Tuy nhiên, xét nhiều tình tiết về nhân thân, hoàn cảnh gia đình, các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc biệt độ tuổi của Luyện khi phạm tội
thì đánh giá về mặt pháp lý  thì Tòa
án đã xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đáp ứng chính sách xử lý đối
với người chưa thành niên của Việt Nam và thế giới….

b. Khái
niệm hoạt động tư pháp

Hoạt động tư pháp là việc của các cơ quan chuyên
chính được Nhà nước sử dụng như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án thực hiện các
hoạt động trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, được pháp luật tố tụng quy
định để đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự và bảo vệ các lợi ích của Nhà
nước, của các tổ chức xã hội và công dân. Nói một cách khái quát thì “hoạt động
tư pháp là hoạt động tố tụng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án do các cơ
quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật tố
tụng quy định nhằm bảo vệ các quyền lợi của Nhà nước, của các tổ chức xã hội và
công dân”.

c. Hoạt
động xét xử

“Hoạt động xét xử là hoạt động của các Tòa án
được tổ chức và tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định và theo một trật
tự do luật định nhằm xem xét và giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, lao động,
hôn nhân, gia đình và những vụ việc khác do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền
của Tòa án nhân dân” (Từ điển Bách khoa toàn thư)

          2. Mục
đích của hoạt động nhận thức trong hoạt động xét xử

    

Hoạt động nhận thức là bộ phận, một mặt hoạt động
rất cơ bản cần thiết, không thể thiếu được của hoạt động tư pháp nói chung và
hoạt động xét xử nói riêng. Bất kỳ một chủ thể nào của hoạt động tư pháp (Điều
tra viên, Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân…) khi tiến hành nhiệm vụ
của mình đều phải sử dụng hoạt động nhận thức. Trong hoạt động xét xử, hoạt động
nhận thức nhằm thực hiện các mục đích sau:
Phân tích, đánh giá các chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án;
tìm hiểu động cơ, mục đích của người tham gia tố tụng; nắm bắt được đặc điểm tâm
lý của những người tham gia tố tụng; đưa ra cách thức, phương pháp tác động tâm
lý đến những người tham gia tố tụng;

            3. Đặc
điểm của hoạt động nhận thức trong hoạt động xét xử

Hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử được
tiến hành để nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan điều tra thu thập
và kiểm tra tính khách quan, tính hợp pháp  của
các thông tin đó. Để nhận thức được toàn bộ các thông tin về vụ án, người cán bộ
xét xử phải tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án, có thể điều tra bổ sung , xác minh
thu thập chứng cứ theo luật định và thẩm vấn công khai các đương sự liên quan,
thẩm tra các tại liệu tại phiên tòa; qua đó kiểm tra xem xét lại các các thông
tin đã được thu thập một cách khách quan, toàn diện, công khai.

Chủ thể tiến hành hoạt động nhận thức (các thành
viên Hội đồng xét xử): Quá trình nhận thức trong hoạt động xét xử mang tính chủ
động cao hơn so với một số giai đoạn tố tụng trước. Nếu như giai đoạn điều tra,
điều tra viên thu thập chứng cứ về vụ án, thì mô hình vụ án chưa được xác định.
Điều tra viên nhận thức các thông tin về vụ án chưa có định hướng rõ ràng. Song
điều kiện nhận thức của người làm công tác xét xử hoàn toàn khác. Khi tiến hành
nhận thức về vụ án người làm công tác xét xử đã có được mô hình chính xác về vụ
án do bên cơ quan điều tra mô tả, viện kiểm sát truy tố. Do vậy, họ đã hình dung
được diễn biến vụ án, các tình tiết cụ thể của vụ án. Điều này là căn cứ giúp
người làm công tác xét xử có sự định hướng trong việc xử lý các thông tin.

Khối lượng thông tin mà người làm công tác xét xử
phải xử lý giảm đáng kể so với người làm công tác điều tra. Cán bộ xét xử chỉ xử
lý thông tin có liên quan đến vụ án, còn những thông tin nằm ngoài vụ án đã được
cán bộ điều tra sàng lọc và lược bỏ. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho Hội
đồng xét xử trong việc phân tích và đánh giá thông tin. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp do sự chủ quan trong công tác đánh giá thông tin, chứng cứ của cơ
quan điều tra, Viện kiếm sát mà một số thông tin quan trọng đã không được xem
xét, loại bỏ. Hậu quả dẫn đến sự hạn chế thông tin đối với Hội đồng xét xử, làm
giảm tính chính xác trong việc đánh giá vụ án. Để khắc phục hạn chế này, tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử phải tạo điều kiện để các đương sự có liên quan cung
cấp đầy đủ các thông tin về vụ án.

Nhận thức trong giai đoạn xét xử mang tính gián
tiếp cao. Nếu như ở giai đoạn điều tra vụ án, cán bộ điều tra được tiếp xúc trực
tiếp với hiện trường, thấy hậu quả phạm tội, xem xét các dấu vết còn lại trên
hiện trường thì người làm công tác xét xử 
nhận thức vụ án chỉ dựa vào hồ sơ của cơ quan điều tra và lời khai của
đương sự. Như vậy, các thông tin được thu thập chủ yếu thông qua mô tả của chủ
thể khác, thể hiện tính gián tiếp, cần có tư duy
 để xây dựng lên mô hình diễn biến toán bộ vụ án. Vì thế, kết quả nhận
thức của Hội đồng xét xử phụ thuộc rất nhiều vào tính khoa học, chi tiết, chặt
chẽ, logic của hồ sơ vụ án do cơ quan điều tra lập ra.

Từ quá trình nhận thức Hội đồng xét xử phải xác
định được sự tương quan giữa các tình tiết vụ án và các điều luật cụ thể được áp
dụng. Nhiệm vụ của người làm công tác xét xử là phải nhận thức chính xác tình
tiết vụ án và định tội đối với bị cáo, từ đó xác định mức hình phạt cụ thể, phù
hợp. Để đưa ra bản án chuẩn xác, thuyết phục, đòi hỏi người cán bộ xét xử phải
xác định cụ thể, chi tiết sự tương quan giữa từng tình tiết, từng dấu hiệu của
hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, xác định khung
hình phạt, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm…Bên cạnh đó, người làm công
tác xét xử phải xem xét việc áp dụng các điều luật mà Viện kiểm sát truy tố đã
phù hợp hay chưa phù hợp để đưa ra quyết định chính xác. Nếu xác định không
chính xác sự tương quan giữa hành vi phạm tội và quy định của pháp luật sẽ dẫn
tới việc định tội và mức hình phạt không chính xác, ảnh hưởng đến hiệu quả công
tác xét xử.

Hoạt động nhận thức của Hội đồng xét xử bị hạn
chế về thời gian. Theo quy định pháp luật, thời gian cho việc chuẩn bị xét xử
đối với các vụ án ít nghiêm trọng là không quá 30 ngày, đối với vụ án nghiêm
trọng  không quá 45 ngày, đối với vụ
án rất nghiêm trọng không quá 2 tháng, đối với các vụ án đặc biệt nghiêm trọng
không quá 3 tháng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xác định sự thật
khách quan của vụ án.

            4. Vai trò
của hoạt động nhận thức trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự

Quá trình nhận thức là quá trình phát triển toàn
diện tất cả các thành phần của hoạt động tư pháp. Trong cấu trúc tâm lý của hoạt
động tư pháp, thì hoạt động nhận thức đóng vai trò là một trong những dạng hoạt
động cơ bản, đạt được các mục đích của hoạt động tư pháp là thông qua việc nhận
thức một cách toàn diện, đúng đắn sự thật khách quan của vụ án cùng với các hoạt
động thiết kế, giáo dục nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
của tổ chức xã hội và của công dân. Ngoài ra, hoạt động nhận thức còn đóng vai
trò là một hoạt động trung tâm, là hoạt động cơ sở cho các hoạt động tâm lý khác
trong cấu trúc của hoạt động tư pháp. Bởi hoạt động nhận thức là hoạt động đầu
tiên, nó là tiền đề, căn cứ khởi đầu trong cấu trúc của hoạt động tư pháp. Nó là
cơ sở để thực hiện các hoạt động khác trong hoạt động tư pháp, nếu không có hoạt
động nhận thức thì các hoạt động còn lại trong cấu trúc của hoạt động tâm lý thì
khó mà thực hiện được hoặc nếu nhận thức mà không đúng thì đương nhiên các hoạt
động còn lại sẽ sai lầm.

Tóm lại, hoạt động nhận thức là một bộ phận, một
mặt hoạt động rất cơ bản, rất cần thiết không thể thiếu được của hoạt động tư
pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng. Bất kỳ một chủ thể nào của hoạt
động xét xử khi thực hiện nhiệm vụ của mình đều phải sử dụng hoạt động nhận thức.
Khi có một nhận thức đúng đắn về vụ án hình sự thì mới có thể tiến hành những
hoạt động thu thập, phân tích, đánh giá chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ án, qua đó mới có thể ra các quyết định đúng đắn, những biện pháp
giáo dục hợp lý.

Xét xử vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng
hình sự mà Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án và nhân danh
Nhà nước mà ra bản án. Nhiệm vụ lớn nhất của giai đoạn xét xử là ra được bản án,
quyết định bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hoạt động nhận thức là
cơ sở để thực hiện các hoạt động tâm lý khác trong hoạt động xét xử. Mục đích cơ
bản của hoạt động nhận thức trong xét xử là nghiên cứu, kiểm tra, xác minh lại
những chứng cứ đã phản ánh trong tài liệu điều tra và đánh giá, để hiểu rõ bản
chất khách quan của vụ án, đưa ra bản án, quyết định đúng đắn. Do vậy, hoạt động
nhận thức trong giai đoạn xét xử của tòa án có nhiều điểm khác biệt hơn so với
hoạt động nhận thức ở giai đoạn điều tra. Bản án quyết định của Tòa án đưa ra,
phải đảm bảo tính nghiêm khắc nhưng cũng có tính giáo dục để mọi người ý thức
tôn trọng pháp luật, tạo thói quen tuân thủ pháp luật, cần làm cho mọi người tin
rằng bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào cũng sẽ bị xã hội lên án, giáo dục mọi
công dân có ý thức tham gia vào hoạt động đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Khi một hành vi phạm tội xảy ra, trên cơ sở nhận thức được
 tính nguy hiểm của tội phạm gây ra, cần
phải giáo dục cảm hóa người phạm tội, hình thành ở họ thái độ ăn năn, hối hận,
thái độ tôn trọng pháp luật; giáo dục ý thức, chấp hành pháp luật cho các công
dân; răn đe, ngăn ngừa tội phạm đối với những thành viên; giáo dục tinh thần
trách nhiệm với lãnh đạo, tập thể có thiếu sót để tạo ra tình trạng tội phạm thì
các thành viên Hội đồng xét xử có thể thực hiện các hoạt động giáo dục. Hoạt
động nhận thức ở giai đoạn xét xử được thực hiện bởi các thành viên Hội đồng xét
xử nhằm kiểm tra lại tính đúng đắn của các thông tin thu thập được trong giai
đoạn điều tra thông qua hồ sơ và hoạt động thẩm vấn công khai tại phiên tòa.
Hoạt động nhận thức mang tính chủ động, ít căng thẳng hơn so với hoạt động nhận
thức ở giai đoạn điều tra do chủ thể nhận thức đã được tiếp cận với lượng thông
tin ít hơn, cô đọng hơn, đã được sàng lọc ở giai đoạn điều tra, truy tố.

Kết luận

Hoạt động nhận thức là một quá trình phát triển
toàn diện của hoạt động xét xử. Hoạt động nhận thức trong giai đoạn tố tụng, các
cơ quan tiến hành tố tụng nhận được một khối lượng thông tin lớn từ nhiều nguồn
khác nhau, nguồn thông tin này có thể bị thiếu hụt và khó xác định. Điều quan
trọng là từ khối lượng lớn thông tin này, cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến
hành sàng lọc, chắp nối các thông tin lại cùng với việc phân tích, đánh giá để
rồi rút ra mối quan hệ biện chứng giữa các nguồn thông tin. Như vậy, người tiến
hành tố tụng phải có khả năng tư duy, lập luận pháp lý, kinh nghiệm làm việc, có
những phẩm chất tâm lý vững vàng, ổn định. Ngoài ra, hoạt động nhận thức trong
hoạt động tư pháp không phải là một hoạt động nhận thức đơn thuần một sự việc
khách quan nào đó, mà nó liên quan chặt chẽ với các thủ tục tố tụng, đảm bảo
phải tuân theo những quy định của pháp luật một cách triệt để, xác định sự thật
khách quan của vụ án hình sự một cách nhanh chóng. Vì vậy, hoạt động nhận thức
trong hoạt động tư pháp đòi hỏi:

Cán bộ tư pháp cần có chuyên môn cao, tư duy pháp
lý, kinh nghiệm làm việc và những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cần thiết khi
tiến hành tố tụng nói chung và các hoạt động nhận thức trong hoạt động tư pháp
của mình nói riêng. Để đảm bảo xác định sự thật của vụ án hình sự một cách chính
xác, khách quan, nhanh chóng. Tòa án có thể đưa ra những phán quyết khách quan,
toàn diện và đúng pháp luật, xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm
và không xét xử làm oan sai người vô tội thì Hội đồng xét xử nói chung cũng như
Thẩm phán làm nhiệm vụ Chủ tọa phiên tòa cũng cần có những nhận thức đúng đắn về
vụ án thông qua quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra, thẩm vấn
công khai tại phiên tòa. Như vậy, bản án, quyết định của Tòa án có “thấu tình,
đạt lý” hay không, sẽ phụ thuộc rất cao vào quá trình nhận thức khách quan, toàn
diện về vụ án của các cơ quan tư pháp.

Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa bằng cách tuân
thủ triệt để những quy định của pháp luật tố tụng khi tiến hành các hoạt động tố
tụng và nhận thức không nằm ngoài những quy định đó. Những người tiến hành tố
tụng phải có một nhận thức đúng đắn, khách quan trên cơ sở những quy định của
pháp luật, tránh những nhận thức chủ quan của mình dẫn tới việc giải quyết vụ án
hình sự  có nhiều sai sót, không đúng pháp
luật.

Tài liệu tham khảo

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tâm lí học tư pháp, Nxb. CAND, Hà Nội,
2006.

2. Bộ luật Tố Tụng Hình Sự của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 2015.

3.http://www.tinmoi.vn/toan-canh-phien-toa-xet-xu-le-van-luyen-ngay-101-01715986.html

4. http://www.dhluathn.com/2014/11/phan-tich-vai-tro-cua-hoat-ong-nhan.html

Bài viết này

Gửi bài

Các tin khác

Xổ số miền Bắc