Người tối cổ xuất hiện khi nào? Cách ngày nay bao nhiêu năm?

Trong quá trình tiến hóa của loài người, người tối cổ là một bước tiến quan trọng với lịch sử, và ở Việt Nam cũng đã có rất nhiều tàn tích liên quan. Vậy người tối cổ xuất hiện khi nào? Cách ngày nay bao nhiêu năm? Hãy cùng Luật Dương Gia tìm hiểu:

    1. Người tối cổ xuất hiện khi nào?

    Người tối vổ xuất hiện vào khoảng 4 triệu năm hoặc 50-40 vạn năm về trước, người tối cổ xuất hiện từ sự tiến hóa từ người vượn cổ,  đánh đấu sự tiến triển nhảy vọt từ vượn thành người và là tiền đề cho người tinh khôn hiện tại. Tại Việt Nam, dấu tích về người tối cổ đã được các nhà khảo cổ học tìm thấy vào thời kỳ đồ đá cũ. Vật chứng cho sự tồn tại của người vượn ở Việt Nam chính là những di cốt và công cụ lao động được tìm thấy và công nhận trong ác di chỉ Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, núi Đọ, Ma Ươi…

    Người tối cổ là sự tiến hóa từ loài vượn cổ và cái tên “người tối cổ” đã chứng minh người tối cổ đã là người tuy nhiên chưa được tiến hóa đầy đủ nên vẫn có dấu tích của loài vượn cổ. Người tối cổ là sự tiến hóa của vượn cổ và theo khảo sát thì người tối cổ chỉ cao khoảng 1,2m nhưng do sự sinh hoạt và các hoạt đồng đời sống như quá trình lao động mà chiều cao của người tối cổ dần tăng lên và các đặc điểm thay đổi đáng kể. Chính vì thế, giai đoạn đầu của sự tiến hóa, người tối cổ mang nét giống người vượn cổ nhưng chắc chắn có sự phát triển hơn.

    Khoảng sáu triệu năm trở về trước, trong quá trình hình thành loài người, loài vượn cổ đã có khả năng đi đứng thẳng bằng hai chân và dần biết cầm nắm, đặc biệt là sử dụng các công cụ lao động. Tiếp theo, con người dần biết cách tạo ra các công cụ lao động và học cách sử dụng lửa để sinh sống và săn bắn, cũng nhờ đó con người chuyển từ ăn chay sang ăn thịt. Và từ đó, đàn ông trở lên thống trị và trở thành trưởng tộc do khả năng săn bắn của đàn ông tốt hơn vì có thể chất tốt hơn.  Ngoài ra loài vượn cổ này đã có thể ăn hoa quả và một số động vật nhỏ. Qua thời gian hơn hai triệu năm lao động, vào khoảng 3 triệu – 4 triệu năm trước, người vượn tối cổ được tiến hóa từ người vượn cổ. Vào thời điểm này người tối cổ đã có thể đứng bằng hai chân, sử dụng hai tay để cầm nắm và dần sần đi đứng thẳng hơn, đôi tay linh hoạt hơn. Về hộp sọ của người tối cổ khá lớn, xương của người tối cổ được tìm thấy ở Đông Phi, Giava (Inđônêxia), Bắc Kinh (Trung Quốc), Thanh Hóa (Việt Nam).

    2. Đặc điểm của người tối cổ:

    Do người tối cổ là sự tiến hóa từ người vượn cổ nên vẫn có dấu tích của loài vượn cổ:  phần trán thấp và bợt ra phía sau, mày nổi cao, xương hàm nhô ra phía trước, trên người vẫn còn một lớp lông bao phủ.

    Người tối cổ hầu như đã hoàn toàn đi, đứng bằng hai chân, đôi tay được tự do để sử dụng công cụ, kiếm thức ăn. Hộp sọ đã phát triển ((khoảng 900 cm3, so với người hiện đại là 1500 cm3, vượn hiện đại là 600cm3) nên người tối cổ đã biết cách chế tạo các công cụ đá gọi là đồ đá cũ. Người tối cổ có ngôn ngữ và tôn giáo. Thường họ sống thành bầy có người đứng đầu gia đình. Và bắt đầu hình thành nên bầy người nguyên thủy.

    So với người vượn cổ, người tối cổ tiến hóa hơn ở những đặc điểm như sau:

    + Đã thoát li khỏi leo trèo, có khả năng đứng thẳng trên mặt đất.

    + Đi bằng hai chân, thể tích não lớn hơn, biết ghè đẽo đá làm công cụ lao động.

    3. Cuộc sống của người tối cổ:

    Người tối tổ có cuộc sống phụ thuộc vào thiên nhiên. Hoạt động chính của người tối cổ và săn bắt và hái lượm, họ sinh sống ở trong các hang động hoặc tiến bộ hơn là dựng leeuf hoặc ở dưới các mái nhà. Ban ngày, người tưới cổ đi hái lượm hoa quả và săn bắn thủ để sinh sông, ban đêm người tối cổ ngủ trong các hang động. lều được lợp bằng cành cây hoặc lợp bằng lá, bằng cỏ, hoặc dưới các mái đá. Dù đã có sự tiến bộ rằng biết sử dụng công cụ lao động và phát minh ra lửa nhưng người tối cổ nhưng người tối cổ vẫn chưa tự chủ với thiên nhiên.

    Tổ chức của người tối cổ là bầy người nguyên thủy. Các bầy người nguyên thủy được hình thành từ năm đến bảy người tối cổ, những người này có quan hệ huyết thống ruột thịt. Nhóm người nguyên thủy này sẽ có người đứng đầu, thực hiện chế độ cùng làm cùng hưởng và có sự phân công rõ ràng trong lao động giữa nam và nữ.

    Và phương thức kiếm sống của người tối cổ chính là săn bắt và hái lượm.

    Phát minh quan trọng nhất của người tối cổ có thể xác định là biết cách tạo ra lửa. Nhờ vào phát minh vĩ đại nhất mà con người có thể sử dụng một thứ năng lượng quan trọng bậc nhất.

    Từ chỗ giữ lửa, lấy lửa trong tự nhiên hàng ngày, người tối cổ đã biết ghè hai mảnh đá với nhau để lấy lửa.

    Với cách làm này, họ đã đã chuyển từ ăn thức ăn sống sang ăn chín, dùng lửa để sưởi ấm và đuổi dã thú. Ý nghĩa của của đời sống căn bản đã được cải thiện.

    4. Sự tiến hóa của người tối cổ:

    Kế tiếp giai đoạn của người tối cổ là người tinh khôn. Vào khoảng bốn vạn năm trước, người tinh khôn đã được tiến hóa từ người tối cổ sau khi đã loại bỏ hết những dấu tích vượn trên người. So với người hiện đại, người tinh khôn có cấu tạo cơ thể khá giống người hiện đại, tuy nhiên phần xương cốt của có vẻ bé hơn, nhưng xương cốt người tinh khôn lại có phần nhỏ hơn người tối cổ. Họ có đôi bàn tay nhỏ, khéo léo, linh hoạt, hộp sọ và thể tích não phát triển hơn người tối cổ. Tuy nhiên, người tinh khôn không phải là tổ tiên trực tiếp của người hiện đại mà là 1 nhánh phát triển trong chi Homo cùng tồn tại trong 1 thời gian dài, sau đó biến mất nhường chỗ cho người hiện đại. Người tinh khôn có tầm thước trung bình khoảng 1.55 – 1.66m, hộp sọ 1400 cm3, xương hàm gần giống với người, có lồi cằm (có thể đã có tiếng nói). Người tinh khôn  chủ yếu sống thành đàn khoảng 50 -100 người và sống trong các hang. Người tinh khôn đã biết dùng lửa thông thạo hơn người tối cổ, tuy nhiên hoạt động chủ yếu của họ vẫn là săn bắn và hái lượm.

    Và tiếp đó, đến sự phát triển của người hiện đại. Người hiện đại đã biết chế tạo và sử dụng nhiều công cụ tinh xảo bằng đá, xương, sừng như rìu có lỗ để tra cán, lao nhọn có ngạnh, kim khâu và móc câu bằng xương. Những người hiện đại sống theo bộ lạc, họ có nền văn hóa phức tạp hơn và bắt đầu nhen nhóm mỹ thuật, tôn giáo.

    Qua quá trình phát triển lâu dài, loài người đã phân hóa thành 1 số chủng tộc, phân bố khắp các châu lục. Tuy nhiên, suy cho cùng, con người đều có nguồn gốc chung và cùng thuộc chủng loại loài người, trong đó:

    – Người da vàng sống chủ yếu ở Châu Á

    – Người da trắng sống chủ yếu ở Châu Âu

    – Người da đen sống chủ yếu ở Châu Phi

    5. So sánh người tối cổ với người tinh khôn:

    Nội dung so sánh

    Người tối cổ

    Người tinh khôn

    Con người

    – Hầu như có thể đi, đứng bằng hai chân.

    – Đầu nhỏ, trán thấp và bợt ra sau, hàm nhô về phía trước,…

    – Trên cơ thể còn bao phủ bởi một lớp lông mỏng.

    – Dáng đứng thẳng (như người ngày nay).

    – Thể tích hộp sọ lớn hơn, trán cao, hàm không nhô về phía trước như Người tối cổ.

    – Lớp lông mỏng không còn.

    Công cụ sản xuất

    Biết chế tạo công cụ: lấy những mảnh đá hay hòn cuội lớn, đem ghè một mặt cho sắc và vừa tay cầm.

    – Ghè hai rìa của một mảnh đá, làm cho nó gọn và sắc cạnh hơn dùng làm rìu, dao, nạo.

    – Lấy xương cá, cành cây để làm lao, biết chế tạo cung tên.

    Tổ chức xã hội

    – Bầy người nguyên thủy: sống theo bầy, gồm khoảng vài chục người.

    – Ban ngày: hái lượm hoa quả và săn bắt thú rừng. Ban đêm: họ ngủ trong các hang động, dưới mái đá hoặc trong những túp lều làm bằng cây, lợp lá hoặc cỏ khô.

    – Biết dùng lửa để sưởi ấm, nướng thức ăn và xua đuổi thú dữ.

    – Sống theo từng thị tộc: các nhóm nhỏ, gồm vài chục gia đình, có họ hàng gần gũi với nhau. Những người cùng thị tộc đều làm chung, ăn chung và giúp đỡ lẫn nhau trong mọi công việc.

    – Biết trồng rau, trồng lúa, chăn nuôi gia súc, dệt vải, làm đồ gốm và đồ trang sức như vòng tay, vòng cổ.

    – Đời sống được cải thiện hơn, thức ăn kiếm được nhiều hơn và sống tốt hơn, vui hơn.