Nhận diện mối nguy và đánh giá rủi ro theo tiêu chuẩn OHSAS – Quan trắc môi trường lao động EUC
V. Đánh giá rủi ro
Mọi công việc đều tiềm ẩn những rủi ro trong đó. Muốn công việc tiến hành một cách hiệu quả và an toàn, phải đánh giá rủi ro cho chính công việc đó.
5.1. Định nghĩa
Đánh giá rủi ro là quá trình tìm hiểu những rủi ro có thể và sẽ liên quan tới công việc chuẩn bị thực hiện, phải chỉ ra cụ thể những rủi ro có thể gặp. Xây dựng những biện pháp kiểm soát để thực thi công việc một cách hiệu quả nhất, an toàn nhất, nhằm tránh gây tai nạn cho con người, hư hại tài sản, thiết bị và tổn hại môi trường.
5.2. Phân loại rủi ro
Dựa vào các rủi ro, chúng ta phân tích, đo lường (xác định) và xếp loại thành 3 hạng như sau:
– Rủi ro mức cao
– Rủi ro mức trung bình
– Rủi ro mức thấp
5.2.1. Thời điểm đánh giá rủi ro
Trước khi làm việc đều có thể tiến hành đánh giá rủi ro cho hành động, công việc chuẩn bị tiến hành.
Ví dụ chúng ta chuẩn bị di chuyển một cốc nước từ bàn này qua bàn kia.
– Điều gì sẽ xảy ra trong quá trình vận chuyển?
– Ly nước có nóng không?
– Tay cầm có sắc cạnh không?
– Ly nước có quá đầy để di chuyển hay không?
– Có vật gì vướng trong quá trình di chuyển hay không?
5.2.2. Người đánh giá rủi ro
Người tham gia quá trình đánh giá rủi ro phải nắm được nguyên tắc và trình tự đánh giá. Người tham gia đánh giá rủi ro phải có kinh nghiệm trong công việc mà mình sẽ tham gia đánh giá. Một bản đánh giá rủi ro không thể hoàn hảo khi được chuẩn bị bằng 1 hoặc 2 người. Ít nhất nên có từ 3 đến 5 thành viên tham gia vào nhóm đánh giá rủi ro. Nhóm này cần có các kiến thứ về tổ chức công việc, cơ khí, điện, hóa chất, y tế…
5.3. Các bước đánh giá rủi ro
5.3.1. Chia công việc thành từng bước tiến hành
Phải chia nhỏ công việc sẽ tiến hành thành những bước thực hiện nhỏ hơn, theo trình tự trước sau. Các bước chia không nên quá chi tiết mà bỏ qua những bước chính, những bước cần thiết hoặc các hành động phát sinh. Các bước tiến hành thực sự rành rọt và liên quan cụ thể trực tiếp tới từng diễn biến cũng như mức độ nguy hiểm đang, sẽ và có thể xảy ra khi tiến hành công việc.
5.3.2. Nhận diện những mối nguy hiểm, xác định mức độ rủi ro
5.3.2.1. Mối nguy
Bất cứ cái gì, điều gì có thể gây thương tích cho con người, làm hư hỏng tài sản và hủy hoại môi trường đều là mối nguy hiểm. Các mối nguy hiểm có thể hiện hữu hoặc không hiện hữu. Thông thường các vật dụng, đồ dùng, dụng cụ, máy móc..vv chúng đều là những mối nguy hiểm.
5.3.2.2. Phân loại mối nguy
Để tiện phân tích, người ta chia mối nguy thành ba loại: mối nguy vật chất, mối nguy đạo đức và mối nguy tinh thần.
Mối nguy vật chất
Tình trạng vật chất yếu kém làm tăng khả năng xảy ra mất mát.
Tình trạng đường sá ở Việt Nam ta là ví dụ sống động về mối nguy vật chất. Một số nơi đèn đường không đủ sáng, có ổ gà, việc phân luồng phân tuyến cho xe chạy không hợp lý là những mối nguy làm cho tai nạn xảy ra thường xuyên hơn.
Mối nguy đạo đức
Sự không trung thực của một cá nhân nào đó làm tăng khả năng xảy ra mất mát.
Ví dụ có người mua bảo hiểm cho căn nhà của mình rồi gây hỏa hoạn để lấy tiền bồi thường, hay một người biết mình bị ung thư nhưng vẫn khai là sức khỏe của mình tốt để mua bảo hiểm và được bồi thường.
Mối nguy tinh thần
Sự bất cẩn hay thờ ơ của một cá nhân dẫn đến mất mát vì người này chủ quan cho rằng mình đã mua bảo hiểm.
Ví dụ một người cứ nghĩ mình đã có bảo hiểm nên cứ phóng xe ào ào giữa phố xá đông người mặc dù thỉnh thoảng trong người có hơi men.
Việc xác định mối nguy đạo đức và mối nguy tinh thần có ý nghĩa quan trọng, nhất là đối với các hãng bảo hiểm khi ký hợp đồng với khách hàng.
Để tránh mối nguy đạo đức, họ phải thiết lập một hệ thống phân loại và đánh giá rủi ro trước khi bảo hiểm một cách hiệu quả.
Mối nguy tinh thần thì khó xác định hơn nên có khi công ty bảo hiểm không chịu bồi thường toàn bộ mà người mua bảo hiểm cũng phải chịu trách nhiệm chi trả trong một hạn mức quy định hoặc cùng công ty bảo hiểm thanh toán một phần chi phí.
Từ đó chúng ta rút ra được bài học: trong cuộc sống hay trên thương trường, ai hiểu biết về rủi ro nhiều hơn sẽ trở thành người chiến thắng.
5.3.2.3. Mức độ nguy hiểm
Nếu so sánh giữa một chiếc xe máy chạy trên đường với vận tốc 50km một giờ và một chiếc ô tô cùng vận tốc thì rõ ràng chiếc ô tô gây ra một mức độ nguy hiểm cao hơn chiếc xe máy. Hoặc so sánh cùng một chiếc ô tô ở 2 vận tốc khác nhau thì ta thấy chiếc xe nào chạy nhanh hơn sẽ có mức độ nguy hiểm cao hơn. Mặt khác nếu một chiếc xe chở nhiều người gây ra tai nạn thì mức độ thiệt hại sẽ cao hơn so với chiếc xe đó gây tai nạn khi chỉ chở ít người.
Mức độ nguy hiểm chính là hậu quả gây ra bởi một sự cố hoặc tai nạn nào đó.
5.3.2.4. Tần suất nguy hiểm
Khi tôi đi qua một đoạn đường vắng thì chắc chắn tôi sẽ an toàn hơn đi qua một đoạn đường đầy xe lưu thông. Lượng xe càng nhiều thì khả năng va chạm của tôi càng cao. Cũng như thế nếu như tôi làm việc gì đó nhiều lần trong một khoảng thời gian nhất định, khả năng gặp nguy hiểm sẽ tăng lên.
Tần suất nguy hiểm tỷ lệ thuận với những lần tiếp xúc với các thiết bị làm việc hoặc những mối nguy hiểm trong công việc đó.
5.3.2.5. Rủi ro
Rủi ro chính là sự kết hợp giữa mức độ nguy hiểm và tần xuất xảy ra hoặc có thể xảy ra.
Rủi ro = Mức độ nguy hiểm x Tần suất có thể xảy ra
Theo nhiều nhà phân tích, rủi ro chỉ phát sinh khi có một sự không chắc chắn về mất mát sẽ xảy ra. Với khái niệm về rủi ro này, nếu xác suất mất mát là 0 hoặc 1, thì không có rủi ro.
Ví dụ, nếu một người nhảy từ tòa nhà cao 30 tầng xuống mặt đất thì cầm chắc cái chết. Mặc dù có chuyện mất mát về nhân mạng nhưng đây không phải là rủi ro vì hậu quả đã thấy trước. Tuy nhiên, nếu một cascadeur nhảy từ lầu cao xuống đất bằng dù thì người này có thể chết hay không chết. Trong trường hợp này có sự không chắc chắn về hậu quả, tức là có rủi ro trong hành động của người diễn viên đóng thế này.
Nói đến rủi ro không thể bỏ qua khái niệm về xác suất hay là khả năng xảy ra mất mát. Xác suất khách quan – còn gọi là xác suất tiên nghiệm được xác định bằng phương pháp diễn dịch.
Ví dụ như đồng tiền sấp hay ngửa thì xác suất của nó là 50%.
Tuy nhiên, xác suất khách quan có lúc không thể xác định bằng tư duy logic. Chẳng hạn như không thể suy diễn rằng xác suất của một người đàn ông lái xe hơi có gây tai nạn hay không trong năm tới là 50% bởi còn nhiều yếu tố liên quan khác như độ tuổi, xe cũ hay mới… Tuy nhiên, bằng cách phân tích kỹ lưỡng những trường hợp tai nạn xe hơi trước đây, người ta có thể ước tính xác suất tai nạn theo lối suy luận quy nạp.
Ngoài xác suất khách quan, có thể kể thêm xác suất chủ quan là ước tính của từng cá nhân đối với khả năng xảy ra mất mát.
Ví dụ như nếu có 1 triệu vé số bán ra chỉ có 1 người trúng thì xác suất khách quan là 1 phần triệu. Mặc dù vậy vẫn có nhiều người mua nhiều vé số vì xác suất chủ quan của họ cao hơn. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến xác suất chủ quan như tuổi, giới tính, trình độ học vấn và cả óc mê tín dị đoan… Để hiểu thêm về rủi ro cần phân biệt sự khác nhau giữa hiểm họa và mối nguy. Hiểm họa được hiểu như là nguyên nhân dẫn đến mất mát.
Ví dụ một ngôi nhà bị cháy thì hỏa hoạn là hiểm họa đã gây ra thiệt hại đối với ngôi nhà; hai xe hơi đụng nhau thì việc đụng xe là hiểm họa làm cho xe bị hư hỏng.
Trong khi đó, mối nguy được xem là tác nhân làm tăng khả năng xảy ra mất mát. Nếu như hỏa hoạn được xem là hiểm họa thì dầu lửa trong khu vực hỏa hoạn được xem là mối nguy.
5.3.2.6. Những câu hỏi thường dùng trong quá trình đánh giá rủi ro
Một quy tắc rất chung là: Ai? Làm gì ? Ở đâu ? Khi nào ? và làm như thế nào ?
– Có thực sự cần thiết tiến hành công việc này hay không?
– Công việc này đã từng được thực hiện hay chưa?
– Có cách nào khác thực hiện công việc này hay không?
-Ai tham gia làm việc này?
– Có yêu cầu đặc biệt gì về thể chất, điều kiện sức khỏe cho người tiến hành công việc không?
– Dụng cụ và thiết bị nào sẽ liên quan tới quá trình thực hiện?
– Khi nào bắt đầu công việc, và khi nào kết thúc công việc?
– Điều kiện thời gian và thời tiết có ảnh hưởng gì đến quá trình thực hiện hay không?
– Có công việc nào cùng thực hiện tại địa điểm đó?
– Yêu cầu kỹ thuật nào cho công việc này?
– Các cách liên lạc cũng như trao đổi thông tin?
– Điều gì sẽ xảy ra nếu thay đổi tiến trình công việc?
– Những mối nguy hiểm nào đang hiện hữu tại khu vực sẽ tiến hành công việc?
– Những mối nguy hiểm nào có thể xảy ra khi công việc đang tiến hành?
– Những mối nguy hiểm tiềm ẩn nào có thể xuất hiện khi bị tác động bởi những hành vi có thể liên quan?
– Mức độ tác động của các mối nguy hiểm tới công việc, người thực hiện công việc và môi trường làm việc?
– Là thế nào để cách ly những mối nguy hiểm đã được nhận diện?
– Làm thế nào để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tối đa những rủi ro cho người thực hiện cũng như môi trường làm việc?
– Trách nhiệm thực thi thuộc về ai?
– Trang bị bảo hộ cá nhân nào? Cụ thể và chi tiết yêu cầu kỹ thuật
5.3.3. Tiến trình đánh giá rủi ro
5.3.4. Các phương pháp đánh giá rủi ro
5.3.5. Quy định về xác suất – hậu quả
Như chúng ta đã biết:
Rủi ro = Tính nghiêm trọng của hậu quả x Xác suất xảy ra
5.3.6. Bảng đánh giá rủi ro
Bảng đánh giá rủi ro phải được ghi lại một cách rõ ràng, nếu cần sẽ phải dịch ra ngôn ngữ mà người tham gia làm việc hiểu được.
Bảng đánh giá rủi ro phải ghi rõ cho từng công việc, thời gian cũng như địa điểm thực hiện.
Bảng đánh giá rủi ro cần ghi rõ những nguy hiểm hiện hữu hoặc tiềm ẩn có thể tác động tới quá trình tiến hành công việc.
Những tác động đó gây ra ở mức độ nào, những ai sẽ bị ảnh hưởng…
Bảng đánh giá rủi ro cũng cần nêu rõ tên những người đã tham gia quá trình đánh giá cũng như người có thẩm quyền phê duyệt…
5.3.6.1. Ma trận rủi ro
Bảng 1. Tính nghiêm trọng của mối nguy
0
Không thương tật, bênh tật, không vi phạm luật định
1
Thương tật nhẹ, bênh nhẹ, không vi phạm luật định
2
Nghỉ việc do chấn thương nhưng không mất khả năng lao động, có khả năng vi phạm luật định
3
Chết người, mất khả năng lao động, vi phạm luật định
Bảng 2. Xác suất xảy ra của mối nguy
0
Không xảy ra hoặc rất ít khi xảy ra
1
Thỉnh thoảng có xảy ra
2
Thường xuyên xảy ra
Bảng 3. Ma trận rủi ro
Bảng 4. Quy định mức độ rủi ro
Mức độ rủi ro
Các yêu cầu kiểm soát
0 – Tầm thường
Rủi ro không đáng kể, liên quan đến những hoạt động đã có thủ tục kiểm soát
1 – Có thể chấp nhận
Rủi ro được giảm đến mức chấp nhận được, đơn vị có thể chịu được
2 – Vừa phải, có mức độ
Yêu cầu phải có biện pháp kiểm soát và cải tiến thêm, có thể yêu cầu giám sát thêm định kỳ
3 – Thật sự đáng kể
Không chấp nhận được nhưng hoạt động vẫn còn có thể cho phép thực hiện dưới sự giám sát đặc biệt
4 – Không chấp nhận được
Không chấp nhận được, phải dừng hoạt động
6 – Quá đáng
Rủi ro đe dọa đến sự sinh tồn của đơn vị và cộng đồng
5.3.6.2. Bảng đánh giá rủi ro
vi. Các biện pháp kiểm soát rủi ro
6.1. Kiểm soát rủi ro
Những kỹ thuật, những công cụ, những chiến lược và những quá trình nhằm biến đổi rủi ro của một tổ chức thông qua việc né tránh, ngăn ngừa, giảm thiểu bằng cách kiểm soát tần suất và mức độ của rủi ro và tổn thất hoặc lợi ích.
6.1.1. Phân tích các phương pháp, các kỹ thuật rủi ro
6.1.1.1. Né tránh (chấm dứt) rủi ro
Né tránh những hoạt động, con người, tài sản làm phát sinh tổn thất có thể có hoặc loại bỏ nguyên nhân dẫn tới tổn thất.
– Biện pháp này đơn giản, triệt để và chi phí thấp
– Có thể mất đi lợi ích có được từ tài sản và hoạt động đó
– Có thể tránh được rủi ro này nhưng lại gặp phải rủi ro khác.
– Có tình huống không thể né tránh hoặc nguyên nhân của rủi ro gắn chặt với bản chất hoạt động.
Ví dụ:
Để vào Ba Son phải đi qua cây cầu lún Văn Thánh 2, nhưng vì cầu bị lún nhiều nên người ta mới cho lưu thông trên 1 nửa phần cầu để sửa chữa nửa phần cầu kia. Vì số lượng lưu thông trên nửa phần cầu kia quá nhiều làm cho cây cầu xuống cấp nhanh hơn, thế là sau 1 thời gian cả 2 nửa cây cầu đều bị hỏng (tránh được rủi ro này nhưng lai gặp rủi ro khác)
6.1.1.2. Ngăn ngừa tổn thất
Tìm cách giảm bớt số lượng các tổn thất xảy ra hoặc loại bỏ chúng hoàn toàn. Ở đây, chuỗi rủi ro là rất quan trọng vì các hoạt động ngăn ngừa rủi ro tìm cách can thiệp vào ba mắt xích đầu tiên của chuỗi : sự nguy hiểm, môi trường rủi ro, sự tương tác giữa mối nguy hiểm và môi trường. Điều đó có nghĩa là các hoạt động ngăn ngừa rủi ro tập trung vào:
Thay thế hoặc sửa đổi hiểm hoạ
Thay thế hoặc sửa đổi môi trường
Thay thế hoặc sửa đổi cơ chế tương tác
– Có lợi thế trong việc giảm thiểu tổn thất cho từng tổ chức riêng biệt.
– Chỉ hạn chế được 1 phần của rủi ro
Ví dụ :
Giữ nhà bất cẩn – Chương trình huấn luyện và theo dõi
Nạn lụt – Xây đập, quản lý nguồn nước
Hút thuốc – Cấm hút thuốc, tịch thu vật liệu liên quan đến hút thuốc
Nạn ô nhiễm – Ban hành quy định, chính sách về việc sử dụng và thải các chất gây ô nhiễm
Giảm thiểu tổn thất:
Nội dung: Các biện pháp giảm thiểu tổn thất tấn công vào các rủi ro bằng cách làm giảm bớt giá trị hư hại khi tổn thất xảy ra (tức giảm nhẹ sự nghiêm trọng của tổn thất). Những hoạt động giảm thiểu tổn thất là những biện pháp sau khi tổn thất đã xảy ra. Mặc dù những biện pháp này được đặt ra trước khi một tổn thất nào đó xuất hiện, những chức năng hoặc mục đích của những biện pháp này là làm giảm tác động của tổn thất một cách hiệu quả nhất
Ưu điểm : làm giảm tổn thất của rủi ro đã xảy ra
Nhược điểm : thực hiện khi rủi ro đã xảy ra
Ví dụ : trong các công ty người ta trang bị hệ thống chữa cháy tự động, khi có cháy hệ thống sẽ tự phun nước chữa cháy và báo động. Lắp đặt hệ thống này không làm giảm nguy cơ xảy ra cháy nhưng nó làm giảm tổn thất khi có cháy xảy ra.
Quản trị thông tin;
Nội dung : Thông tin bắt nguồn từ phòng quản trị rủi ro của một tổ chức có một ảnh hưởng quan trọng trong việc giảm thiểu những bất định của những người có quyền lợi gắn liền với tổ chức. Phòng quản trị rủi ro của một tổ chức phải cung cấp thông tin để xác định hiệu quả của việc đo lường kiểm soát rủi ro và những mục tiêu trong tương lai họ cần đạt được. Thông tin đáng tin cậy từ phòng quản trị rủi ro có thể cung cấp cho những người có quyền lợi gắn liền với tổ chức sự đảm bảo rằng tổ chức không và sẽ không hành động có hại đến lợi ích của họ.
Ưu điểm : cung cấp thông tin về rủi ro giúp các nhà quản trị rủi ro đưa ra các biện pháp hiệu quả nhất để ngăn ngừa, hạn chế rủi ro.
Nhược điểm : việc cung cấp thông tin thiếu chính xác có thể làm cho việc phòng tránh,ngăn ngừa, hạn chế rủi ro không hiệu quả gây tổn thất .
Ví dụ: các trung tâm dự báo thời tiết khi có bão sẽ cung cấp các thông tin liên quan tới cơn bão như tốc độ gió,hướng đi, các vùng có khả năng bị bão đổ bộ. Việc cung cấp thông tin liên quan này rất cần thiết để cho các cơ quan chức năng đưa ra các biện pháp phòng chống, ngăn ngừa tổn thất khi bão đổ bộ vào đất liền.
6.1.1.3. Chuyển giao kiểm soát
Chuyển giao rủi ro là công cụ kiểm soát rủi ro, tạo ra nhiều thực thể khác nhau thay vì một thực thể phải gánh chịu rủi ro. Chuyển giao rủi ro có thể được thực hiện bằng 2 cách :
Thứ nhất: Chuyển tài sản và hoạt động có rủi ro đến một người hay một nhóm người khác.
Ví dụ :
Khi thực hiện hợp đồng, thông thường một công ty gánh chịu tổn thất là sự gia tăng giá cả lao động và nguyên vật liệu, do đó để đảm bảo cho nhà máy của công ty hoạt động công ty có thể thuê các nhà thầu phụ có giá ổn định .
Hình thức chuyển giao rủi ro này có liên quan mật thiết với một biện pháp né tránh rủi ro là loại bỏ những nguyên nhân gây rủi ro.
Đây là một biện pháp kiểm soát rủi ro vì nó loại bỏ những tổn thất tiềm ẩn gây hại cho tổ chức, đồng thời tránh bị hủy bỏ hợp đồng vì rủi ro của hợp đồng đã được chuyển đến cá nhân hoặc tổ chức khác.
Thứ hai: Chuyển giao bằng hợp đồng giao ước : chỉ chuyển giaoThứ rủi ro, không chuyển giao tài sản và hoạt động của nó đến người nhận rủi ro.
Ví dụ :
Người đi thuê nhà phải chịu trách nhiệm thiệt hại về căn nhà mình thuê.
Người bán lẻ chịu trách nhiệm về thiệt hại sản phẩm sau khi nhà sản xuất đã giao hàng cho dù nhà sản xuất lẽ ra phải chịu trách nhiệm.
Người tiêu thụ có thể không khiếu nại về những thiệt hại tài sản và con người do lỗi của sản phẩm hay dịch vụ.
Ưu điểm : giúp doanh nghiệp loại bỏ 1 số rủi ro tìm ẩn gây hại cho tổ chức
Nhược điểm : người nhận rủi ro không có khả năng kiểm soát rủi ro
Đa dạng hóa:
Nội dung : Đây là một nỗ lực của tổ chức làm giảm sự tác động của tổn thất lên toàn bộ công ty. Kỹ thuật này thường sử dụng nhiều cho rủi ro suy đoán, đặc biệt là trong đầu tư chứng khoán Portfolio. Portfolio thường gọi là bộ chứng khoán, danh mục chứng khoán hay cấu trúc chứng khoán. Bằng cách khéo léo lựa chọn các chứng khoán trong bộ portfolio, chúng ta có thể giảm được rủi ro tổng thể của công ty. Rủi ro của portfolio phụ thuộc vào các biến chủ yếu sau :
Hệ số tương quan giữa các thành phần tham gia
Tỷ trọng các thành phần
Số lượng các thành phần
Rủi ro của từng thành phần
Ưu điểm: dùng may mắn của rủi ro này bù đắp cho tổn thất của rủi ro khác.
Ưu điểm :giảm được tổn thất bằng cách phân chia rủi ro thành nhiều dạng khác nhau và tận dụng sự khác biệt để dùng may mắn của rủi ro này bù đắp cho rủi ro khác.
Nhược điểm :
Ví dụ : là 1 đại lý bán nước ngọt chúng ta nên lấy nước ngọt từ nhiều hãng khác nhau, điều này đảm bảo cho khách hàng nhiều sự lựa chọn hơn và đảm bảo được nguồn hàng cung cấp cho người tiêu dùng.
Phân tích mối quan hệ giữa phân tích rủi ro và kiểm soát rủi ro
Bằng cách phân tích các mắc xích trong chuỗi rủi ro,từ đó xác định được mọi nguy cơ rủi ro, dự báo được các rủi ro trong tương lai. Từ đó đưa ra những biện pháp kiểm soát phù hợp, kịp thời để tránh và hạn chế tối đa nguy cơ rủi ro về tài sản, trách nhiệm pháp lý, nguồn nhân lực.
Chuỗi rủi ro gồm năm mắc xích cơ bản:
• Mối hiểm họa: là những điều kiện dẫn tới tổn thất
Ví dụ: một bộ phận của máy móc được bảo quản không đúng cách.
• Yếu tố môi trường: là bối cảnh mà trong đó nguy hiểm tồn tại.
Ví dụ: sàn của phân xưởng nơi bộ phận máy móc này được lắp đặt.
• Sự tương tác: là quá trình mà mối hiểm họa và môi trường rủi ro tác động lẫn nhau, đôi khi không có ảnh hưởng nhưng đôi khi dẫn đến tổn thất
Ví dụ: một người công nhân vận hành thiết bị không được bảo hành đúng cách có thể bị tai nạn vì tấm chắn bảo vệ không được đặt đúng chỗ khi mũi khoan bị gãy.
• Kết quả cói thể là tốt hay xấu: là kết quả trực tiếp của sự tác động.
Ví dụ: trong trường hợp trên là bị tổn thương nghiêm trọng ở mắt.
• Những hậu quả: không phải là những kết quả trực tiếp (bị tổn thương ở mắt) mà là những hậu quả lâu dài do sự cố xảy ra (sự khiếu nại bồi thường của công nhân khi bị tổn thương, sửa chữa máy móc, chi phí thuốc men, y tế…)
Cho 1 ví dụ cụ thể phân tích rõ 5 mắc xích của chuỗi rủi ro này :
Vd : hiện tượng nhiễu điện gây giật chết người tại một số cột điên tại tp HCM
1. Mối hiểm họa: là những điều kiện dẫn đến tổn thất. Ví dụ : Một số bộ phận của thiết bị điện được bảo quản không đúng cách, có nhiều dây điện được căng quá thấp dễ bị xe làm đứt, có quá nhiều dây điện, dây điện thoại trên cột điện gây khó khăn cho quá trình kiểm tra độ an toàn.
2. Yếu tố môi trường : là bối cảnh mà trong đó nguy hiểm tồn tại. Ví dụ : Hệ thống thoát nước của thành phố kém, dẫn đến hiện tượng ngập nước trên đường làm môi trường dẫn điện gây chết người .
3. Sự tương tác: là quá trình mà mối hiểm họa và môi trường rủi ro tác động lẫn nhau, đôi khi không có ảnh hưởng nhưng đôi khi dẫn đến tổn thất. Ví dụ : khi trời mưa lớn nước không thoát kịp gây ngập nước trên đường kết hợp với sự nhiễu điện từ những dây điện được bảo quản tốt, bị đứt là nguyên nhân gây giật điện chết người.
4. Kết qủa có thể là tốt hay xấu : là kết quả trực tiếp của sự tác động. Ví dụ: trong trường hợp này là giật điện chết người.
5. Những hậu quả : không phải là những kết quả trực tiếp (việc chết người) mà là những hậu quả lâu dài của sự cố xảy ra (sự khiếu nại bồi thường của công nhân khi bị chết, sửa chữa máy móc, chi phí thuốc men, y tế….)
è Một số giải pháp để khắc phục rủi ro này ;
Sử dụng hệ thống điện ngầm dưới lòng đất
Kiểm tra thường xuyên mức độ an toàn của thiết bị điện
Quản lý nguồn gốc của dây điện mắc trên cột điện và quy trách nhiệm rõ ràng khi sự cố xảy ra
Xây dựng hệ thống thoát nước có dủ khả năng thoát nước khi có mưa lớn xảy ra
Có rất nhiều biện pháp kiển soát rủi ro, tuy nhiên tùy vào tình hình và điều kiện công việc cụ thể của môi trường làm việc cũng như công việc đặc thù mà nhóm đánh giá rủi ro sẽ lựa chọn các hình thức phù hợp nhất với từng mối rủi ro cụ thể. Các biện pháp có thể khác nhau, nhưng chúng ta nên tuân theo các mức độ ưu tiên sau để lựa chọn hình thức phù hợp với mỗi bước tiến hành công việc:
– Cách ly: cách ly các mối nguy hiểm ra khỏi khu vực làm việc nhằm tránh tiếp xúc với chúng
– Thay thế: thay thế những mối mối nguy hiểm bằng những điệu kiện, thiết bị… an toàn hơn
– Chế tạo: sửa đổi, cung cấp thêm các thiết bị hay biện pháp bảo vệ khi tiếp xức với các mối nguy hiểm
– Chính sách: cung cấp một chính sách hay chế độ và thời gian làm việc phù hợp.
– Trang bị bảo hộ lao động (trang bị bảo hộ cá nhân): trang bị bảo hộ cá nhân luôn là sự lựa chọn cuối cùng trong khi tất cả các sự lưa chọn trên đã được xem xét và tiến hành. Nên nhớ là trang bị bảo hộ lao động là cần thiết, nhưng chúng không hoàn toàn bảo vệ được bạn đâu.
6.2. Tiến trình hoạch định kiểm soát rủi ro
Thực hiện an toàn-sức khỏe nghề nghiệp:
Kết quả đo lường về việc quản lý rủi ro trong hệ thống AT-SKNN của đơn vị.
Nói dễ hiểu:
Những biện pháp kiểm soát, phòng ngừa, hạn chế TNLĐ và các văn bản quy phạm của pháp luật (Nhà nước, quân đội và của đơn vị).
Kết luận :
Đánh giá rủi ro là một trong những quy trình quan trọng khi thực hiện những công việc phức tạp hoặc mang tính rủi ro caoBảng đánh giá rủi ro là cầu nối thông tin mật thiết về vần đề an toàn giữa các bên thực hiện công việc.Hãy thực thi quá trình đánh giá rủi ro cho những công việc đặc thù của bạn, nếu công việc được lặp lại vào thời gian hoặc địa điểm khác nhau thì bảng đánh giá rủi ro phải được xem xét lại và cập nhật các thông tin liên quan và cần thiết khác.Trên đây chỉ là những hướng dẫn chung về quá trình đánh giá rủi ro…