Những giá trị đặc sắc của văn hoá người Hoa ở Việt Nam
Văn hoá Việt Nam là kết tinh những tinh hoa văn hoá của 54 dân tộc anh em trong quá trình tụ cư, hỗn cư và hợp cư – quá trình giao tiếp, chọn lọc và thẩm nhận những giá trị văn hoá giữa dân tộc này với dân tộc khác – tạo nên sự thống nhất trong đa dạng về văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam .
Do những đặc thù về địa – lịch sử và địa – văn hoá, người Hoa và văn hoá Hoa ở Việt Nam có vị thế hết sức quan trọng. Người Hoa là một trong số các dân tộc thiểu số có số dân đông nhất ở Việt Nam ( khoảng trên dưới một triệu người) là Tày, Thái, Mường, Hoa, Khơ-me… Không giống như hầu hết các dân tộc ít người khác ở nước ta, người Hoa sống tập trung chủ yếu và đan xen với người Việt ở các khu vực đồng bằng ven biển và các thành phố lớn là các trọng điểm kinh tế và thương mại. Mặt khác, người Hoa là tộc người có trình độ phát triển cao về kinh tế và xã hội, lại có nhiều điểm tương đồng về văn hoá với người Việt.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về văn hoá ngời Hoa ở Việt Nam là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Dưới đây chúng tôi xin phép nêu một số ý kiến bước đầu về vị thế quan trọng của người Hoa và văn hoá của người Hoa ở Việt Nam
I – Người Hoa là một bộ phận hữu cơ của cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam
Vốn là cư dân của một dân tộc có đông dân vào loại nhất thế giới, lại có truyền thống lịch sử văn hoá lâu đời, những người Hoa ở Việt Nam đã tự nguyện trở thành một tộc người trong cộng đồng các tộc người thiểu số ở Việt Nam.
Sự có mặt của tộc người Hoa trên đất nước ta đã trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài, tuy nhiên, việc chuyển cư lớn nhất của người Hoa sang Việt Nam diễn ra từ sau khi nhà Thanh lật đổ nhà Minh. Cuộc cưỡng bức thay đổi nếp sống của người Hán đã buộc một số cư dân ở đó rời bỏ quê hương, vượt biển sang tìm đất sinh sống ở Đại Việt và nhiều quốc gia khác trong khu vực.
Do sớm có kinh nghiệm làm ăn buôn bán, nên từ hàng trăm năm trước, người Hoa thường tụ cư tại / hoặc tạo lập thành/ những trung tâm thương mại và đô thị dọc theo bờ biển từ Móng Cái, Hồng Gai, Hà Nội, Hải Phòng ở miền Bắc, qua Huế, Đà Nẵng, Hội An, Quy Nhơn, Nha Trang ở miền Trung tới Biên Hoà, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ và đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam.
Từ khi các triều đại phong kiến Việt Nam tiến hành mở cõi vào phương Nam thì người Hoa đã cùng có mặt ở đó. Năm 1707, dưới sự lãnh đạo của người anh hùng Mạc Cửu, cộng đồng người Hoa ở phía tây nam Đại Việt đã tự nguyện sát nhập toàn bộ khu vực đồng bằng sông Cửu Long vào lãnh thổ Việt Nam, và các chúa Nguyễn, đại diện cho nhà nước Việt Nam đương thời, đã chính thức công nhận những người Hoa tại đây là cư dân của đất Đại Việt .
Nhìn chung, người Hoa di cư vào Việt Nam vào những thời điểm khác nhau, thuộc những thành phần xã hội khác nhau. Họ là những nông dân do mất mùa, đói kém, phải tha hương cầu thực. Họ có thể là những thương nhân, và không ít người trong đoàn quân di cư của người Hoa là những người đi lánh nạn do tình hình chính trị trong nước bất ổn… Phần lớn những người di cư đến Việt Nam trước thế kỷ XVIII do cơ sở kinh tế còn yếu, lại chủ yếu là đàn ông nên thường lấy vợ Việt Nam, các tổ chức mang tính cộng đồng chưa được hình thành rõ nét… Những điều đó làm cho họ dễ dàng sống hòa nhập với dân sở tại, và thực sự hầu như họ đã hội nhập hoàn toàn vào cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Nhưng từ cuối thế kỷ XIX, đặc biệt đầu thế kỷ XX trở về sau, do bối cảnh chính trị, nguyên nhân kinh tế cùng tác động của những yếu tố khác, sự hoà nhập của ngời Hoa vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam diễn ra đa dạng hơn.
Trải qua quá trình chung lưng đấu cật để khai thác vùng đất mới, đặc biệt là qua hai cuộc kháng chiến gần đây, đại bộ phận ngời Hoa đã hoà nhập tự nhiên vào cộng đồng xã hội Việt Nam, gắn bó với quê hương Việt Nam, từ vô thức đến hữu thức.
Tuy nhiên, trong quá trình hoà nhập vào xã hội Việt Nam, những phẩm chất và giá trị đặc trưng văn hoá truyền thống của ngời Hoa vẫn được bảo giữ và phát huy nhưng đồng thời, cũng được bổ sung cho thích ứng với những điều kiện mới.
II- Những phẩm chất và giá trị truyền thống của người Hoa và văn hoá Hoa:
Tính cộng đồng dân tộc của người Hoa
Ngời Hoa vốn có tinh thần đoàn kết cộng đồng. Tinh thần đó càng được nhân lên trong hoàn cảnh cùng phải chuyển cư và định cư tại một vùng đất mới. Tổ chức Bang ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu cố kết cộng đồng. Mỗi Bang là một tổ chức có chung một ngôn ngữ, có chung quê gốc và chung quê mới. Trong cùng một Bang, ngời Hoa cùng nhau chăm lo cho cuộc sống của nhau: xây dựng trường học, các đình miếu, nghĩa trang. Các hoạt động ở các Bang nhằm thể hiện tình tương thân tương ái, thông qua các hoạt động tập thể như xây dựng các hội quán, lập các miếu thờ, lập trường học tiếng Hoa, lập các nghĩa địa riêng cho người Hoa và tiến hành các hoạt động văn hoá văn nghệ. Qua các hoạt động đó các giá trị văn hóa truyền thống được lưu giữ.
Hội quán là nơi hội họp các cư dân trong bang nhằm giải quyết các vấn đề của bang trong đời sống. Nếu có người Hoa mới sang mà không có thân nhân đón tiếp thì lập tức có người trong bang đón về nuôi ăn, giúp việc trong nhà, cho đến khi người đó tìm được việc làm. Bang còn đứng ra giúp đỡ tiền bạc để các thành viên mới ổn định cuộc sống.
Người Hoa chăm lo cho việc xây cất trường học. Các Bang đứng ra tổ chức quyên góp tiền xây dựng trường, lập Ban quản trị trường học, sắp xếp người phụ trách nhà trường. Các trường đều được xây cất chu đáo. Việc chăm lo trường lớp, chăm lo cho việc học của con em, được coi như là một nghĩa vụ của mỗi người Hoa. Đây là một nét đẹp truyền thống của người Hoa. Hầu như chỗ nào có trường học thì chỗ đó có Hội phụ huynh học sinh. Hội tham gia cùng nhà trường trong việc giáo dục trẻ em học tốt và có ý thức bảo quản tốt nhà trường.Việc xây dựng các trường học nhằm phổ biến tiếng Hoa trong cộng đồng người Hoa, qua đó vừa nâng cao dân trí, vừa giữ được truyền thống văn hoá. Một điều hầu như là phổ biến: chỗ nào có cộng đồng người Hoa cư trú thì nơi đó có trường dạy tiếng Hoa. Việc xây dựng nhà trường, việc tổ chức đội ngũ giáo viên đều do cộng đồng đóng góp. Các trường học đều được xây dựng khá kiên cố, học sinh được mặc đồng phục.
Các bang đều có nghĩa trang riêng. Các nghĩa trang đều có ban quản lý làm việc với tinh thần trách nhiệm cao và đươc xây cất khá chu đáo. Có người trực tiếp trông coi mồ mả, có sổ sách ghi vị trí ngôi mộ và tên tuổi người nằm dưới mộ. Trường hợp người chết không có thân nhân lo cải táng thì ban quản lý lo. Đối với người nghèo không có điều kiện mai táng, cải táng thì ban quản lý đứng ra lo giúp ( hoặc chi tiền của nghĩa trang, hoặc đi quyên góp).
Các hoạt động của nhà trường, của các đình miếu, của nghĩa trang đều do sự đóng góp hảo tâm của từng người. Người Hoa coi việc giúp đỡ cưu mang người đồng tộc như là bổn phận của mình. Trong sự giúp đỡ đó không đòi hỏi phải trả ơn. Điều họ quan tâm nhất chính là hiệu quả của sự giúp đỡ.
Một thông lệ được đặt ra là: người bỏ tiền ra giúp đỡ người khác, không đòi hỏi được đền đáp lại, nhưng đòi hỏi phải có hiệu quả. Người ta sẵn sàng bỏ tiền giúp một người nào đó có kế sinh nhai, nhưng quá ba lần mà người kia không làm ăn có kết quả thì mọi sự giúp đỡ sẽ bị cắt. Trong cấp học bổng cũng vậy. Người ta sẵn sàng cấp học bổng cho một học sinh nghèo đói, nhưng phải học tốt, nếu kết quả không tốt thì học bổng sẽ bị cắt.
Trước đây các Bang đều hoạt động một cách riêng rẽ, không có sự phối hợp, điều đó thường khi đẫn tới tư tưởng địa phương, cục bộ, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau. Vì vậy cần một sự hướng dẫn về tổ chức, để tạo sự thống nhât trong hoạt động của các bang. Phải từ sự đoàn kết trong bang trở thành sự đoàn kết tương trợ trong cộng đồng và rộng ra ngoài xã hội.
Phẩm chất cần cù, sáng tạo trong lao động
Có đến 75% số ngời Hoa ở Việt Nam thường chọn chỗ sinh sống ở thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ. Nói gọn là họ sống gần chợ. Họ mở cửa hiệu, đẩy xe hàng, chèo thuyền chở hàng đi buôn bán khắp chốn cùng quê… ở tại vùng nông thôn, ngời Hoa cũng không cấy lúa nước như người Việt, mà tập trung về vùng đất rẫy để làm màu, nhằm sản xuất nhanh hàng hóa. Kinh doanh buôn bán hầu như đã quá quen thuộc đối với ngời Hoa ở Việt Nam và các nơi khác trên thế giới. Dù làm bất cứ nghề gì, người Hoa đều có ý thức siêng năng, cần cù. ý thức đó luôn được người Hoa chú ý rèn luyện con em mình ngay từ bé. Không phải tình cờ mà người ta thường thấy ở các gia đình người Hoa, bất kể là giàu hay nghèo, thường đưa con đi ở làm thuê cho gia đình khác. Đó là cách rèn luyện cho con em họ thấy cái giá phải trả cho đồng tiền bát gạo mà mình kiếm được. Làm tốt thì được thưởng, làm sai thì bị phạt. Tinh thần đó, nếu được phát huy trong các trường lớp đào tạo nghề nghiệp sẽ tạo nên những người lao động có tay nghề, có ý thức nghề nghiệp.
Do sớm có kinh nghiệm làm ăn trong buôn bán, ngời Hoa đã hình thành được một số phẩm chất cần thiết trên thương trường. Họ tạo lập được một mạng lưới tiêu thụ hàng hóa ở trong và ngoài nước với nhiều mẫu mã mặt hàng thích hợp: hàng hóa cho phố phường, hàng hóa cho xóm ấp, hàng hóa tiêu thụ trong nước và hàng hóa tiêu thụ ở nước ngoài. Họ sớm biết thu mua hạt gạo do người Việt làm ra, bố trí các nhành lúa… làm ra gạo bán ra với một tổ chức khá chặt chẽ.
Tôn trọng chữ “Tín”
Trong buôn bán, người Hoa biết coi trọng chữ tín. Có thể coi đó là luật bất thành văn của người Hoa. Cả người bán người mua đều tuân thủ chữ tín. Nhờ ý thức về chữ tín đó nên việc làm ăn thường diễn ra thuận lợi, không mất nhiều thủ tục, thời gian. Cố nhiên trong tình hình buôn bán ngày càng trở nên phức tạp, việc cố chấp chữ tín chỉ bằng lời nói mà không có hợp đồng, không có văn bản giấy tờ, thì trong nhiều trường hợp, nếu bị đổ bể sẽ thiếu cơ sở pháp lý để giải quyết.
Hoà đồng với các cư dân địa phơng
Giữa ngời Hoa và ngời Việt cũng có những nét tương đồng về phong tục tập quán (cả hai đều có cội nguồn từ văn hóa phương Đông, từ ý thức hệ Nho giáo truyền thống), điều đó dễ tạo nên sự đoàn kết cộng đồng trong quá trình xây dựng đất nước.Trong quá trình sinh sống lâu dài ở Việt Nam, ngoài việc chăm lo sinh sống, bà con người Hoa đã tham gia các việc sinh hoạt xã hội cùng với người Việt và các tộc người anh em khác. Những sự giao lưu tiếp nhận văn hoá giữa người Hoa và các tộc người đã diễn ra. Nhiều cuộc hôn nhân giữa người Hoa với người Việt, người Chăm, người Khome cũng đã diễn ra.
Theo thời gian, cuộc sống trên quê hương mới ổn định phát triển dần dần. Từ những khó khăn, xa lạ về thiên nhiên, về phong tục tập quán của miền đất mới, các thế hệ hoà nhập với nhau, rồi cả cộng đồng cùng biến chuyển theo sự vận động của cuộc sống từ thời phong kiến, thực dân, qua kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm lược và trong công cuộc Đổi mới hôm nay. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ vừa qua, một số miếu thờ của bà con người Hoa đã trở thành nơi ẩn giấu của các chiến sĩ cách mạng, chính vì những nội dung giá trị này, Miếu Ông , Ninh Kiều ở thành phố Cần Thơ đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử Văn hoá quốc gia.
Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá ( vật thể và phi vật thể)
Người Hoa có một hệ thống các di sản văn hóa vật thể với rất nhiều đình, miếu, chùa, trường học, hội quán, nhà thờ tộc họ. Quá trình hình thành các di sản này gắn liền với quá trình tụ cư và hợp cư của người Hoa ở Việt Nam. Nhiều di tích kiến trúc nghệ thuật của ngời Hoa là những bộ phận quan trọng tạo nên những giá trị toàn cầu nổi bật của khu Di sản thế giới đô thị cổ Hội An. Cho đến nay, riêng tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, có khoảng 30 ngôi chùa của người Hoa, trong số đó có gần một nửa có niên đại tạo dựng từ hơn 100 năm cách ngày nay. Về cơ bản, những công trình này đều do nhân dân đóng góp và xây cất khá công phu, theo kiểu dáng Trung Quốc, nhưng cho đến nay, những công trình này đã và đang không chỉ là nơi hành lễ riêng của người Hoa mà còn là nơi thờ tự chung của cả cộng đồng dân cư địa phương.
Ngoài các giá trị văn hóa nêu trên, cộng đồng ngời Hoa ở Việt Nam còn tạo nên một văn hóa ẩm thực khá phong phú và hấp dẫn. Đặc điểm của văn hóa ẩm thực của người Hoa là: một mặt, ăn uống vì sức khỏe của con người; tùy sức khỏe, có các món nóng hay mát, các món đạm hay rau trái… Ngoài ra còn kèm theo rợu thuốc, trà nóng có vị thuốc, tạo điều kiện cho tiêu hóa tốt.
Văn hóa ẩm thực còn thể hiện trong các bữa tiệc: thường gồm các món canh khai vị, món gà hấp cải xanh, sản phẩm vi cá, vịt tiềm Bắc Kinh
Người Hoa cũng rất chú ý đến ẩm thực hàng hóa như tàu hủ, tương chao, lạp sườn, trứng vịt muối, các loại bánh giá…
Trong đời sống tinh thần của người Hoa, tín ngưỡng và tôn giáo đóng vai trò rất quan trọng. Có thể coi đó là môi trường hình thành nhân cách và tâm lý của người Hoa truyền thống, trong đó tín ngưỡng giữ vai trò quan trọng hơn. Cấu trúc hệ thống tín ngưỡng người Hoa gồm: tín ngưỡng thánh nhân và tín ngưỡng thần linh.
Hệ thống tín ngưỡng thánh nhân của người Hoa phần lớn bao gồm những nhân vật được truyền tụng trong dân gian như Quan Công, Bà Thiên Hậu, Quan Âm Bồ tát. Hệ thống tín ngưỡng đó là một tiềm năng về nhân lực. Nó giáo dục và định hướng nhân cách cho mọi người. Hệ thống tín ngưỡng thánh nhân và sự định hướng nhân cách đã tạo cho xã hội người Hoa có được một nền tảng ý thức cộng đồng gia tộc, đồng hương và cộng đồng dân tộc gắn chặt với nhau tương đối bền chặt. Xuất phát từ nền tảng ý thức này, tinh thần đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau đã được phát triển và tạo nên những tiềm năng thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của người Hoa trong suốt quá trình định cư ở nước ngoài.
Nếu hệ thống tín ngưỡng thánh nhân mang tính định hướng nhân cách và tâm lý, thì hệ thống tín ngưỡng thần linh mang tính ước vọng, tạo thêm cho người Hoa một niềm tin, một sức sống và một hy vọng vào tương lai.
Đi liền với hệ thống tín ngưỡng là các tục lệ và lễ nghi. Tục lệ và lễ nghi là những hình thức mang tính nghệ thuật có mục đích tô điểm thêm màu sắc thiêng liêng, tạo nên không khí thần linh để thu hút mọi người, tạo điều kiện cho các hệ thống tín ngưỡng có thể tồn tại từ đời này sang đời khác. Đó là các tục lệ ngày vía, tục lệ bố thí, tục lệ phước sương, tục lệ xin xăm
Hệ thống lễ nghi chính yếu của ngời Hoa bao gồm: tết Nguyên Đán, lễ tết Nguyên tiêu, lễ Hàn thực, lễ Thanh Minh, lễ Đoan Ngọ
Toàn bộ hệ thống tín ngưỡng lễ nghi đó đều hướng tới sự củng cố mối quan hệ gia đình và xây dựng ý thức cộng đồng, quá trình đó được thiết lập trên những ước vọng, lòng biết ơn, nghĩa khí và lòng dũng cảm.
Với những tư liệu và sự phân tích trên đây, có thể khẳng định rằng, người Hoa là một bộ phận hữu cơ của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.Tuy nhiên sau nhiều trăm năm hoà nhập vào xã hội Việt Nam, người Hoa vẫn lưu giữ những đặc thù riêng mang tính đặc trưng tộc người của họ. Những giá trị văn hoá truyền thống mà người Hoa di cư mang theo đã, đang và vẫn được người Hoa duy trì, bảo giữ, phát triển và làm phong phú thêm bởi những yếu tố mới do bản thân cộng đồng người Hoa sáng tạo ra trong quá trình thích ứng với những điều kiện tự nhiên và xã hội mới, đặc biệt là các quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội mới trong quá trình tụ cư, hỗn cư và hợp cư ở vùng đất định cư mới được coi là quê hương của mình.
Những phẩm chất và giá trị văn hoá truyền thống của người Hoa thực sự là những nét đẹp, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của cộng đồng ngời Hoa ở Việt Nam. Đồng thời, là những bằng chứng cụ thể và sinh động về tính thống nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam, hành trang quý giá để bước vào kỷ nguyên hội nhập và phát triển trước những thời cơ và thách thức mới.
III- Bảo vệ và phát huy giá trị những nét đặc sắc về văn hoá của cộng đồng ngời Hoa ở Việt Nam
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, với chính sách đại đoàn kết dân tộc, Đảng và Bác Hồ luôn luôn dành sự quan tâm đến đời sống của bà con các dân tộc thiểu số, cũng tức là quan tâm đến sự phát triển văn hoá của các dân tộc. Chính vì vậy, đồng bào các dân tộc ít người ở Việt Nam, trong đó có cộng đồng người Hoa, đã kề vai sát cánh cùng ngời Việt và các dân tộc anh em khác trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những năm gần đây, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chủ trương lớn về phát triển văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc ít người, đặc biệt là Nghị quyết số 22 NQ/TƯ ngày 27/11/1988 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khoá VI, với sự khẳng định: “…Tôn trọng và phát huy những phong tục tập quán và truyền thống văn hoá tốt đẹp của các tộc người…”; Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương số 05, Khoá VIII với chủ trương: “…Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hoá, văn học nghệ thuật của các tộc người thiểu số…”. Thực hiện những chủ trương cơ bản đó, Chính phủ đã có nhiều quyết định hết sức quan trọng như Quyết định số 71/2001/QĐ-Ttg ngày 4/5/2001 về các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2001-2005 trong đó có mục tiêu “ bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tiêu biểu của dân tộc; xây dựng và phát triển đời sống văn hoá cơ sở”; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/6/2003 phê duyệt đề án bảo tồn, phát triển văn hoá các tộc người thiểu số ở Việt Nam…
Để có những căn cứ khoa học cho việc thực hiện những chủ trơng, chính cách cơ bản của Đảng và Nhà nước, những năm qua, có không ít các công trình nghiên cứu khoa học chuyên đề đã và đang đợc thực hiện, đáng chú ý là: đề tài KX 04-12 “ Luận cứ khoa học cho việc xác định chính sách đối với cộng đồng người Khơme và ngời Hoa ở Việt Nam” ( giai đoan 1990-1995) do PGS.TS Phan Xuân Biên làm chủ nhiệm; đề tài “ Sắc thái văn hoá địa phơng và tộc người trong chiến lược phát triển đất nước” thuộc Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX 06 ; đề tài KHXH-04-08 “Sự thống nhất trong đa dạng về bản sắc dân tộc Việt Nam trong xây dựng và phát triển văn hoá hiện nay” do Nhà thơ Nông Quốc Chấn làm Chủ nhiệm, đề tài KHXH 04-03 “ Đề cương xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” do nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm làm chủ nhiệm, đề tài “Đời sống văn hoá và xu hướng phát triển văn hoá của một số dân tộc vùng Tây Bắc, Tây nguyên và Tây nam bộ trong quắ trình CNH, HĐH” của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh…
Thực tiễn hoạt động văn hoá trong những năm qua đã cho thấy, các hoạt động bảo vệ và phát triển những giá trị văn hoá của các dân tộc ít người ở Việt Nam, trong đó có cộng đồng người Hoa, đã và đang đạt được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ. Trong đó, những kinh nghiệm về công tác văn hoá, đặc biệt là việc xây dựng đời sống văn hoá tại các địa bàn dân cư trong cộng đồng người Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh rất xứng đáng được tổng kết và nhân rộng trên các địa phương khác trong toàn quốc.
Để góp phần tôn vinh những đóng góp của ngời Hoa cùng những giá trị đặc trưng văn hoá của người Hoa ở Việt Nam, chúng tôi kiến nghị việc tiếp tục nghiên cứu và có những biên pháp cụ thể, thiết thực trong mọi lĩnh vực hoạt động văn hoá xã hội nhằm xây dựng và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của người Hoa, một bộ phận hữu cơ của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trước mắt, đề nghị Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi cho việc khẩn trương hoàn tất việc xây dựng tượng đài Anh Hùng Mạc Cửu tại Hà Tiên và kiến nghị Nhà nước tổ chức một lễ hội có tính quốc gia trong năm 2007 để kỷ niệm 300 năm sự kiện khu vực đồng bằng sông Cửu Long chính thức sát nhập vào cương vực của lãnh thổ Việt Nam do công lao và tầm nhìn chiến lược của người anh hùng Mạc Cửu, một lãnh tụ người Hoa đại diện cho cộng đồng người Việt gốc Hoa đã tự nguyện hoà nhập và trở thành một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Việt Nam,và đồng thời, góp phần quan trọng trong việc đưa văn hoá của người Hoa thành một bộ phận quan trọng của nền văn hoá Việt Nam thống nhất trong đa dạng
( Phát biểu tại Hội thảo khoa học về văn hoá người Hoa tại Việt Nam do Bộ Văn hoá Thông tin và UBND TP Hồ Chí Minh tổ chức ngày 1/3/2007)