Phát triển văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường vùng đồng bằng sông Hồng trong …

Chủ trì hội thảo có đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết; đồng chí Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết; đồng chí Lê Quân, Giám đốc Đại học quốc gia Hà Nội.

Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết

phát biểu chỉ đạo tại hội thảo

Tham dự có các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đại diện lãnh đạo các tỉnh ủy, thành ủy thuộc vùng đồng bằng sông Hồng; đại diện lãnh đạo một số ban, bộ, ngành Trung ương, thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập xây dựng Đề án; đại diện lãnh đạo một số sở, ban, ngành thuộc các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Hồng; một số một số chuyên gia, nhà khoa học.

Động lực phát triển toàn vùng

Vùng đồng bằng sông Hồng là một trong 6 vùng kinh tế – xã hội của cả nước, có địa hình tương đối bằng phẳng với hệ thống sông ngòi dày đặc, gồm có 11 tỉnh, thành phố, trong đó có Thủ đô Hà Nội; diện tích toàn Vùng hơn 21.278 km2 chiếm 6,42% diện tích cả nước, dân số khoảng 22,92 triệu người chiếm khoảng 22% dân số cả nước. Vùng đồng bằng sông Hồng là địa bàn đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước; là trung tâm khoa học công nghệ; là trung tâm đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực; là vùng đất lịch sử lâu đời, nơi khai sinh các vương triều Đại Việt với nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, nhiều cảnh quan thiên nhiên và hàng ngàn di tích lịch sử – văn hóa tiêu biểu, nhiều lễ hội đặc sắc và nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống. Tài nguyên thiên nhiên gắn với hệ thống sông Hồng, với diện tích lớn đất phù sa và nhiều loại khoáng sản có giá trị lớn. Tài nguyên du lịch nhân văn đa dạng và phong phú với cảnh quan đẹp, hệ sinh thái rừng nhiệt đới, các suối nước khoáng, một số hang động bí hiểm lạ mắt, các bãi biển đẹp và nổi tiếng.

Đồng chí Lê Quân, Giám đốc Đại học quốc gia Hà Nội phát biểu chào mừng

Ngày 14/9/2005 Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 54-NQ/TW về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Sau đó, ngày 28/10/2011, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Kết luận số 13-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW (Nghị quyết 54-NQ/TW và Kết luận 13-KL/TW). Nghị quyết 54-NQ/TW đã đề ra các yêu cầu về phát triển văn hóa, xã hội, môi trường cho toàn vùng, cụ thể là: Nâng cao mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi liền với giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nhanh tỷ lệ nghèo, bảo đảm công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa thành thị và nông thôn; tăng cường đầu tư cho giáo dục, đào tạo để đáp ứng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao cho vùng và cả nước, trong đó tập trung sắp xếp lại các cơ sở giáo dục đại học, xây dựng mới một số trường đại học cho chất lượng cao, đạt trình độ khu vực và quốc tế; phát triển mạnh khoa học-công nghệ, xây dựng các trung tâm nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ sinh học; đẩy mạnh xã hội hóa y tế, giáo dục, văn hóa, thể dục thể thao; xây dựng một số trung tâm y tế chuyên sâu ngang tầm khu vực đủ điều kiện để cung cấp các dịch vụ y tế chất lượng cao phục vụ nhân dân, gắn phát triển dịch vụ y tế với du lịch khám chữa bệnh, nghỉ dưỡng cho du khách quốc tế; bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp, văn minh đạt cấp độ bình quân của khu vực. 

Phát biểu chào mừng Hội thảo, GS.TS. Lê Quân, Giám đốc Đại học quốc gia Hà Nội khẳng định: Nghị quyết 54-NQ/TW và Kết luận 13-KL/TW của Bộ Chính trị cho thấy tầm nhìn mang tính kế thừa truyền thống và hành động mang tính chiến lược, kịp thời của Trung ương trong bối cảnh cả nước quyết tâm đổi mới và hội nhập những năm đầu thế kỷ XXI. Chặng đường 12 năm quyết liệt triển khai Kết luận 13-KL/TW và 17 năm nỗ lực thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW của Bộ Chính trị để lại rất nhiều nội dung khoa học quan trọng và các vấn đề thực tiễn ý nghĩa cần thảo luận và tổng kết. Giám đốc Đại học quốc gia Hà Nội bày tỏ rất vinh dự được Trung ương tin tưởng giao nhiệm vụ đồng tổ chức và đăng cai sự kiện quan trọng này.

Phát biểu tại Hội thảo, đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết nhấn mạnh: Sau gần 17 năm thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW và 11 năm thực hiện Kết luận 13-KL/TW của Bộ Chính trị, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng bám sát các chủ trương, định hướng lớn của Bộ Chính trị, vùng đồng bằng sông Hồng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ và môi trường. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đã có bước thay đổi rất nhanh chóng. Văn hóa, giáo dục được tập trung đầu tư, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển con người đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển. Khoa học công nghệ được quan tâm phát triển, nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng CN4.0 và chuyển đối số. Nhận thức và trách nhiệm đối với việc bảo vệ môi trường ngày càng được tăng cường.

Đoàn chủ tọa hội thảo

Những vấn đề đặt ra

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, đồng chí Trần Tuấn Anh cũng cho rằng, phát triển vùng đồng bằng sông Hồng còn nhiều tồn tại, hạn chế; nhiều vấn đề mới phát sinh và được đặt ra đối với phát triển vùng trong bối cảnh, tình hình mới của đất nước. Văn hóa chưa quan tâm đầy đủ, đúng mức, chưa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh cho phát triển bền vững. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực cho phát triển, chưa tạo đột phá để nâng cao năng suất lao động. Y tế, giáo dục còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với trình độ các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề lớn đối với vùng nói riêng và cả nước nói chung. Một số mục tiêu của Nghị quyết 54 đề ra chưa đạt được.

Do vậy, để triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị về việc tổng kết các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh các vùng kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương được giao chủ trì Đề án Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW và Kết luận số 13-KL/TW của Bộ Chính trị, trên cơ sở đó tham mưu Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn 2045.

Để triển khai Đề án, Ban Kinh tế Trung ương đã phối hợp chặt chẽ với 20 ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc Trung ương và thường trực tỉnh ủy, thành ủy của 11 địa phương trong vùng để thành lập Ban Chỉ đạo và ban hành Kế hoạch số 84-KH/BKTTW, ngày 20/5/2022 phục vụ nhiệm vụ tổng kết Nghị quyết.

Đồng chí Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 

điều phối phần tham luận hội thảo

Hội thảo “Phát triển văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” do Ban Chỉ đạo Tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW phối hợp với Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức nằm trong chuỗi hội thảo, hội nghị trong Kế hoạch tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW của Ban Chỉ đạo.

Hội thảo có ý nghĩa quan trọng nhằm củng cố cơ sở lý luận và thực tiễn giúp Ban Chỉ đạo tổng kết nghị quyết 54-NQ/TW hoàn thiện Đề án và đề xuất Bộ Chính trị các nhiệm vụ, giải pháp mới về các lĩnh vực văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, tài nguyên – môi trường và nguồn nhân lực nhằm phát triển toàn diện vùng đồng bằng sông Hồng thời gian tới. Hội thảo cũng là cơ hội để lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học đánh giá lại thực trạng phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, tài nguyên – môi trường và nguồn nhân lực vùng thời gian qua; đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp, nhất là về thể chế, các cơ chế, chính sách, nguồn lực nhằm phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, tài nguyên – môi trường và nguồn nhân lực phù hợp với bối cảnh tình hình mới.

Đồng chí Tạ Quang Đông, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phát biểu tham luận

Định hướng xuyên suốt

Phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, khoa học – công nghệ, bảo vệ môi trường có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa và tác động lớn đến sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất cả nước; được Đảng ta quan tâm thường xuyên, liên tục thể hiện qua Văn kiện Đại hội các nhiệm kỳ và các Nghị quyết chuyên đề cho từng lĩnh vực. Trong đó, văn hóa được coi là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước; giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân; bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quyết định sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

Đồng thời, phát triển các vùng kinh tế cũng là một chủ trương xuyên suốt của Đảng ta. Nghị quyết Đại hội XIII đã yêu cầu: Xây dựng quy hoạch, tổ chức không gian lãnh thổ quốc gia một cách hợp lý, phát huy tốt nhất các lợi thế đặc thù của mỗi vùng, địa phương và tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới. Khai thác tốt hơn các thế mạnh của các vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa chính trị, nguồn nhân lực trong bối cảnh và yêu cầu phát triển mới. Phát triển tổng thể, mang tính hữu cơ, liên kết chặt chẽ giữa các địa phương trong vùng thành một thể thống nhất. Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù thúc đẩy phát triển vùng, liên kết vùng và thể chế điều phối phát triển kinh tế vùng đủ mạnh. Xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm trí tuệ nhân tạo tại các vùng trọng điểm. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, giá trị lịch sử, truyền thống. Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù chăm lo giáo dục, đào tạo, y tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo sinh kế, việc làm.

Đồng chí Nguyễn Hoàng Giang, Thứ trưởng bộ Khoa học và Công nghệ phát biểu tham luận

Trong đó, vùng đồng bằng sông Hồng phải đi đầu trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số. Thúc đẩy mạnh mẽ các trung tâm đổi mới sáng tạo. Tập trung xây dựng các trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành đô thị thông minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn.

Với thực tiễn như vậy, tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung vào một số nội dung quan trọng, cụ thể:

Thứ nhất, đánh giá, làm rõ những thành tựu, kết quả đạt được cũng như chỉ rõ những hạn chế, tồn tại, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện các nhiệm phát triển lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học – công nghệ, tài nguyên – môi trường của toàn vùng và từng địa phương; đánh giá toàn diện các thuận lợi và khó khăn về việc ban hành, tổ chức thực hiện và hiệu lực, hiệu quả các cơ chế, chính sách mang tính toàn vùng, nhất là vấn đề liên kết để tối ưu hóa nguồn lực phát triển, việc thu hút nguồn lực xã hội – xã hội hóa để phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học- công nghệ, tài nguyên – môi trường; làm rõ hơn về xu hướng tất yếu và lợi ích của các địa phương khi tăng cường liên kết vùng về các lĩnh vực văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học- công nghệ, tài nguyên- môi trường trong bối cảnh tình hình mới; các phương thức, biện pháp để tăng cường hợp tác, liên kết vùng trong phát triển các lĩnh vực này.

Thứ hai, phân tích, đánh giá bối cảnh, tình hình mới tác động đến từng lĩnh vực văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học- công nghệ, tài nguyên- môi trường và nguồn nhân lực của vùng và từng địa phương trong vùng, đặc biệt là tác động của quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống (dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu với cam kết NetZero 2050 tại COP26…), cuộc Cách mạng CN4.0 với quá trình chuyển đổi số… đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của đất nước ta trong đó có vùng đồng bằng sông Hồng. Các yếu tố này vừa là thách thức nhưng cũng vừa là thời cơ cho đất nước ta nói chung và vùng chúng ta nói riêng để tạo đột phá cho phát triển nhanh, bền vững.

Đồng chí Nguyễn Thị Hà, Thứ trưởng bộ Lao động, Thương binh và xã hội phát biểu tham luận

Thứ ba, nhận thức rõ tầm quan trọng của các lĩnh vực văn hóa, xã hội, KHCN, môi trường, cùng với việc nắm rõ bối cảnh tình hình mới, phát huy thành tựu, khắc phục hạn chế, tồn tại, tôi đề nghị các quý vị cùng đề xuất các quan điểm phát triển, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, KHCN, môi trường vùng đồng bằng sông Hồng giai đoạn đến 2030, tầm nhìn đến 2045.

Có thể nói, phạm vi Hội thảo khá rộng, liên quan đến nhiều cơ chế, chính sách trong nhiều lĩnh vực của nhiều Bộ ngành; liên quan mật thiết đến thực trạng, phát triển các lĩnh vực kể trên của 11 địa phương; tác động đến các chủ trương, định hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh cả vùng đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới, do đó, phát biểu kết luận Hội thảo, đồng chí Trần Tuấn Anh tiếp tục khẳng định: Vùng đồng bằng sông Hồng là Vùng có vai trò đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh của cả nước, trong đó văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, tài nguyên – môi trường và nguồn nhân lực là những lĩnh vực quan trọng, liên quan mật thiết và tác động toàn diện đến sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh cả nước nói chung và vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng.

Đồng chí Trần Tuấn Anh đánh giá cao các tham luận, ý kiến phát biểu, trao đổi tại Hội thảo đã rất tập trung, đưa ra những nhận định, đánh giá sâu sắc, chất lượng, tương đối toàn diện, có tính thực tiễn cao, bám sát các chủ trương, định hướng lớn của Đảng tại Đại hội Đảng XIII. Nội dung tham luận đề cập sâu vào thực tiễn phát triển; mạnh dạn đề xuất về các nhiệm vụ, giải pháp có cơ sở khoa học cho từng lĩnh vực về các cơ chế, chính sách mới phù hợp để phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, tài nguyên – môi trường và nguồn nhân lực của vùng Đồng bằng sông Hồng. Theo đó, các đại biểu đã tập trung vào một số nội dung cụ thể:

Một là, khẳng định chủ trương đúng đắn, xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta về phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. Trong đó kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội và bảo vệ môi trường. Đồng thời, quá trình phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, tài nguyên – môi trường và nguồn nhân lực trong thời gian qua ở nước ta nói chung và Vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng đã có nhiều thay đổi cả về tư duy và nhận thức; nhận được sự quan tâm của Chính phủ, các Bộ ngành, sự vào cuộc của cấp ủy và chính quyền các địa phương; nhiều nhiệm vụ, giải pháp và cơ chế, chính sách đã được ban hành; nhiều nguồn lực đã được bố trí, điều chỉnh bổ sung cho phù hợp tại mỗi địa bàn, địa phương. Qua đó, kết quả phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, tài nguyên – môi trường và nguồn nhân lực mang một số kết quả tích cực như:

PGS.TS Trần Quốc Bình, Phó Hiệu trưởng trường Đại học KHTN, Đại học Quốc gia Hà Nội phát biểu tham luận

 Các khung khổ pháp lý trong đầu tư, quản lý, sử dụng, khai thác về các lĩnh vực văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, tài nguyên- môi trường và nguồn nhân lực đáng dần hoàn thiện, xác định được trọng tâm, trọng điểm, giai đoạn thời kỳ phát triển cho mỗi ngành, lĩnh vực;

Một số liên kết vùng trong các lĩnh vực phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, tài nguyên – môi trường và nguồn nhân lực đã được hình thành và phát huy hiệu quả. Các thỏa thuận hợp tác đã được ký kết có xu hướng tăng và triển khai thực hiện đạt kết quả tích cực, tập trung vào nâng cao chất lượng đào tạo, tăng cường tiềm lực khoa học – công nghệ, phát triển nguồn lực, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa…;

Vai trò, vị trí, tầm quan trọng của từng lĩnh vực nhận được sự quan tâm đầu tư, thể hiện thông qua các chiến lược, quy hoạch và cơ chế thu hút đầu tư…

Một số mâu thuẫn giữa các địa phương trong Vùng trong việc khai thác các nguồn lực có tính vùng dần được tháo gỡ như trong khai thác tài nguyên du lịch, văn hóa, quản lý tài nguyên và xử lý môi trường, xử lý các vấn đề xã hội, phối hợp triển khai các chính sách có tính vùng ở một số lĩnh vực.

Hai là, các đại biểu đều cho rằng còn nhiều dư địa cho phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, tài nguyên – môi trường và nguồn nhân lực vùng đồng bằng sông Hồng. Đồng thời cho rằng, để tạo bước đột phá trong phát triển của Vùng trong thời gian tới cần quan tâm đầy đủ, toàn diện đến văn hóa để văn hóa trở thành nguồn lực nội sinh cho phát triển bền vững; đẩy mạnh phát triển để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực tăng trưởng, nhất là nâng cao năng suất lao động; tiếp tục đầu tư cho y tế, giáo dục để khai thác tót hơn tài nguyên con người để theo kịp với trình độ các nước phát triển; tăng cường công tác quản lý khai thác và bảo về tài nguyên theo hướng bền vững.

Đồng chí Nguyễn Mạnh Quyền, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội phát biểu tham luận

Ba là, các đại biểu đã chia sẻ các điểm nghẽn, nút thắt và các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, tài nguyên – môi trường và nguồn nhân lực chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng và các địa phương như:

Vị trí, vai trò của văn hoá chưa thực sự được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp; môi trường văn hoá có những mặt chưa thực sự lành mạnh; bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá đạt hiệu quả chưa cao; chưa giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong quản lý văn hoá….;

Chất lượng giáo dục ở các bậc học chậm cải thiện; hội nhập quốc tế của hệ thống giáo dục chưa cao; cơ cấu đội ngũ nhà giáo có nơi chưa hợp lý; quản lý giáo dục còn nhiều bất cập; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo….

Đồng chí Tống Quang Thìn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình phát biểu tham luận

Khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự là động lực phát triển kinh tế – xã hội; chuyển đổi số còn chậm; năng lực tiếp cận, ứng dụng, phát triển công nghệ hiện đại còn thấp; mức độ chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn thấp…

Chất lượng lao động so với yêu cầu của một vùng kinh tế phát triển, còn gần 2/3 lực lượng lao động chưa qua đào tạo hoặc không có bằng/chứng chỉ; đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao chưa được chú trọng; nguy cơ thiếu lao động trong tương lai, đặc biệt là lao động có trình độ cao; Thị trường lao động chưa hoàn thiện, chất lượng việc làm còn thấp; Hệ thống thông tin và dịch vụ việc làm chưa phát triển đến các vùng nông thôn; Chênh lệch giàu nghèo chưa được thu hẹp; chưa có chính sách đặc thù đối với hộ nghèo không có khả năng lao động; cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản đối với người di cư hạn chế; Bảo hiểm xã hội bảo hiểm thất nghiệp, bảo trợ xã hội còn bất cập; công tác bảo vệ trẻ em còn hạn chế.

PGS.TS Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam phát biểu tham luận

Bốn là, nhiều ý kiến đề xuất nhiều mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thiết thực, phù hợp để khai thác và phát huy các giá trị văn hóa, nâng cao chất lương giáo dục – đào tạo, đẩy mạnh khoa học- công nghệ, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao vùng Đồng bằng sông Hồng, trong đó lấy con người làm trung tâm, chủ thể của phát triển trong hầu hết các lĩnh vực được đưa ra tại Hội thảo. Quan điểm phát triển từng lĩnh vực như: (i) Phát triển hệ thống cơ sở vật chất văn hoá, thể thao và du lịch Vùng đồng bộ, hiện đại; tăng cường liên kết, hợp tác phát triển văn hóa, thể thao và du lịch giữa các địa phương; hỗ trợ bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; gắn kết chặt chẽ giữa các cơ sở công lập và ngoài công lập; (ii) Thực hiện đột phá phát triển nguồn nhân lực, đầu tư mạnh mẽ vào vốn con người, trọng tâm là đào tạo nghề; phát triển thị trường lao động hiện đại, linh hoạt và hội nhập; phát  triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, phổ cập và hiện đại; (iii) Hoàn thiện hệ thống pháp luật về KH&CN; đổi mới toàn diện hoạt động quản lý, triển khai các nhiệm vụ KH&CN; phát triển hệ thống các trung tâm đổi mới sáng tạo vùng, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo; tăng cường đầu tư, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho KH-CN&ĐMST; tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ; (iv) Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị trường học; đẩy mạnh xã hội hóa, có cơ chế chính sách khuyến khích, huy động mọi tổ chức, cá nhân tham gia phát triển giáo dục đào tạo; Phát triển các trường đại học đa ngành, các trường đại học đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế; thực hiện cơ chế tự chủ tài chính giáo dục

Năm là, một số đại biểu đã phân tích, đánh giá sâu tiềm năng, lợi thế, khó khăn, thách thức của từng địa phương trong tổng thể vùng về các lĩnh vực văn hóa, giáo dục –đào tạo, khoa học- công nghệ, tài nguyên- môi trường và nguồn nhân lực trước bối cảnh, tình hình mới, nhất là khi hội nhập quốc tế cả nước ngày càng sâu rộng. Để chuyên hóa các thách thức thành cơ hội, một số đại biểu cho rằng cần nâng cao vai trò tham mưu của các Bộ, ngành, nhất là trong phân công vai trò, nhiệm vụ các địa phương trong từng lĩnh vực; điều tiết, phân bổ nguồn lực cho các địa phương và chia sẻ lợi ích trong liên kết các lĩnh vực đảm bảo tích hợp những nguồn lực phân tán, rời rạc, nhỏ lẻ của nhiều địa phương thành sức mạnh tổng hợp cho vùng.

Thay mặt Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 54- NQ/TW, đồng chí Trưởng Ban Kinh tế Trung ương ghi nhận và đánh giá cao tham luận, trao đổi, thảo luận của Lãnh đạo các bộ, ngành; lãnh đạo các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng; các chuyên gia, nhà khoa học. Để hoàn thiện Đề án tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW, Ban Chỉ đạo giao Thường trực Tổ Biên tập chắt lọc kết quả Hội thảo để lựa chọn, tổng hợp đảm bảo phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ tổng kết và tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư các chủ trương, định hướng nhằm phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng thời gian tới.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Nguyễn Hoàng Giang:

 Trong giai đoạn vừa qua, hoạt động KH,CN&ĐMST đã có đóng góp tích cực tới phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng an ninh của vùng. Các khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đóng vai trò đầu tàu, mở đường cho việc đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Doanh nghiệp từng bước được xác định là trung tâm của hoạt động KH,CN&ĐMST. Các hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực KH&CN ngày càng được củng cố, tăng cường, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Vùng ĐBSH có tiềm lực KH,CN&ĐMST đứng đầu cả nước. Toàn vùng có có 291/552 tổ chức nghiên cứu và phát triển (chiếm trên 50% tổng số tổ chức nghiên cứu và phát triển cả nước); có trên 150 trường đại học, học viện; có 14/17 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia; có hơn 500 tổ chức KH&CN công lập và ngoài công lập, 5/22 sàn giao dịch công nghệ thiết bị; có trên 300 doanh nghiệp KH&CN. Đầu tư ngân sách cho hoạt động KH,CN&ĐMST giai đoạn 2016 – 2020 là 5.455,8 tỷ đồng (chiếm 29,7% so với cả nước).

Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tạ Quang Đông:

Quan điểm phát triển văn hoá, thể thao và du lịch vùng đồng bằng sông Hồng sẽ theo hướng:

Văn hóa phải được đặt ngang hàng và phát triển hài hòa với kinh tế, chính trị, xã hội. Phát triển thể dục, thể thao là yêu cầu khách quan của xã hội, nhằm nâng cao sức khỏe, thể lực, tầm vóc, chất lượng cuộc sống, kéo dài tuổi thọ của người dân, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và quảng bá hình ảnh, vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Đầu tư cho văn hóa, thể dục thể thao và du lịch là đầu tư cho con người, cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Quang cảnh hội thảo

Phát triển hệ thống cơ sở vật chất văn hoá, thể thao và du lịch  Vùng Đồng bằng sông Hồng (Vùng ĐBSH) đồng bộ, hiện đại, phù hợp với xu thế của thời đại; Tiếp tục tăng cường liên kết, hợp tác phát triển văn hóa, thể thao và du lịch giữa các địa phương trong Vùng; đảm bảo tính liên thông, kết nối hiệu quả giữa các cơ sở văn hóa, thể thao và du lịch. Thực hiện chính sách ưu tiên hỗ trợ hoạt động bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Gắn kết các hoạt động phát triển văn hóa, thể thao và du lịch với các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm môi trường hòa bình, an ninh, giữ vững chủ quyền quốc gia, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Phát triển văn hóa, thể thao và du lịch Vùng ĐBSH có sự gắn kết chặt chẽ giữa các cơ sở công lập và ngoài công lập. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở văn hóa, thể thao và du lịch…

TS. Võ Chí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh, Nguyên Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu và Quản lý Kinh tế Trung ương:

Văn hóa, công nghệ, tài chính và môi trường là 4 trụ cột tạo nên sự phát triển. Văn hóa được coi là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Do đó, xây dựng được một nền kinh tế văn hóa phát huy tiềm lực, thế mạnh về văn hóa và công nghệ của vùng đồng bằng sông Hồng là hết sức quan trọng.

Trung tâm Thông tin, Phân tích và dự báo kinh tế