So Sánh Chữ Nhân Trong Văn Hoá Việt Nam Và Chữ Nhân Trong Văn Hoá Nho Giáo
MỤC LỤC
Vận dụng phương pháp nghiên cứu : so sánh, miêu tả, liệt kê, diễn dịch, để rồi hệ thống lạivà muốn tìm ra những ảnh hưởng của chữ “Nhân” trong Nho giáo đối với văn hoá Việt Nam nói chung và với gia đình, xã hội Việt Nam nói riêng.
Người Pháp có một định nghĩa về văn hóa rất hay: Văn hóa là cái còn lại sau khi người ta đã quên đi tất cả, là cái còn thiếu sau khi đã học tất cả. Kỳ thực, bờ cõi của văn hóa là vô bờ. Vì vậy, khi tiếp cận với một đối tượng dưới góc nhìn văn hóa người ta mới phải tự giới hạn. Cũng vậy, khi bắt tay nghiên cứu chữ Nhân trong Nho giáo và trong văn hóa Việt Nam, chúng tôi sẽ không bàn về nhân tính (mang tính triết học), nhân thần (mang yếu tố thần học tôn giáo), nhưng sẽ tiếp cận dưới lối nhìn nhân bản – văn hóa và ảnh hưởng của nó trong gia đình ra ngoài xã hội, cuối cùng là tìm hiểu vấn đề dưới giác độ văn hóa hơn là lịch sử tính của vấn đề.
Nhìn chung, sách nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam rất nhiều, nhưng nghiên cứu chữ “Nhân” trong văn hóa Việt Nam vẫn chưa có công trình chuyên biệt. Vì thế, trong khuôn khổ của tiểu luận này, chúng tôi cố gắng nghiên cứu về chữ “Nhân” trong văn hoá Việt Nam, cụ thể là nghiên cứu chữ “Nhân” trong Nho giáo và những ảnh hưởng của nó đối với văn hoá Việt Nam.
Đầu tiên phải kể đến hai đề tài sát sao nhất làm kim chỉ nam cho nhóm chúng tôi, đó là: Chữ Nhân trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với văn hóa Việt Nam và So sánh chữ Nhân trong Nho giáo và chữ Nhân trong văn hóa Việt Nam của tác giả Linh mục Tôma Aquinô Hoàng Trọng Hiếu.
Khi nghiên cứu về đề tài, chúng tôi cũng được biết và được tiếp cận với một số tài liệu nghiên cứu về chữ Nhân trong hai nền văn hóa Nho giáo và Việt Nam:
Nhận chân những giá trị tinh hoa của chữ NHÂN trong Nho giáo và của nước Việt để chúng ta cùng nâng niu, kế tục, và nhìn nhận như những giá trị ngàn đời cần phải tiếp tục phát huy.
Nhận diện, làm rõ về ý niệm chữ Nhân, về mối liên hệ, tiếp biến và so sánh cũng như nêu bật những tác động tích cực và tiêu cực trong quá trình tiếp biến văn hóa.
Với những gợi mở trên như là một bức toàn cảnh về chữ Nhân, nhóm chúng tôi xin phát triển đề tài “CHỮ NHÂN TRONG NHO GIÁO VÀ CHỮ NHÂN TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM” như một lời trần tình phần nào đó tinh hoa của hai nền văn hóa cũng như nêu bật được những mặt tích cực cũng như tiêu cực khi xảy ra tương tác tiếp biến văn hóa.
Ắt hẳn, khi bánh xe lịch sử văn hóa của loài người bắt đầu dịch chuyển thì “đức Nhân” đã giữ vị thế trục tâm của bánh xe rồi, tồn tại một trật và làm nhân lõi của văn hóa. Lòng Nhân nơi người Việt sớm bén rễ vào sâu trong huyết quản từ thuở còn phôi thai của những người nông dân phương Nam chân chất, trung thực nhưng đầy tình người bao bọc chở che lẫn nhau. Trong hệ tư tưởng Nho giáo, Khổng Khâu cũng lấy Nhân nghĩa làm hồng tâm cho đạo đối nhân xử thế. Người Á Đông nói chung, vốn tính “dĩ hòa vi quý” không chỉ giữa người với người, giữa người với vạn hữu, mà còn với Trời nương theo nguyên lý Tam Tài: Thiên – Địa – Nhân.
Đã là người ai cũng có văn hóa. Quả vậy, không có con người phi văn hóa, bởi vì không có con người phi lịch sử. Sống là có lịch sử, mà có lịch sử là phải có văn hóa. Phải có con người có văn hóa, có thể có văn hóa cao, văn hóa thấp (văn hóa lùn), văn hóa cao hơn gần với văn minh hơn, văn hóa thấp lè tè như bán khai mọi rợ chẳng hạn…
Khi ngược nguồn văn hóa để khai phá ý nghĩa chữ Nhân trong hai nền văn hóa Việt Nam và Nho giáo, chắc chắn ta sẽ bắt gặp những điểm đồng qui và dị biệt. Bởi lẽ, con người nào thì văn hóa nấy. Xét cho cùng con người là chủ thể văn hóa, nghĩa là sáng tạo và thổi hồn sống cho văn hóa có những giá trị đặc thù khác nhau. Người Việt ắt phải thổi hồn cốt của mình vào văn hóa “yêu nước thương nòi” hay “thương người như thể thương thân” cho người Việt. Người Tàu, đại diện là Khổng Khâu cũng lấy đức Nhân làm đầu tàu tư tưởng của mình cũng như nhân đức tối quan trọng (toàn đức) của người Trung Quốc.
Dù rằng hiện nay, Nho giáo đã và đang tàn lụi, vì sự cổ hủ tụt hậu của nó nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận có lúc nó lên đỉnh ngọ thiên trong lịch sử Trung Hoa và lịch sử Việt Nam, do đó nó tác động không nhỏ lên nền văn hóa Việt dưới chính sách Hán tộc hóa dân Việt. Sự kiện giao thoa hai nền văn hóa ắt gây ra những trận bão tố trong lòng dân tộc, khi thuận thì trăm hoa đua nở, khi nghịch thì như nước với lửa, tức là tương sinh tương khắc với nhau. Rồi cũng có những triều đại phò ủng hết mức như thời Hậu Lê (1428 – 1527) và Nguyễn Sơ (1802 – 1883) đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn tới mức càn lướt văn hóa Việt. Chính vì thế xảy ra tương tác tiếp biến, đối thoại, gạn lọc và loại bỏ nhau.
Qua những gợi mở ấy chúng tôi muốn khai phá thêm một lần về chữ Nhân trong văn hóa Việt và văn hóa Nho giáo, để từ đó không những nêu bật ra giá trị cốt lõi, đặc thù của từng nền văn hóa, mà còn khẳng định được những mặt tích cực và tiêu cực khi xảy ra tương tác tiếp biến văn hóa, đồng thời so sánh những nét đặc thù nhất ngõ hầu làm nổi bật lên những khía cạnh quan yếu nhất của hai nền văn hóa.
Theo học giả Trần Trọng Kim, chữ “Nhân” (仁) gồm có bộ nhân (人) là người và bộ nhị (二) là hai. Theo đó chữ Nhân giả thiết có ít nhất hai người trở lên trong thế giới này, và nhân là cách sống hay cách giao đãi với nhau. Như vậy, Nhân là mối tình “tay đôi,” giữa hai nhân vị với nhau. Bởi không có mối tình nào là “đơn thương độc mã” cả. Nhân là yêu thương, vì thế Nhân thuộc bản tính xã hội của con người, bởi con người không thể sống nếu thiếu vắng tình yêu.
Với Khổng Tử, Nhân chính là Đạo, là Thiên mệnh. Đầu tiên ông chân nhận gốc Nhân nằm sâu trong bản tính con người, nhưng cái gốc Nhân ấy được thiên phú, nghĩa là do trời ban. Cái Mệnh hay cái Đạo thịnh hay suy thảy thảy đều bởi Thiên định đoạt: “Đạo chi tương hành dã hựu, mệnh dã.” Và vì Thiên phú cho nên tính Nhân là bất khả khuyết và bất khả xâm phạm, nghĩa là không thể có kẻ phi Nhân. Theo Khổng Tử, người quân tử phải là người kính sợ Thiên mệnh, kính sợ thánh nhân và đại nhân – là những người đã thuận theo Thiên mệnh. Nghĩa là theo Khổng Tử, con người lãnh Nhân từ Thiên, vì thế phải có bổn phận hành theo Thiên mệnh, bất chấp thành hay bại.
Hơn nữa, cũng theo Khổng Tử, Nhân không chỉ là Thiên mệnh mà còn có nhiên tính – tức vốn sẵn có trong con người. Bởi con người cưu mang sẵn một tiềm năng hoàn thiện tự nhiên: “Nhân viễn hồ tai? Ngã dục nhân, tư nhân chí hĩ” (điều nhân vốn có xa gì ta, ta muốn thì nó đến). Tuy vậy, cái Nhân vốn có trong bản tính nhưng chưa hiển minh, nó phải được đào luyện, giáo dưỡng, tập luyện mà thành Nhân hơn. Cũng chính vì vậy ông cho rằng: “Tính tương cận, tập tương viễn.” Nghĩa là, con người sinh ra vốn tính thiện lương và gần với tính Trời (Mệnh), nhưng sở dĩ có sự nghiêng lệch, cách biệt nhau là bởi môi trường tu luyện. Như vậy, quan niệm về Nhân của Khổng Tử có tính hai chiều, một trên xuống, một dưới lên. Chiều trên xuống, Nhân do Thiên định, thuận thiên thì có Nhân. Chiều dưới lên, Nhân cũng bởi nhân định, tức là Nhân cũng được sở đắc bởi việc tu dưỡng tập luyện của bản thân. Nghĩa là, Nhân cũng là một thành quả của công khó khổ luyện: “Nhân giả tiên nan nhi hậu hạnh, khả vị, nhân hĩ.” Đó là ý nghĩa của chữ Nhân trong tương quan cá vị – với chính mình, và trong tương quan với Thiên Mệnh – Thiên nhân tương ứng.
Nhìn ra xã hội, với Khổng Tử, Nhân không những là lòng thương người, mà còn là đức tính bao quát mọi đức khác. Quả vậy, theo Phùng Hữu Lan thì đức Nhân là nhân đức phổ quát, là “toàn đức.” Đây là tư tưởng thống trị toàn bộ tư tưởng Khổng Tử nói riêng và của Nho giáo sau này nói chung. Theo Khổng Tử, đức Nhân không phải dừng lại ở việc đào luyện cho riêng mình, hơn nữa còn phải đạt được: “Phù nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân,” và “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” – Phàm là người nhân, muốn tự lập tự cường phải mong sao cho người khác cũng tự tập tự cường, muốn thành đạt phải mong sao cho tha nhân cũng đạt thành như mình, bởi phàm việc gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác.
Tóm lại, với Khổng Tử ta thấy Nhân mang trọn vẹn ý nghĩa ngang – dọc – sâu. Một đàng, chữ nhân được hiểu trong tương quan chiều dọc giữa người với Thiên, đó là thiên mệnh. Đàng khác, chữ nhân cũng được hiểu trong chiều sâu với chính mình, đó là bởi đào luyện. Cuối cùng, chữ nhân trong chiều ngang đó là mối tương quan liên vị. Chính vì thế mà Khổng Tử đã “mặc” cho chữ Nhân một ý nghĩa toàn vẹn và bao quát mọi nhân đức khác của con người.
Trong Tam Tài (Thiên – địa – nhân) thì nhân là yếu tố thứ ba và vô cùng quan yếu bởi nhân là giao điểm của trời đất. Chữ nhân là hình tượng một con người “đầu đội trời, chân đạp đất.” Quả con người là điểm nối kết “xe duyên” đất trời. Trong kinh điển Tiên Nho, Nhân được mặc một ý nghĩa tâm linh siêu việt.
Đây là con đường đi vào nhân tâm và từ nhân tâm đi tới Thiên địa vạn vật. Con người là điểm giao hòa, từ đó phát tỏa ra hai đường đồng giao: Cách vật và hòa thiên. Thiếu nhân đạo thì không có đường vào địa đạo và thiên đạo. Nhân đạo chỉ trọn nghĩa khi nào thực hiện được nhịp thái hoà, nghĩa là con người giao hòa được thiên địa vạn vật, mới thực là đắc đạo.
Nhân hòa – Nhân đạo đi chặng đầu tới đồng loại. Bản ngã phải nhu thuận hòa đồng với mọi người và được mọi người chấp nhận. Trong đạo người, một khi đã đại hòa, thì chẳng những không mất mát gì, mà lại có thể biến hóa được mọi sự trong một nhịp sống bình an phẳng lặng. Sau cùng sẽ điều hòa được cuộc sống mà đạt đạo.
Nhân văn – Con người chỉ đạt đạo ở nhịp thái hòa. Thái hòa là trạng thái điều hòa được cả thiên địa. Con người cao quí và quan trọng là vì tận bản tính đã được đúc kết bằng tinh hoa của Trời và tú khí của Đất. Do đó cần phải phát huy ra được những tinh hoa và tú khí ấy. Phát huy những tú khí trau dồi cho vạn vật chính là những nét nhân văn để tô điểm cho địa văn và thiên văn. Nhân văn là những vẻ sáng đẹp của con người được thể hiện ra bên ngoài, như nhân tính, nhân tình, nhân đức, nhân cách, nhân tài, nhân lực, nhân trí, nhân công v.v… Nói chung là mọi vẻ đẹp của con người thuộc tinh thần hay vật thể, xã hội hay luân lý, trong chiều hướng đưa con người thân trương và tiến bộ vào địa đạo, đồng thời siêu thăng vào thiên đạo. Nói chung tất cả những gì làm thành văn minh của con người: Văn minh dĩ chỉ nhân văn dã. Tới đó là đạt đạo thái hòa. Tất thảy điều đó đưa con người tới địa vị là trọng tâm của vũ trụ và nắm giữ vai trò hòa điệu thiên địa vạn vật. Đó là căn cội của triết lý nhân bản vậy.
Thuyết Tam Tài cho con người biết vận mệnh “giao điểm,” “quy hội” và “tú khí” của Trời Đất. Nói cách khác, con người sống trong mạng lưới chặt chẽ giữa Thiên – Địa (vạn vật) – nhân (con người). Ở đây chúng ta sẽ chỉ dừng lại ở chữ Nhân trong tương gian với Thiên nhiên, với cá nhân và với cộng đồng xã hội.
Con người từ chỗ đứng của mình, ngước mắt nhìn thấy sự che chở lồng lộng của bầu Trời, nhìn xuống thấy nền Đất vững chải làm chỗ đứng cho mình, con người phần nào phát giác được vị thế của mình giữa Trời Đất ấy. Nếu ví con người là chiếc “que chống trời”, nhỏ bé thôi, nhưng cũng là cái que độc nhất, kỳ diệu nhất đầu chống được trời, chân cắm sâu vào đất. Quả chỉ có con người mới mang sứ mệnh cao cả nối kết Trời Đất, là cán cân giữ thăng bằng Trời Đất, bằng không trời sẽ nghiêng, đất sẽ lệch. Đây là điểm đồng qui của hầu hết mọi tôn giáo, chẳng hạn Kitô giáo vẫn chân nhận con người là “chóp đỉnh của vạn vật,” vì con người có khả năng mở ra với vô hạn và với vạn sự vạn vật chung quanh. Ý thức được vị thế “độc tôn” giữa trời đất, con người giữ mình sao cho thăng bằng, không quá sính hạ Địa (vật chất) cũng không quá sùng thượng Thiên (tinh thần).
Có thể ví Trời Đất là đôi bờ, con người là dòng sông luân chuyển nhịp nhàng giữa đôi bờ ấy, mang nặng phù sa đắp đổi giữa khoái lạc và đau khổ, chở mang lấy kiếp phù sinh vô thường như một định mệnh tất yếu, để có thể luân chuyển, biến hóa để hòa điệu vào dòng chảy chung của Trời Đất. Như Kinh Dịch trong chương Hệ Từ Thượng chủ định:
“Trời sinh thần vật, thánh nhân cũng theo đó. Trời Đất biến hóa, thánh nhân cũng theo đó; Trời biểu lộ điều cát hung, thánh nhân cũng vậy. Hà đồ Lạc thư diễn xuất, thánh nhân cũng theo đó” (Thiên sinh thần vật, thánh nhân tắc chi. Thiên Địa biến hóa, thánh nhân hiệu chi. Thiên thùy tượng kiến cát hung, thánh nhân tượng chi; Hà xuất đồ, Lạc xuất thư, thánh nhân tắc chi). Như vậy, con người là kẻ diễn xuất vở bi kịch Càn Khôn ấy. Càn Khôn không thể không có nhau, nhưng cũng không thể có càn khôn nếu không có con người. Hay nói cách khác, con người là đứa con tinh hoa của cha Trời – mẹ Đất, bởi vì chính có con rồi mới có cha có mẹ. Và không chỉ dừng lại ở nguyên lý: Thiên – Nhân tương ứng, mà phải tam hợp: Thiên – Địa – Nhân phải tương ứng.
Dù vậy, khi bàn về vị thế con người giữa Trời Đất, nho giáo chủ trương chú mục tới tính hòa điệu hơn là tính “thống trị”, tính thống nhất của Tam hợp thể (Trinity) để ý thức về địa vị đặc thù của con người chứ không chủ trương con người chinh phục như một chủ nhân ông của thiên nhiên. Mặc dầu, Trời có đạo Trời, đất có đạo của đất, và người có đạo của người: “Để thành đạo Trời thì có âm và dương, để thành đạo đất thì có nhu và cương, để thành đạo người thì có nhân và nghĩa” (Lập thiên chi đạo viết âm dữ dương, lập địa chi đạo viết nhu dữ cương, lập nhân chi đạo viết nhân dữ nghĩa), nhưng đạo Trời mới là gốc, là quy tắc để con người thuận theo: “Cố gắng theo đức của Trời Đất, phấn đấu theo đức sáng suốt của nhật nguyệt, tuân theo trật tự của bốn mùa” (Dữ thiên địa hợp kỳ đức, dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh, dữ tứ thời hợp kỳ tự). Bởi xét sâu xa, thiên địa nhân là hợp nhất như một hình hài, cùng chung một gốc, bất khả chia lìa. Nếu sống thì phải sống sao cho đạt tới cảnh giới thái hòa giữa con người và muôn vật.
Ba yếu tố cấu thành một “nhất thể” Tam Tài: Thiên – Địa – Nhân đều giữ một vai trò tối sơ trong sứ mệnh làm phát sinh muôn loài muôn vật:
Trời sinh,
Đất dưỡng,
Con người hoàn thành.
Theo Đổng Trọng Thư thì: “Trời sinh nhờ hiếu đễ, đất dưỡng nhờ cơm áo, con người hoàn thành nhờ lễ nhạc” (Thiên địa nhân vạn vật chi bản dã, thiên sinh chi, địa dưỡng chi, nhân thành chi. Thiên sinh chi dĩ hiếu đễ, địa dưỡng chi di y thực, nhân thành chi dĩ lễ nhạc).
Ba điều đó thiết yếu như ba phần của một thân thể, có thể nói ba là một, nhưng một cũng là ba (Trinity): Không hiếu đễ thì mất chỗ xuất sinh; không cơm áo thì mất chỗ nuôi nấng; không lễ nhạc thì mất chỗ thành tựu. Nhờ những tác vụ ấy mà ta có Thiên đạo, Địa đạo và Nhân đạo. Chính các quẻ trong Bát Quái hay 64 hào là hình ảnh của Tam Tài hay Tam đạo, mà lý thuyết căn bản là yếu nghĩa của thiên “Hệ từ hạ,” nguyên văn như sau:
“Dịch chi vi thư giã, quảng đại tất bị. Hữu thiên đạo yên, hữu nhân đạo yên, hữu địa đạo yên. Kiêm tam tài nhi lưỡng chi cố lục. Lục giã phi tha giã, tam tài chi đạo giả” (Dịch là sách rất sâu rộng hoàn bị; trong đó bao hàm đạo Trời, đạo Người và đạo Đất. Như thế gồm ba nguyên tố, nhân đôi thành sáu; sáu nguyên tố không còn gì khác, đó là đạo Tam Tài).
Cặp nguyên lý Âm – Dương nói lên ý nghĩa của sự biến hóa theo những cặp nhị nguyên khác, như đã trích dẫn trên trong “Tứ Quái Truyện”: “Để thành đạo Trời thì có âm và dương, để thành đạo đất thì có nhu và cương, để thành đạo người thì có nhân và nghĩa.” Trời được coi là nắm giữ luật biến hóa của vũ trụ và điều hòa các cặp nhị nguyên đối lập. Nhu và cương thể hiện tính âm dương một cách thực tế trên vạn vật. Tuy là cặp đối nghịch, nhưng cặp đối nghịch này luôn thôi thúc va đụng nhau để hòa nhau trong cuộc hóa sinh. Còn nhân và nghĩa thuộc giới hiện sinh nơi con người. Đạo người căn cứ ở Nhân, còn Nhân là lòng thương người, còn nghĩa là sự đối đãi cho hợp với đạo Nhân.
Thiên đạo thể hiện ở chữ Thời: Thiên thời. Địa đạo thể hiện ở lợi thế: Địa lợi. Nhân hòa thể hiện ở sự thuận hòa với mọi người: Nhân hòa. Bởi vậy mới thành nguyên tắc: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Thiên thời là trật tự của Trời, là đường lối của Trời: “Thời nãi thiên đạo.” Đường lối của Trời là hành động mọi sự theo đúng trật tự đã chỉ định: Nên làm thì làm; nên đình chỉ thì đình chỉ: “Thời hành tắc hành” (Thời chỉ tắc chỉ). Cứ theo đúng nhịp thời gian không gian mà làm, thường sẽ thành công: “Thời thuận nhi vật thành.”
Địa lợi là theo đúng hoàn cảnh nên chăng, mà thích nghi cho phát sinh lợi điểm, bởi vậy mới có câu: “Lợi điểm chính là điều hòa và thích nghi” (lợi giả nghĩa chi hòa dã) thích nghi là có lợi cho sự vật và nhân sinh: “Lợi vật túc dĩ hòa nghĩa”. Địa lợi đây là để dưỡng sinh vạn vật.
Nhân hòa là nhu thuận hòa đồng với mọi người và được mọi người chấp nhận. Trong đạo người, một khi đã đại hòa, thì chẳng những không mất mát gì, mà lại có thể biến hóa được mọi sự trong một nhịp sống bình an phẳng lặng. Sau cùng sẽ điều hòa được cuộc sống mà đạt thành nhân đạo.
Nhân ái đối với người chết là tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ và tổ tiên bằng tục để tang 3 năm để tưởng nhớ đến công sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ. Điều này được thế hiện rõ qua đoạn đối thoại giữa Khổng Tử và học trò ông là Tể Ngã:
Tể Ngã hỏi: “Sau khi cha mẹ chết, con cái phải để tang 3 năm, tưởng đủ một năm cũng đã là quá dài. Người quân tử 3 năm không ôn tập về lễ, việc lễ sẽ quên hết; 3 năm không giảng tập về nhạc, việc nhạc cũng quên hết. Để một năm lúa cũ ăn hết, lúa mới lại đã chín, những thứ cây để dùi mà lấy lửa cũng đã dùng hết. Vậy để tang được 1 năm cũng được rồi.”
Khổng Tử nói: “Trong 3 năm để tang cha mẹ, nếu ăn gạo thơm, mặc áo gấm thì ngươi có yên lòng được không?”
Tể Ngã thưa: “Yên lòng.”
Khổng Tử nói: “Ngươi yên lòng thì cứ làm như thế! Ôi, Người quân tử trong kỳ để tang ăn đồ ngon mà không biết vị, nghe nhạc hay mà không biết vui, ở nhà cũng cảm thấy không yên, cho nên không để tang trong một năm là như vậy. Còn bây giờ ngươi yên tâm thì cứ đi mà làm!”
Tể Ngã ra về. Khổng Tử nói: “Tể Ngã là kẻ bất nhân. Người ta sinh ra 3 năm mới có thể rời khỏi bàn tay ẵm bồng của cha mẹ. Cha mẹ chết để tang 3 năm, mọi người đều làm như vậy. Chẳng lẽ Tể Ngã không được cha mẹ yêu quý đùm bọc trong 3 năm ư?”
Tể Ngã nghĩ rằng nếu đủ một năm thì trời đất chuyển vận khắp một vòng, vạn vật đều đã biến đổi, việc để tang cha mẹ đến đó thôi, 3 năm thì lâu quá. Nó làm hại cho lễ, nhạc và kinh tế. Điều này làm Khổng Tử rất giận nên mới chửi Tể Ngã là hạng bất nhân: quên công cha mẹ bồng bế 3 năm nên nhẫn tâm ăn đồ ngon, mặc áo đẹp, nghe nhạc một năm sau khi cha mẹ chết.
Mục lục bài viết
Giữa người lớn đối với người nhỏ là giữa vua, quan đối với bề tôi; giữa cha mẹ đối với con cái. Khổng Tử bàn nhiều đến nhân chứ không phải là nhân ái. Chỉ có một lần ông trả lời Phan Trì là: “Nhân là nhân ái” hay nhân là yêu người. Tuy nhiên, theo Khổng Tử nhân chủ yếu là giúp người. Giúp người hàm cái ý yêu người rồi, vì có yêu thì mới giúp. Nếu chỉ yêu suông mà không giúp thì không gọi là nhân được. Đức nhân cần cho mọi người, nhưng người thường mà nhân thì chỉ giúp được một số ít người thôi; hạng vua chúa mà nhân thì giúp được cho cả nước, cả thiên hạ. Cho nên nhân phải là đức căn bản của vua, có vậy mới làm tròn sứ mạng trời giao phó cho họ.
Khổng Tử là người đầu tiên nói nhiều nhất đến tư cách người cầm quyền, đến bổn phận họ phải sửa mình, phải làm gương cho dân, phải giáo hóa dân. Khi vua Tề Cảnh Công hỏi ông về cách trị dân, ông đáp: “Làm vua phải trọn đạo làm vua, làm vua phải trọn đạo làm tôi, làm cha phải trọn đạo làm cha, làm con phải trọn đạo làm con.” (Luận Ngữ 12, 11). Nếu các vị vua hay các nhà lãnh đạo sống đúng thuyết chính danh, hay nói đúng hơn là sống đúng vai trò lãnh đạo của họ là họ đã thương dân rồi vậy. Việc lãnh đạo một quốc gia được Khổng Tử chỉ vẽ cụ thế như sau: “Quản lý lãnh đạo một quốc gia có nghìn cỗ xe, phải xử lý nghiêm túc, cẩn thẩn, chu đáo tất cả mọi công việc, phải đặc biệt giữ điều tín đối với dân, tiết kiệm chi tiêu, yêu mến dân, sử dụng sức dân trong thời gian thích hợp.”
Qua đoạn trích trên ta thấy đạo yêu dân của Khổng Tử chính là đạo trị nước. Người lãnh đạo một quốc gia có lòng yêu thương dân hay không, việc làm có đưa lại niềm hạnh phúc ấm no cho dân hay không, điều đó quyết định tất cả. Yêu dân là phải làm sao cho dân ăn no, mặc ấm và giàu có, sau đó phải giáo hóa dân bởi vì dân được giáo hóa thì dễ sai bảo, dễ trị, công việc chính hình sẽ nhẹ đi nhiều, nếu kết quả của sự giáo hóa thật tốt thì nhà cầm quyền chẳng phải làm gì mà nhà nước trị. Khi sửa phạt dân thì dùng đạo đức để cảm hóa chứ không dùng vũ lực. Khổng Tử cho rằng lấy đạo đức cảm hóa dân thực hành đức nhân, làm việc tốt, thì dân chúng sẽ theo đó mà làm việc tốt, thực hiện đức nhân. Chứ còn dùng biện pháp giết người để trừng trị là không hiệu quả. Điều này có nghĩa là người lãnh đạo chỉ cần có thiện tâm, sẽ bồi dưỡng nên một xã hội có phong thái cao thượng, lương thiện. Khi Khang Tử hỏi Khổng Tử về vấn đề quản lý chính sự rằng: “Giết kẻ vô đạo, để dân biết mà tiến tới có đạo, làm như vậy có được không?”
Khổng Tử nói: “Ngài quản lý quốc gia, cần giữ đến việc chém giết? Ngài thực sự làm điều thiện, dân sẽ làm theo điều thiện. Đức hạnh người quân tử giống như gió, đức hạnh kẻ tiểu nhân giống như cỏ. Gió thổi trên cỏ, cỏ nhất định rạp theo chiều gió.” Khiến dân làm việc thì phải hợp thời, khi dân rãnh việc nông. Nên đánh thuế nhẹ dân vì dân no thì vua cũng no. Phận làm vua thì không được lãng phí mà phải yêu dân, cái gì không có lợi cho dân thì đừng tiêu.
Sau cùng quan trọng nhất là phân phối quân bình thì dân mới không bị bóc lột mà được no đủ. Điều này được minh chứng rõ qua đoạn đối thoại giữa Khổng Tử và Nhiễm Hữu: “Khâu này nghe nói người có nước có nhà không lo nghèo thiếu mà lo cho sự phân phối không quân bình, không lo ít dân mà lo xã tắc không yên. Phân phối quân bình thì dân không nghèo; Hòa thuận (vì không có sự bóc lột, tranh giành, không có ngươi giàu quá, kẻ nghèo quá). Sau đó, dân sẽ không ít vì dân vui vẻ sống, nước trị thì dân ở các nước khác quy tụ lại, như vậy xã tắc sẽ yên ổn, chính quyền không bị nghiêng đổ”
Quan đối với dân: Nhân ái của quan đối với dân là phải yêu dân. Khổng Tử khen Tử Sản, một Tể Tướng nước Trịnh là con người nhân từ và rất thương dân. Ông đã có nhiều cống hiến cho xã hội, cho quốc gia, đưa lại cho dân nhiều ân huệ. Khổng Tử còn nói thêm: “Tử Sản có bốn điều phù hợp đạo người quân tử: Thái độ thì cung kính, khiêm tốn, trang trọng, uy nghiêm. Phụng thờ vua thì cẩn thận, chu đáo, làm hết chức trách của mình. Nuôi dân thì biết vỗ về, đưa lại nhiều ân huệ cho dân. Sử dụng, sai khiến dân thì hợp tình hợp lý” (Luận Ngữ 5, 16).
Tử Sản quả thật là một con người chính danh quân tử. Chính vì thế, ông là một con người nhân ái trong vai trò của ông vậy. Thái độ xử sự và cách thờ vua của ông cho ta thấy ông là một người yêu vua và trung thành với vua. Cách phục vụ, giáo hóa và sai khiến dân của ông cho ta thấy ông lại là một con người yêu dân. Ông chính là vị quan mẫu mực mà các vị quan khác nên học theo. Một vị quan khác là Quản Trọng người mà bị các học trò của Khổng Tử chê là bất nhân vì không chết theo chủ là Công Tử cũ mà sau lại còn thờ người giết chủ mình, tức Tề Hoàn Công nữa. Khổng Tử không chê Quản Trọng mà còn khen là người nhân nữa. Khổng Tử bảo: “Hoàn Công chín lần họp chư hầu mà không phải dùng võ lực uy hiếp họ, đó là nhờ tài sức của Quản Trọng. Nhân đức của ông ấy là ở đó. Quản Trọng giúp Hoàn Công khiến Hoàn Công làm bá các chư hầu, thiên hạ quy về một mối, nhân dân đến nay còn mang ơn ông. Nếu không có ông thì ngày nay đã phải giốc tốc, mắc áo có vạc bên trái rồi; ông ấy há như bọn thất phu, thất phụ giữ đức tín tầm thường, tự treo cổ nơi ngoài rãnh mà chẳng ai biết tới ư?” (Luận Ngữ 14,16-17).
Quản Trọng có công lớn với dân tộc Trung Hoa là giữ cho đất nước được thái bình. Giúp ích cho dân chính là yêu dân vậy. Tuy Khổng Tử là người Tôn Quân, khuyên người ta trung quân, nhưng vẫn coi sự giúp ích cho dân cho nước quan trọng hơn sự tự tiết một cách vô ích.
Ngoài việc khen một số quan có lòng nhân, Khổng Tử còn khuyên học trò ông cách làm quan nữa. Ông nói: “Người bề trên ngay thẳng, dù không ra lệnh, người dưới vẫn làm theo. Người bề trên không ngay thẳng, tuy có mệnh lệnh rất nghiêm, người dưới cũng chẳng theo” (Luận Ngữ 13, 6).
Một lần khác, Khổng Tử nhắc lại đức ngay thẳng của người lãnh đạo như sau: “Nếu có thể sửa mình ngay thẳng, thì lãnh đạo quốc gia có khó gì? Không sửa được mình ngay thẳng làm sao có thể làm người khác ngay thẳng?” (Luận Ngữ 13, 13). Mình có ngay thẳng thì mới có thể giúp đỡ người khác ngay thẳng, làm cho tư tưởng của nhân dân yên tâm xã hội ổn định phát triển. Chính vì thế việc sống ngay thẳng của các vị lãnh đạo là yêu dân vậy.
Khi Tử Trương hỏi Khổng Tử về đạo nhân trong việc trị nhân thì Khổng Tử đáp: “Làm được 5 đức này trong thiên hạ thì gọi là nhân: “Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ.” Cung kính thì không bị khinh nhờn, khoan hậu thì được lòng người, thành tín thì được người ta tín nhiệm, cần mẫn thì thành công, từ huệ thì sử dụng được người (Luận Ngữ 17,6).
Chúng ta thấy trong 5 đức đó, ông chú trọng đức yêu và đức nhân; khoan hậu là yêu dân, cần mẫn là giúp dân, từ huệ là thương dân, ban ơn cho dân. Nói tóm lại, một vị quan tốt thì phải có lòng nhân ái, phải yêu dân, giúp ích cho dân và ban ơn cho dân.
Cha mẹ với con cái: Về nhân ái giữa cha mẹ đối với con cái, Khổng Tử nhấn mạnh đến yếu tố giáo dục con. Yêu con thì phải dạy con, mà khi dạy thì phải dạy đúng cách. Ông nói: “Yêu con mà không dạy con phải chịu khó nhọc được ư? Trung với vua mà không khuyên can vua theo đường chính ư?” (Luận Ngữ 14, 18).
Thật yêu con mình mà không bắt con lao động để rèn luyện, không phải trải qua khó khăn gian khổ, tưởng là yêu nhưng thực là có hại. Yêu con như vậy chỉ bằng hại con. Dạy con nên để con lao động gian khổ, chủ động rèn luyện, có đủ nghị lực để vuợt qua phong ba bão táp của cuộc đời, đem sức lực của mình ra làm những việc có ích. Đó là yêu con bằng tình cảm lớn nhất, sâu sắc nhất. Ngược lại, có người đối với con cái chiều chuộng quá độ, tạo cho con cuộc sống an nhàn hưởng thụ, luời biếng, sợ vất vả khó nhọc, sợ nắng, sợ mưa, sợ gió… Đây không phải là yêu con mà là hại con vì suốt đời con sẽ không làm nỗi được việc gì.
Về việc đối xử giữa người lớn đối với người nhỏ, người trên đối với người dưới, cha mẹ đối với con cái thì Khổng Tử dạy rằng: “Người bề trên đối với kẻ dưới không khoan dung rộng lượng, chấp hành lễ không nghiêm túc, kính cẩn, cử hành tang lễ không đau buồn, thương xót, làm sao ta có thể chịu được?” (LN 3,25) Người bề trên không có tấm lòng khoan dung, rộng lượng đối với người bề dưới thì bất nhân. Theo Khổng Tử, người bề trên cần khoan dung độ lượng, nới rộng ân huệ, đưa lại lợi ích cho người dưới, đưa lại điều hay, điều tốt, niềm vui cho người dưới, không nên quá khắt khe, vô tình. Ông cũng cho rằng người bề trên còn phải có nhiệm vụ làm gương tốt cho người bề dưới noi theo nữa.
Việc nhân ái giữa người nhỏ đối với người lớn có rất nhiều. Nhưng chúng tôi chỉ xin trình bày một mảng lớn trong Khổng Giáo đó là Đạo Hiếu của con cái đối với cha mẹ. Con cái mà giữ trọn đạo Hiếu với cha mẹ là yêu thương cha mẹ vậy. Khổng Tử nói: “Tuổi trẻ muốn nên ngươi, ở nhà cần phải hiếu thuận với cha mẹ, ra ngoài phải tôn kính người hơn tuổi mình, hành vi phải cẩn thận, lời nói phải giữ điều tín, yêu thương rộng rãi mọi người, biết gần gũi người có đức nhân. Làm được như vậy rồi, nếu còn dư năng lực, thời gian thì học tập tri thức” (Luận Ngữ 1,6).
Hiếu là quan niệm trọng tâm, là tư tưởng quan trọng trong Khổng Giáo. Quan niệm này yêu cầu thanh thiếu niên ở gia đình phải tôn kính cha mẹ, đối xử phụng dưỡng cha mẹ tử tế. Đây được xem là nguồn gốc, nguyên tắc duy trì trật tự, và hòa mục trong gia đình. Chỉ khi ở nhà làm tròn đạo hiếu với cha mẹ, thì khi ra ngoài xã hội mới tận trung với quốc gia.
Vậy Hiếu là gì? Như thế nào thì được gọi là có Hiếu ? Điều này được Khổng Tử trả lời cặn kẽ qua các học trò ông về đạo hiếu.
“Mạnh Ý Tử hỏi về đạo Hiếu. Khổng Tử nói: “Không được vi phạm lễ.” Có một lần Phan Trì đánh xe cho Khổng Tử, Khổng Tử kể lại với Phan Trì rằng: “Mạnh Ý Tử có hỏi ta về đạo Hiếu, ta trả lời là không được vi phạm lễ.”
Phan Trì hỏi lại: “Đây là có ý như thế nào?”
Khổng Tử nói: “Cha mẹ lúc còn sống, phải theo lễ mà đối xử phụng sự. Cha mẹ chết, phải theo lễ mà an táng, theo lễ mà cúng tế.”
Mạnh Vũ Bá hỏi về đạo Hiếu. Khổng Tử nói: “Làm cha mẹ chỉ lo sợ con mang bệnh tật mà thôi.”
Tử Du hỏi về đạo Hiếu. Khổng Tử nói: “Ngày nay, thấy ai có thể nuôi dưỡng được cha mẹ, thì người ta gọi là có Hiếu. Nhưng đến như giống chó ngựa, thì người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên nếu không có lòng hiếu kính cha mẹ trong khi nuôi dưỡng thì nuôi cha mẹ và nuôi chó ngựa có gì khác nhau?”
Tử Hạ hỏi về đạo Hiếu. Khổng Tử nói: “Điều khó nhất là con cái đối với cha mẹ có giữ được vẻ hòa vui mãi mãi hay không. Chứ còn như có việc gì cần làm con cái làm thay cho cha mẹ, có gì ngon thì mời cha mẹ ăn, đây chắc gì đã là có Hiếu?” (Luận Ngữ 2, 5-8)
Qua các mẫu đối thoại trên ta thấy có bốn khía cạnh của đạo Hiếu:
– Thứ nhất, làm con không được vi phạm lễ nghĩa mới là có hiếu.
– Thứ hai, làm con phải biết giữ gìn thân thể của mình cũng là có hiếu. Vì cha mẹ vô cùng yêu quý con, rất lo sợ, đau buồn nếu con mình mắc phải bệnh tật.
– Thứ ba, con cái nuôi dưỡng cha mẹ mà không kính trọng thì chưa phải là có Hiếu.
– Thứ tư, làm con đối với cha mẹ phải luôn giữ được hòa vui là đã thực hiện được đạo Hiếu.
Nhân ái giữa người với người của Khổng Giáo được thể hiện rõ qua câu: “Việc mình không muốn thì đừng ép người khác muốn.” Như thế nhân ái chính là công bằng. Khi Tử Cống hỏi: “Giả dụ có một người đưa lại nhiều điều tốt đẹp cho dân chúng, lại có thể giúp đỡ mọi người có cuộc sống ấm no, người như vậy có được xem là người có đức nhân không?”
Khổng Tử nói: “Người như vậy, không chỉ là người có đức nhân mà còn là người bậc thánh nhân nữa! Vua Nghiêu, vua Thuấn, cũng khó làm được như vậy! Còn như người có đức nhân là người biết mình đã lập nên sự nghiệp rồi, cũng muốn người khác lập nên sự nghiệp; mình thành đạt cũng muốn người khác thành đạt; phàm làm việc gì cũng biết lấy mình để đối chiếu, lấy mình làm thử để hiểu biết ý muốn của người. Đó là phương pháp để trở thành người có đức nhân vậy” (Luận Ngữ 6, 30).
Có 3 điều Khổng Tử muốn dạy chúng ta :
– Thứ nhất, mình muốn làm nên sự nghiệp, cũng muốn người khác làm nên sự nghiệp. Không nên hại người để lợi mình. Không nên triệt hạ người khác để có chỗ đứng và địa vị trong xã hội.
– Thứ hai, mình muốn thành đạt cũng muốn người khác thành đạt. Chúng ta không nên đố kỵ khi người khác hơn mình. Đừng chỉ biết vui khi thấy mình hưng thịnh mà không vui mừng khi thấy người hưng thịnh.
– Thứ ba, phàm làm việc gì cũng biết lấy mình để đối chiếu, lấy mình làm thử để hiểu biết ý muốn của người.
Nếu chúng ta sống đúng với 3 điều dạy trên thì không những chúng ta yêu người mà còn yêu mình nữa.
Trung Hoa là đất nước có văn hoá nông nghiệp gốc du mục, bản tính động nên luôn lấy gia đình làm gốc.
Khái niệm “Quốc Gia” của Trung Hoa xuất phát từ văn hoá trọng gia đình hơn gia tộc. Chế độ gia đình chính là cơ sở cho việc quản lý xã hội Trung Hoa.
Phát xuất từ những ý tưởng đó ta thấy rằng quan niệm về Nhân cũng dựa trên cở sở huyết thống. Chủ trương phải “thân yêu người thân” đã chiếm hết toàn bộ tư tưởng, chính trị, đạo đức của Khổng Tử. Nếu thuyết “Kiêm ái” của mặc Tử chủ trương yêu thương tất cả mọi người, không phân biệt thân sơ, gần xa, tốt xấu thì học thuyết Nhân sẽ lấy huyết thống để xác định liều lượng đậm nhạt, ít nhiều của nhân ái. Mạnh Tử nói rằng:
“Ngời trí phải hiểu biết tất cả, nhưng trươc hết nên hiểu biết những việc cần kíp. Người NHÂN phải yêu thương tất cả, nhưng trước hết nên yêu thương kẻ thân tộc và người tài đức.”.
Xuất phát từ quan niệm đó, Nho giáo đã xây dựng nên những mối quan hệ rất cụ thể và chặt chẽ trong gia đình (cha con – anh em – chồng vợ) gọi là gia đạo chính. Trong cái gọi là gia đạo chính ấy thì quan hệ cha với con, anh với em, tiêu biểu bằng chữ hiếu và đễ, luôn được Nho giáo đề cao. Về điểm này, Phan Bội Châu đã phân tích rất thấu tình đạt lý. Theo ông, cố tuỷ của chữ Nhân là yêu người, nhưng không thể trong cùng một lúc mà yêu thương tất cả mọi người được. Do vậy, lẽ tất nhiên phải từ trong nhà mình yêu ra: yêu cha mẹ và yêu anh em… Đương nhiên, chữ Nhân không chỉ có vậy song lúc ban đầu làm Nhân tất cội rễ phải từ chốn ấy. Nếu có hạng người không thương cha mẹ (bất hiếu) và không thương anh em (bất đễ) mà lại nói rằng thương loài người, thương thế giới thì không thể tin được.
Trong quan niệm của Nho giáo thì hiếu đễ là bản tính tự nhiên, bẩm sinh của con người mà trời đã phú sẵn cho. Mạnh Tử nói: “Trong những đứa trẻ vừa biết cười mà người ta còn bồng bế trong tay, không một đứa nào chẳng thương cha mẹ nó. Đến chừng lớn lên, không một đứa nào chẳng biết kính anh nó. Thương cha mẹ, đó là lòng nhân vậy. Kính huynh trưởng, đó là đức nghĩa vậy. Không gì lạ, hai mối tình thiên nhiên ấy vẫn thông đạt khắp trong thiên hạ.” Vì vậy, người có lòng nhân phải là người biết thảo kính với cha mẹ, yêu mến anh em.
Nho giáo luôn đề cao hiếu đễ: “Nếu mỗi người đều yêu thương cha mẹ, bà con mình, kính trọng bậc huynh trưởng của mình thì tự nhiên thiên hạ sẽ thái bình” (nhân nhân thân kỳ nhân, trưởng kỳ trưởng, nhi thiên hạ bình).
Hữu Tử, học trò của Khổng Tử cũng khẳng định vị trí quan trọng của hiếu đễ: “người quân tử chú tâm vào gốc rễ, gốc rễ có vững thì đạo mới phát sinh được. Hiếu đễ chính là gốc của nhân vậy” (Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh. Hiếu đễ giã giả, kỳ vi nhân chi bản dư). Giải thích điều này Vi Chính Thông cho rằng, về mặt tư tưởng thì Khổng Tử lấy nhân làm tôn chỉ nhưng hành động được coi là lý tưởng trong thực tiễn của con người thì lại là “thờ phụng hiếu”. Do vậy, hiếu không chỉ là gốc của nhân mà còn là cốt lõi của nền văn hoá Trung Quốc.
Nho giáo chủ trương hành đạo. Bậc quân tử, tức là người có Nhân phải là người biết đem tài, đức của mình để trị nước, cứu đời, đem lại hạnh phúc cho muôn dân trong một xã hội thái bình, thịnh trị.
Phận làm dân trong một nước thì phải tận trung với Vua. Với mục đích lập lại trật tự, kỷ cương của xã hội, Nho giáo đề cao tinh thần trung quân và xem đó là yêu cầu đạo đức, phẩm giá cao đẹp của đạo làm người, là thước đo khí tiết của những bậc đại trượng phu, anh hùng hào kiệt . Chữ trung ở đây là trung với vua “Thờ vua hết lòng”, hành vi “liều mình cứu chúa” cũng sẽ được tôn vinh là hành vi hy sinh cứu nước. Do vậy khái niệm trung quân lúc này cũng được coi là yêu nước.
Trung với vua tức là phải có lòng dạ ngay thẳng, biết can ngăn, khuyên nhủ vua theo đúng điều Nhân, tránh cho vua phạm những điều lầm lỗi. Theo Khổng Tử thì người Nhân ra làm quan phải lấy sự yên lành, hạnh phúc của muôn dân là trọng chứ không vì tấm lòng trung nhỏ hẹp của nghĩa quân thần. Quản Trọng là bề tôi của công tử Củ. Khi Tề Hoàn Công giết công tử Củ để tranh ngôi. Quản Trọng chẳng chết theo chúa như thiệu Hốt mà còn làm tướng giúp Hoàn Công. Song Khổng Tử vẫn khen Quản Trọng là người mà thiên hạ đổi loạn ra trị, cho đến nay dân chúng vẫn còn hưởng ân đức của người.
Ngược dòng lịch sử hơn 4000 năm văn hiến, con người Việt Nam sống trong một nền văn minh nông nghiệp, lấy lúa nước là ngành sản xuất chính. Do đó, toàn thể đời sống cá nhân đến đời sống cộng đoàn đều được công việc trồng lúa trên đồng ruộng quy định. Trồng lúa nước, nghĩa là, suốt đời này sang đời khác trong mấy ngàn năm phải gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên, trước hết là Đất và Nước, và sau đó là tứ thời bát tiết nhịp nhàng đổi thay.
Từ khởi thủy, người Việt phải đấu tranh hàng ngày hàng giờ để lấn từng tấc đất đồng chua nước mặn của biển, và sau đó đối phó triền miên với nạn ngập lụt, người dân phải thích ứng với thiên nhiên:
“…Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề,
trông trời, trông đất, trông mây,
trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm,
trông cho chân cứng đá mềm,
trời yên biển lặng mới yên tấm lòng.”
Hoặc: “Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày…”
Người dân sống hài hòa với thiên nhiên, với đất trời, với vũ trụ, biết tận dụng những quà tặng của đất trời phục vụ cho đời sống, tạo nên những phong tục, tập quán tốt đẹp như trong truyện “Bánh chưng bánh dày.” Chuyện kể về việc thần hiện ra mách bảo với Lang Liêu, hoàng tử thứ mười tám của Hùng Vương: “Các vật trên trời đất và mọi của quý trên đời không gì bằng gạo. Gạo có thể nuôi người khỏe mạnh mà ăn không bao giờ chán, các vật khác không thể hơn được. Nay đem gạo nếp làm bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để tượng trưng cho trời đất rồi dùng lá bọc ngoài, ở trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ.”
Người dân nông nghiệp sống phụ thuộc vào thiên nhiên, ở cố định một chổ với cái nhà, cái cây của mình nên có ý thức tôn trọng, không dám ganh đua với thiên nhiên. Không chỉ phụ thuộc vào một vài hiện tượng riêng lẻ, mà cùng một lục phụ thuộc vào tất cả: trời, đất, mưa, nắng… Nắng nhiều quá cũng chết mà không nắng cũng chết, mưa nhiều quá cũng chết mà không mưa cũng chết.
Qua thiên nhiên người dân học biết những kinh nghiệm hết sức phong phú, phục vụ cho đời sống thường ngày: Trời đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa; quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; ráng mỡ gà, ai có nhà thì giữ; được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa.
Chữ Nhân trong Nho giáo có nội dung rất phong phú, phức tạp, nhưng người Việt chúng ta hiểu chữ Nhân đơn giản là lòng thương người.
Trước hết, nhân tức là lấy lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình làm nền tảng, được biểu hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau như quan niệm về vai trò của con người; sống lương thiện và phục thiện (ở hiền gặp lành), nhận thức về trách nhiệm đối với nhau và giữa các thế hệ; sự tinh tế trong ứng xử và cách đối nhân xử thế kể cả đối với kẻ thù. Sử sách đã ghi lại nhiều việc làm thể hiện lòng nhân đạo của người dân ta, như trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh, quân ta không chỉ tha cho kẻ thù bại trận mà còn cấp hàng trăm chiếc thuyền, hàng nghìn cỗ ngựa để quân Minh về nước.
Người Việt Nam sống nhân nghĩa, thủy chung “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là những đạo lý tốt đẹp. Người dân đã xây dựng hàng ngàn di tích lịch sử, đình, đền…thờ những người có công với dân nước, những anh hùng dân tộc; những nhà lưu niệm các chiến sĩ cách mạng; những nghĩa trang tôn vinh các anh hùng liệt sĩ; những ngôi nhà tình nghĩa…là những biểu hiện vật chất của lòng nhân nghĩa Việt Nam.
Với người Việt Nam “một tấc không đi, một ly không rời,” việc bám trụ quê cha đất tổ, bảo toàn được lãnh thổ ngàn đời, há chẳng phải là thành tích kỳ diệu của chủ nghĩa yêu nước phát sinh từ thời đại Văn Lang đó sao. Điều đó cho thấy được sự gắn bó của người Việt đối với quê hương, đất nước, nhất là luôn hướng về nơi “chôn nhau cắt rốn.” Dù đi đâu, người Việt luôn hướng về gia đình mình, những ngày tết, ngày lễ, con cháu sum vầy bên ông bà, cha mẹ, cả thế hệ quây quần bên tiên tổ để gặp gỡ, chia sẻ cho nhau những gì đã qua và hoạch định hướng tới tương lai.
Người Việt Nam sống trọng tình nghĩa, vô luận thế nào nếu thấu được tình thì cũng dễ đạt được lý. Cả khi “tình ngay lý gian” thì trong đó quan hệ và dư luận xã hội hành vi đó cũng được thông cảm, “đánh kẻ chạy đi chứ không bao giờ đánh người chạy lại.” Chất keo gắn bó trong và ngoài cộng đồng là tình nghĩa.
Người Việt thích thăm viếng. Phàm là người Việt đã thân nhau, thì dù hàng ngày có gặp nhau ở đâu, bao nhiêu lần đi nữa, những lúc rãnh rỗi họ vẫn tới thăm nhau. Việc thăm viếng không còn là nhu cầu công việc mà biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, có tác dụng thắt chặt thêm quan hệ.
Cuối cùng, đối với người bình dân Việt Nam thì “nghĩa” đồng nghĩa với “tình” mà Nhân cũng đồng nghĩa với “tình.” Nhân gắn liền với nghĩa, người Việt nói ghép thành “nhân nghĩa,” trong “truyện Lục Vân Tiên” đáp lại lời của Lục Vân Tiên khi chàng nói sẽ đền đáp công ơn, ông lão nói: “Ngư rằng: tôi chẳng lòng sờn, xin tròn nhân nghĩa còn hơn bạc vàng.”
Từ ngàn xưa, gia đình là tế bào, là hạt nhân kiên cố của xã hội, là đơn vị nền tảng bền vững, còn làng xã là hạt nhân vững chắc của nước. Trong gia đình, mỗi người luôn có trách nhiệm và bổn phận đối với nhau. Mỗi người trong gia đình, dù đi làm ăn xa hay ở nhà, vẫn luôn có nhau, luôn đoàn kết hỏi han nhau về mọi việc. Điều này ngay từ đầu đã hình thành trong văn hóa Việt Nam, trong truyện “Lạc Long Quân và Âu Cơ,” khi chia tay để xa nhau, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, dòng giống bất đồng khó ở lâu với nhau được, nay phải chia tay. Ta đem năm mươi con về thủy phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về đất, chia nước mà trị. Lên núi hay xuống biển, hữu sự báo nhau cho biết, đừng quên.”
Đối với anh em trong gia đình, mỗi người luôn đoàn kết yêu thương nhau: Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; môi hở răng lạnh; lá lành đúm lá rách… Còn vợ chồng với nhau, luôn trọn tình chung thủy. Trong truyện “Trầu Cau” cho thấy rõ tình huynh đệ vẹn toàn, nghĩa vợ chồng chung thủy. Câu chuyện “Hòn vọng phu” cho thấy được lòng chung thủy của người phụ nữ Việt Nam đối với chồng.
Con cái đối với cha mẹ là lòng hiếu thảo, giúp đỡ cha mẹ khi còn sống cũng như khi cha mẹ đã qua đời. Luôn phải ghi nhớ công đức sinh thành, dưỡng dục, ca dao hay tục ngữ Việt Nam luôn nhấn mạnh, đề cao giáo dục chữ “hiếu”:
“Công cha như núi Thái Sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
một lòng thờ mẹ kính cha,
cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
Bên cạnh trách nhiệm, bổn phận đối với người sống, thì mọi thành viên đều có trách nhiệm đối với người thân đã qua đời. Thờ cúng tổ tiên là một mặt của nhân đạo. Thờ cúng tổ tiên luôn luôn được tâm niệm: “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn.” Nhân đạo là gì, nếu không phải là lòng yêu người và biết ơn các các thế hệ đi trước đã sinh ra và bồi đắp cho thế hệ ngày nay: Lòng tôn trọng và biết ơn đó cũng định ra những chuẩn mực đạo đức cho con cháu, cho thế hệ kế tục sự sống và sự nghiệp của cha ông. Điều này còn thể hiện ở bản gia phả, mỗi dòng họ thường có bản gia phả của dòng họ mình, ghi lại đầy đủ thông tin hoặc một số thông tin chính thức của từng người trong dòng họ.
Sức mạnh gia tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, yêu thương nhau. Người trong họ có trách nhiệm cưu mang về mặt vật chất: “Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú gì;” hỗ trợ nhau về trí tuệ và tinh thần: nó lú nhưng chú nó khôn; dìu dặt, làm chổ dựa cho nhau về chính trị: “Một người làm quan, cả họ được nhờ.”
Đối với làng xã: Làng có một thứ dân chủ của làng xã, tự quản lý với một bộ máy do dân làng cử ra. Luật lệ của nhà vua chỉ can thiệp vào các việc chung cho cả nước. “Phép vua thua lệ làng” có nguồn gốc sâu xa trong cấu trúc xã hội vững chắc đó, một cấu trúc đảm bảo sự trường cửu của đất nước. Sự gắn kết giữa Nhà – Làng – Nước là một cấu trúc độc đáo, đặc thù của tổ chức xã hội Việt Nam. Bản chất kết cấu này là sư hình thành tư tưởng cộng đồng, yêu thương, đoàn kết, đùm bọc, hòa hợp với nhau; gắn kết giữa cá nhân và tập thể, giữa cái riêng và cái chung với mối quan hệ vận mệnh “nước mất nhà tan”, khi đất nước bị xâm lăng thì biêt dàn xếp, gác mâu thuẫn để cùng nhau chống giặc. Người Việt liên kết với nhau chặt chẽ tới mức “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Nguyên tắc này bổ sung cho nguyên tắc “một giọt máu đào hơn áo nước lã”. Người Việt không thể thiếu được bà con hàng xóm, nhưng đồng thời cũng không thể thiếu được anh em họ hàng.
Đối với quốc gia: Biểu hiện trước hết của lòng yêu nước chính là ý thức về cội nguồn, về dân tộc có từ lâu đời. Ý thức đó rất đẹp thấm đượm trong việc thờ cúng tổ tiên trong mỗi gia đình để ghi nhớ công ơn của những người sinh thành ra mình. Ý thức đó phản ánh trong những hình thức thần thoại, những sử thi anh hùng và chuyện dân gian nói về nguồn gốc dân tộc, về con Hồng cháu Lạc, về những vị thần tượng trưng cho linh khí núi sông đất Việt, về những người anh hùng; tự cường, tự hào về dân tộc, về nòi giống, luôn đặt lợi ích quốc gia lên trên bản thân mình.
Những truyện như “Đổng Thiên Vương, Lý Ông Trọng, Hai Bà Trưng…” nói lên niềm tự hào về non sông đất nước, về anh hùng lịch sử, đồng thời thể hiện sự phản ứng của nhân dân đối với sự áp bức, khinh thị của phong kiến Trung Quốc thời Bắc thuộc. Những truyện “Trầu Cau, Bánh Chưng Bánh Dày, Dưa Hấu” phản ảnh sinh hoạt vật chất và tinh thần của dân tộc ta cũng thể hiện lòng yêu quê hương, đất nước với tất cả khí vị đậm đà của phong tục, tập quán lưu truyền hàng bao đời trong nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng viết trong tác phẩm “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” như sau: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.”
Nhân và nghĩa ở người Việt Nam gắn liền với nhau. Trong “Bình Ngô Đại Cáo,” Nguyễn Trãi mở đầu bằng câu “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”; tư tưởng “khoan thư sức dân” của Trần Quốc Tuấn “khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước”; coi trọng “ý dân”, trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn viết “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân…”; tất cả đều toát lên quan điểm nhân, nghĩa của ông cha ta. Ắt cũng vì vậy, mà người Việt ta có câu: “Nghèo nhân nghèo nghĩa thì lo, nghèo tiền nghèo bạc chẳng cho là nghèo”.
Nền văn minh nông nghiệp phương nam xuất hiện trước Nho giáo một thời gian dài, nó đã để lại những tinh hoa của truyền thống nông nghiệp mà Nho giáo nguyên thủy đã tiếp thu. Giữa hai nền văn hóa Nho giáo và văn hóa Việt Nam, có những nét tương đồng về chữ Nhân:
Trước hết nhân ái là yêu thương, nhân là tình người. Đối với Khổng Tử, nhân trị là cai trị bằng tình người. Cai trị bằng tình người là yêu người, là coi người như bản thân mình. Khổng Tử trả lời Phan Trì về Nhân: “Yêu người” (Luận Ngữ, Nhan Uyên, 22); Còn đối với người Việt Nam, nguyên tắc ứng xử: lấy tình cảm, lấy sự yêu ghét làm nguyên tắc ứng xử trong giao tiếp: “Yêu nhau chín bỏ làm mười; yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo; yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng; yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.”
Thứ đến là lối sống duy cảm, con người nông nghiệp ưa tổ chức cộng đồng theo nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: “Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình.” Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ. Nguyên tắc sống trọng tình cảm và nhu cầu về một cuộc sống hòa thuận còn thể hiện ở tâm lý hiếu hòa: Ngày xưa, trong các cuộc chiến chống ngoại xâm, mỗi khi thắng thế đã thuộc về ta một cách rõ ràng, cha ông ta đều luôn biết dừng lại và chủ động cầu hòa, trải chiếu hoa cho giặc về, mở đường cho giặc rút lui trong danh dự.
Thứ ba con người sống hài hòa với trời đất như trong triết lý Tam Tài. Ba yếu tố “thiên, địa, nhân” hòa quyện với nhau đến nỗi ảnh hưởng tới tất cả mọi sinh hoạt của con người, chỉ khi nào “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” thì mọi sự mới thực sự tốt đẹp. Người Việt Nam là địa bàn có núi non kỳ lạ, đất đai linh thiêng, nhân dân anh hào.
Thứ tư, cả hai nền văn hóa đều có tính đại đồng: Với Nho giáo là “tứ hải giai huynh đệ” với người dân Việt tự hào là “con rồng cháu tiên.” Trong tư tưởng người Việt, bao giờ “yêu nước” cũng đi đôi với “thương nòi” như lời bài hát “dòng máu Lạc Hồng, bốn nghìn năm. Dòng máu đỏ tươi chảy trong tim mình. Nòi giống Lạc Hồng, giống rồng tiên. Nguyện ôm bao đời đất mẹ” (Sáng tác Lê Quang). Người Việt Nam luôn sẵn sàng tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi người trong cộng đồng như anh chị em trong nhà: “tay đứt ruột xót, chị ngã em nâng, lá lành đùm lá rách…”
Cuối cùng, nhân ái là lấy mình làm thước đo: Khổng Tử trả lời Trọng Cung: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Luận Ngữ, Nhan Uyên, 2). Khổng Tử coi Nhân là phạm trù cao nhất của luân lý, đạo đức, là gốc của lễ, nhạc. Còn người Việt Nam lấy lòng thương người làm chuẩn, sống có tình có lý nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi cần cân nhắc giữa tình với lý thì tình được đặt cao hơn lý: “Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình; đưa nhau đến trước cửa quan, bên ngoài là lý, bên trong là tình; có tình có nghĩa hơn cả của tiền.
2.2. Những nét dị biệt
Nội dung
Nho giáo
Văn hóa Việt Nam
Nam quyền – nữ quyền
Nam tôn nữ ti (trọng nam khinh nữ) hay là bất bình quyền: Người Nam gia trưởng độc đoán từ trong gia đình ra tới xã hội (quyền huynh thế phụ…) cho tới Vua là Phụ phụ (cha trên các cha)…
Việt Nam tự ngàn xưa thì nam nữ đã bình quyền hơn.
Ý hướng chữ nhân
Nghiêng về người quân tử, tiêu cực, vì quân tử ở đây cũng hiểu là những người có địa vị chức tước.
Chữ Nhân mang tính đại đồng, già cả lớn bé, bất kể địa vị, không chừa một ai.
Đối tượng người quân tử hướng tới
Người quân tử là người Sính “cổ – lổ – sĩ”, ngại đổi thay nên quyết tử với những gì cấp tiến, sáng tạo, đó là ngu trung – ngu hiếu, tức là vâng phục một cách tối mặt.
Người anh hùng mẫu mực là người quên mình vì yêu nước, thương dân như Quang Trung Nguyễn Huệ…
Trật tự xã hội
Ngũ luân: vua – tôi; phụ – tử; phu – thê; huynh – đệ; bằng hữu.
Cấp bậc xã hội san bằng hơn, ít hơn vì thế dân chủ hơn.
Đạo đức
Trọng đức khinh tài.
Vẹn toàn cả đức lẫn tài: Có đức mà không có tài thì vô dụng, có tài mà không có đức thì cũng không thể làm gì.
Quan niệm đạo đức
Lấy công thẳng mà đáp lại người ác: “Dĩ trực báo oán.”
Đánh kẻ chạy đi – không đánh người chạy lại: “Dĩ đức báo oán”.
Bảng tóm kết nét tương đồng và dị biết giữa chữ Nhân trong văn hóa Nho giáo và trong văn hóa Việt Nam (Trái tim là biểu tượng lối sống duy cảm).
ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐỐI VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM
Với lịch sử 1900 năm truyền bá ở Việt Nam, trong đó có hai giai đoạn chiếm địa vị độc tôn là Hậu Lê (1428 – 1527) và Nguyễn sơ (1802 – 1883), Nho giáo đã tác động mạnh mẽ đến văn hóa Việt Nam. Nho giáo tác động chủ yếu đến các giai cấp, tầng lớp trên trong xã hội, nhưng không ăn sâu bén rễ vào các giai cấp, tầng lớp dưới. Đối với văn hóa tinh thần, Nho giáo góp phần làm hình thành dòng văn hóa quan phương chính thống, bên cạnh dòng văn hóa dân gian gắn với ý thức tộc người, làm nên cốt lõi của văn hóa tộc người. Quan điểm lịch sử và tinh thần khách quan không cho phép phán đoán Nho giáo một cách phiến diện. Không thể phủ nhận những đóng góp tích cực và hợp lý đối với kinh tế, chính trị, xã hội, việc cai trị coi trọng nhân nghĩa hơn tàn bạo. Nho giáo cố gắng đi vào thực tế đương thời để tìm hiểu, đặt ra và giải quyết những vấn đề cụ thể bức thiết trong quan hệ giữa người với người.
Trước hết, Nho giáo đúc nặn tinh thần của dân tộc, tạo thành một nết văn hóa dân tộc. Nho giáo đã góp phần rất quan trọng vào việc tổ chức đời sống xã hội – xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến – một cách có nề nếp, có quy chế, có kỹ cương. Các quan hệ trong đạo “ngũ luân” được Nho giáo lý giải trong tinh thần một thứ quan hệ hai chiều bình đẳng, tôn trọng con người: Quân minh thần trung; phụ từ tử hiếu; phu nghĩa phụ kính; huynh lương đệ dễ; bằng hữu hữu tín. Nho giáo đã có những cố gắng to lớn bền bỉ và những cống hiến tích cực trong việc khuyên bảo dạy dỗ cho con người thương yêu đồng loại, cho người và người có quan hệ tốt với nhau, sống yên vui hòa thuận với nhau.
Lấy nhân nghĩa làm nền tảng tư tưởng cho đường lối trị quốc an dân. Ta thấy đạo Nho nhấn mạnh “lễ trị”, “đức trị”, không nặng về “uy trị”, “pháp trị”. Tư tưởng nhân nghĩa thấm vào các tầng lớp, cho nên mỗi khi định làm việc nhỏ, việc lớn, người ta thường tính toán, cân nhắc xem có hại đến nhân nghĩa không, và luôn luôn đem nhân nghĩa ra kêu gọi người ta tham gia và ủng hộ. Điều trái với nhân nghĩa không phải chỉ là những việc hại đến tính mạng, tài sản, danh dự, tình cảm của cá nhân. Nó gồm cả điều xúc phạm đến độc lập, tự do của một dân tộc, vì đã xâm phạm tới độc lập, tự do một dân tộc, thì chính là làm hại đến cả tính mạng, danh dự, tình cảm của mọi người trong dân tộc. Nho giáo tỏ rõ tinh thần tích cực đi vào cuộc sống xã hội, đứng ra đảm nhiệm việc dân việc nước, việc thiên hạ nhằm thực hiện lý tưởng của mình ở khắp nơi.
Về giáo dục, ở những thời xa xưa, học tập cho được là rất khó. Cố nhiên, đối với với đông đảo nhân dân lao động, học chữ nghĩa, học sách vở là một điều không thể thực hiện, thậm chí không thể với tới. Nho giáo đã rất tích cực hoạt động nhằm thúc đẩy và mở rộng việc học trong xã hội đương thời. Với phương châm của Khổng Tử: “Học không chán, dạy người không mệt mỏi.” Nho giáo là cơ sở hình thành hệ thống giáo dục chính thống của Việt Nam trung đại ở bốn cấp kinh đô – tỉnh/đạo – phủ – huyện/châu, và chế độ thi tuyển gồm bốn cấp khảo hạch – thi Hương – thi Hội – thi Đình, để đào tạo ra quan lại nhà nước, quan viên làng xã. Hệ thống giáo dục chính thống này tồn tại song hành với mạng lưới giáo dục dân gian trong gia đình, làng xóm, làng nghề, nhằm giáo dục cách ứng xử với gia đình, cha mẹ, ông bà, tổ tiên, họ hàng, làng xóm, thần linh… Những đặc điểm của nền giáo dục Nho giáo đã tạo nên truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo của người Việt Nam,“nhất tự vi sư, bán tự vi sư.”
Nhà nho Việt Nam coi Nho giáo như là tôn giáo; gạt bỏ, bài xích các tôn giáo khác ngoại trừ những nội dung được Nho giáo chấp nhận và khuyến khích, như lòng tin vào thiên mệnh, việc tế lễ, việc thờ cúng tổ tiên… Vì vậy, trong Nho giáo là tôn giáo của đàn ông người Việt, bên cạnh các tôn giáo dành cho các bà các cô như đạo Phật, đạo Mẫu…
Sự tác động của Nho giáo và văn hóa Hán đã làm Hán hóa một phần các phong tục vòng đời, đặc biệt là phong tục hôn nhân, phong tục tang ma. Trong thời trung đại, các phong tục này đều lấy hình mẫu của Nho giáo và văn hóa Hán làm chuẩn mực.
Nho giáo đã góp phần làm hình thành các thể văn khoa cử (kinh nghĩa, chiếu, biểu, luận, văn sách, thơ, phú…), các thể loại văn học mô phỏng Trung Hoa (thơ Đường luật, phú, từ, đối…), các điển tích văn học, các sách giáo khoa truyền thụ Nho giáo, các tác phẩm văn học và nghệ thuật chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Những sản phẩm ấy làm thành dòng văn học nghệ thuật quan phương chính thống, tồn tại song hành với dòng văn học dân gian, nghệ thuật dân gian.
Phải nói ngay rằng, bên cạnh một số đóng góp cho di sản văn hóa tinh thần của Nho giáo đối với Việt Nam, thì chúng ta không thể không phủ nhận những tác động tiêu cực của nó đối với văn hóa Việt Nam, một cách trực tiếp hay gián tiếp. Có thể quả quyết hệ luận của Nho giáo mang lại là nguy hại nhiều hơn, tàn dư độc hại của nó không chỉ lắng đọng trong tinh thần, mà còn loang rộng ra cả văn hóa vật chất của nước Việt. Để công bằng chúng ta sẽ xét ảnh hưởng của Nho giáo trên mấy lãnh vực sau:
Chất lượng giáo dục của Việt Nam từ lâu nay luôn ở vị trí “đội sổ” châu lục, thì còn mơ tưởng gì thứ hạng trên thế giới. Cái gì cũng có nguyên do của nó. Phải chăng là trí tuệ con dân Việt kém cỏi? Không đời nào vì xét về độ thông minh người Việt có thừa. Nhưng căn để là cái bóng của Nho giáo phủ trùm triệt để trên nền giáo dục nước nhà. Đặc tính của Nho giáo là luôn lấy tư tưởng ngàn năm xa xưa làm thước ngắm, làm khuôn vàng thước ngọc, cho nên khi áp dụng vào Việt Nam, nó đã kéo lùi toàn diện nền giáo dục Việt Nam xuống mức đáy hủ lậu. Phương pháp học tập theo lối huấn hỗ (giải nghĩa kinh sách, từ chương (tức cảnh sinh tình, ngâm nga đôi câu thơ tứ tuyệt, tầm chương trích cú, thuộc làu kinh sử…)) Đó là lối học giáo điều, vừa phù phiếm, chủ yếu làm đỏm dáng của kẻ trí thức, còn tuyệt nhiên vô bổ và vô dụng với con người xã hội và đất nước. Nó giết chết mầm sáng tạo, chặn đứng sự tiến bộ, biến học sinh thành những con vẹt, thành những đầu rỗng tuếch trí tuệ, đầu chứa những bài học thuộc lòng như những chiếc thùng đựng đồ vật vậy mà không cải biến phẩm chất trí tuệ của người học trò. Chính vì vậy hình thành lối học thầy đọc trò chép, và một khi không thể sáng tạo, thì “cướp” của người khác xài như của mình là tất yếu, đó là hiện tượng “đạo văn” mà ta thấy đầy dẫy hiện nay.
Quan điểm lấy thầy làm trung tâm (giáo dục Tây phương thì ngược lại, lấy học trò làm tâm điểm) đã biến thầy thành mô mẫu tuyệt đối cao nhất mà người học trò không được phép và cũng chẳng có cơ may vượt thầy, không những trong học thuật mà vì còn là đạo đức làm người, nào “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, rồi “một ngày làm thầy, làm cha một đời”, rồi học theo lối học gạo, học để ra làm quan: “Học nhi ưu tắc sĩ”
Về chính trị, Nho gia chủ trương “trung quân” nên tạo ra những trung thần, nho thần (Nho Tàu và Nho Đại Việt) dốc sức bỏ mạng một vì tận trung với vua đến mức “ngu trung” bất chấp những ông vua bạo quyền bạo chúa cho đến những ông vua ăn hại, bù nhìn. Thay vì tận trung vì quốc thái dân an, giang san nhất thống thì họ lại nối giáo cho những tên đồ tể, khiến chính sự suy đồi, đất nước hưng vong, dân chúng lầm than. Nhà Mạc giết vua đoạt ngôi, sau khi mất nước lại dấy binh làm loạn, vẫn được nhiều người tôn phò làm vương để tái lập vương triều ở Cao Bằng. Nguyễn Kim lập Lê Duy Ninh, một gã lang thang vô học bất tài vô tướng, làm vua Lê Trang Tông để tái lập nhà Lê, chỉ vì y là con cháu nhà Lê. Trịnh Tùng và con cháu giết hại các vua Lê, nhưng không chính thức cướp ngôi, không phải vì sợ cái uy tín đã tiêu mòn của các vua Lê, mà vì tư tưởng trung quân sâu nặng trong xã hội Đàng Ngoài, đến mức duy cảm, phi lý trí. Nguyễn Gia Long thống nhất đất nước, chấm dứt chiến tranh, nhiều người vẫn nhân danh khôi phục nhà Lê để khởi binh chống lại, gây loạn lạc kéo dài trên đất Bắc.
Tệ hại hơn, những tên ngu trung hay lợi dụng chữ trung còn vô sỉ, không có lòng tự tôn dân tộc, cam tâm làm tay sai, nối giáo cho giặc để vinh thân phì gia. Lê Chiêu Thống “cõng rắn cắn gà nhà,” đích thị là kẻ “rước voi về giày mã tổ,” vẫn được các cựu thần, hoàng tộc tôn phò. Bởi vì thần chú sống còn của thần và dân nhà nho là: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”. Bởi Vua là cha của mọi cha (Phụ phụ), hơn nữa là bậc thiên tử nên có quyền tuyệt đối trên tất cả. Nên mọi giáo điều của Nho gia đều chỉ áp dụng từ Vua trở xuống, ngoại trừ Vua. Điều mà ta thấyđặc trưng nổi bật nhất trong xã hội Cộng sản, bởi trong chế độ độc tài toàn trị thì không thể có thượng tôn pháp luật, bởi luật chỉ áp dụng cho thứ dân, thảo dân, còn Đảng thì ngồi xổm trên pháp luật. Đấy cũng chính là lý do mà Nho giáo là mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa Cộng sản bén rễ và sinh sôi và là nguyên do cho cộng sản tồn tại lâu dài như hiện nay. Tóm lại, về chính trị Nho giáo đã chủ trương vâng phục tối mặt, vô điều kiện, đó là đạo trung quân của Nho gia.
Sự bất bình quyền Nam – Nữ đẩy tới mức tột đỉnh trong xã hội thể hiện qua nguyên tắc: “Nam tôn nữ ti,” theo nghĩa Nam thống soái triệt để mọi phương diện từ trong gia đình ra tới ngoài xã hội cho tới quốc gia. Bất bình quyền có thể nói là đạt tới đỉnh điểm, đến nỗi chà đạp thân phận người phụ nữ xuống đất đen. “Đạo” mà Nho giáo dành cho người phụ nữ là đạo tam tòng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. “Đức” mà Nho giáo dạy cho phụ nữ là tứ đức: “Công, dung, ngôn, hạnh”. Tất cả là để bóc lột người nữ, áp đặt cho nữ giới, đồng thời gia tăng sự độc quyền độc đoán và gia trưởng cho người nam. Đã thế, nền giáo dục và khoa cử theo Nho giáo cũng chỉ dành cho nam giới; gần 100% phụ nữ Việt Nam bị gạt ra ngoài, chỉ được thụ hưởng giáo dục gia đình, giáo dục dân gian, rất hiếm người được học chữ, học hỏi kiến thức qua Nho giáo. Vì vậy mà trong suốt thời trung đại, toàn bộ việc làng, việc nước là việc của đàn ông. Việc của phụ nữ chỉ là “tề gia, nội trợ”, có thể kiêm thêm việc chạy chợ, chạy đồng, đầu tắt mặt tối, nhưng không vì thế mà địa vị trong gia đình, xã hội của họ được nâng lên.
Ý thức hệ Nho giáo đã bóp méo nhãn quan người Việt đối với văn hóa Trung Hoa, văn hóa các tộc người lân cận. Đối với văn hóa Trung Hoa, nhà nho Việt Nam thường có cái nhìn tự ti, vong bản. Đối với các nền văn hóa bản địa, họ có cái nhìn trịch thượng, tự tôn. Tuy một bộ phận nhà nho cũng có ý thức về cội nguồn dân tộc, ý thức về cái riêng của văn hóa dân tộc, nhưng do ảnh hưởng của Nho giáo, trong một bộ phận nhà nho đã hình thành ý thức đồng nhất cội nguồn dân tộc Việt với cội nguồn dân tộc Hán, đồng nhất văn hóa Việt đã trải qua “giáo hóa” với văn hóa Hán. Đối với họ, “văn hiến” đồng nghĩa với văn hóa Trung Hoa. Do quan điểm sai lệch đó, họ đã cải biên thần thoại và truyền thuyết về cội nguồn tộc Việt theo hướng gắn nó với cội nguồn Hán tộc (truyền thuyết về họ Hồng Bàng). Họ xem tiếng Việt, chữ Nôm, văn Nôm là “nôm na mách qué” để thượng tôn chữ Hán và tất cả những gì được chuyển tải qua chữ Hán (hầu hết các triều vua, trừ nhà Hồ và nhà Tây Sơn). Họ khinh miệt và chủ trương xóa bỏ những phong tục tập quán bản địa để bắt chước Trung Hoa (Minh Mạng cấm phụ nữ Bắc Hà mặc váy mà phải mặc quần như người Hán). Họ xem những tộc người chưa bị Hán hóa là “man di mọi rợ,” và tiến hành “giáo hóa” mà thực tế là đồng hóa họ cho giống Hán (rõ nhất là dưới thời Minh Mạng)…
Khởi xuất từ nên văn minh nông nghiệp, con người Việt Nam được hình thành mang tính hiền hòa, lấy Nhân làm nền tảng cho tất cả mọi mối quan hệ. Khi Nho giáo du nhập vào, chúng ta đã biết đón nhận bằng cách “gạn đục, khơi trong,” và tiếp biến nó thành những tinh hoa, làm nên một xã hội có kỹ cương, trật tự. Dù đạo đức “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” tuy còn những hạn chế do những điều kiện lịch sử, hoàn cảnh, nhưng đều thể hiện tinh thần và ý chí tốt lành, thiết tha mong muốn làm cho con người tránh được và bớt đau khổ, cùng nhau sống trong “bốn biển đều là anh em.” Khuyến khích nhau về đạo đức và sự nghiệp, răn bảo nhau khi có lỗi lầm, cứu giúp nhau trong hoạn nạn, chăm sóc nâng đỡ nhau khi đau ốm. Giáo dục con người rèn luyện chí khí gang thép, khí tiết thanh cao, không tham giàu sang, không ngại nghèo khổ, sẵn sàng xả thân vì đạo lý. Rèn luyện con người có lòng yêu nước nồng nàn, nghĩa đồng bào sâu rộng và tình thần đại đoàn kết dân tộc.
Ngày nay, giữa lòng xã hội văn minh, khoa học lý trí tuyệt đỉnh, giữa lòng một đất nước mấy trăm năm, chất Nho giáo độc tôn, độc đoán vẫn tiềm tàng trong vô thức, nhiều người đã đánh mất đi nền tảng là lòng Nhân. Muốn có một xã hội phát triển và tương quan gắn bó, cùng mục đích tạo nên hạnh phúc, không gì khác hơn phải do chính con người tạo dựng hạnh phúc cho con người; nơi tạo ra con người, gần gũi nhất chính là gia đình. Một gia đình tối ngày lục đục, phận ai người đấy lo, mục đích chỉ là để kiếm tiền chạy theo những đòi hòi vật chất, con cái thì thờ ơ trong việc dạy dỗ, hỏi chúng sẽ trở thành người như thế nào? Trong một xã hội mà nhiều người chạy theo chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa cá nhân, coi lợi ích của cá nhân trên lợi ích tập thể, tìm đủ mọi cách để mưu ích lợi cho bản thân và cho người thân của mình, thì lòng nhân nghĩa còn chổ đâu để triển nở?
Qua một vài điểm nhìn lại phía trên, ước mong tình yêu luôn được gieo khắp nơi trên mảnh đất Việt thân thương và trên khắp toàn thế giới, để chúng ta có thể thốt lên được ý nghĩa của cuộc sống như nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Có gì trên đời đẹp hơn thế
Người với người sống để yêu nhau.”