So sánh đại diện và ủy quyền và quy định về đại diện theo ủy quyền

Bài viết dưới đây của chúng tôi sẽ trả lời câu hỏi khách hàng: “Thưa luật sư, tôi muốn hỏi vấn đề về: Đại diện và ủy quyền có những điểm gì khác nhau và giống nhau ? Rất mong nhận được tư vấn từ luật sau. Tôi xin chân thành cảm ơn!”

Khách hàng: Thưa luật sư, tôi muốn hỏi vấn đề về: Đại diện và ủy quyền có những điểm gì khác nhau và giống nhau? Rất mong nhận được tư vấn từ luật sau.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

 

Câu trả lời được biên tập từ chuyên mục Tư vấn pháp luật dân sự của công ty Luật Minh Khuê.

So sánh đại diện và ủy quyền ?

Luật sư tư vấn trực tiếp về pháp luật dân sựgọi: 1900.6162

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

Cơ sở pháp luật được sự dụng bài viết: 

Bộ luật dân sự 2015

 

1. Khái niệm đại diện 

Trong giao lưu dân sự, các chủ thể có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhưng trong những trường hợp nhất định cố thể thông qua hành vi của người khác là người đại diện theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền của mình. Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS): Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân ( người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

=> Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.

Đại diện là một quan hệ pháp luật. Chủ thể của quan hệ đại diện bao gồm người đại diện và người được đại diện.

Ngưòi đại diện là người nhân danh người được đại diện xẩc lập quan hệ với người thứ ba, vì lợi ích của người được đại diện. Người được đại diện là người tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện. Người được đại diện có thể là cá nhân không cố năng lực hành vi, chưa đủ năng lục hành vi nên theo quy định của pháp luật, phải cố người đại diện trong quan hệ pháp luật. Cá nhân cố đầy đủ năng lực hành vi cổ thể uỷ quyền cho người khác là đai diên theo uỷ quyền của mình.

Các chủ thể khác của quan hộ dân sự là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác đều hoạt động thông qua hành vi của những người nhất định có thẩm quyền đại diện cho chủ thể đó.

Quan hệ đại diện có thể được xác định theo quy định cùa pháp luật, có thể được xác định theo ý chí của các chù thé tham gia, thể hiện bằng một giấy uỷ quyền hoăc một hợp đồng uỷ quyền. Trong phạm vi thẩm quyền đại diện, người đại diện xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, dem lại quyền và nghĩa vụ cho người được đại diện.

 

2. Khái niệm ủy quyền 

Theo quy định tại khoản 1 Điều 138 thì “ủy quyền” phải là việc chính chủ thể có quyền tự mình trao quyền cho chủ thể khác (đủ năng lực thực hiện) để thay mình tham gia vào các giao dịch dân sự.

Tại Bộ luật Dân sự 2015 quy định về chủ thể dân sự của quan hệ đại diện theo ủy quyền là cá nhân và pháp nhân. Cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Pháp nhân thì phải có tư cách pháp nhân trong quá trình tham gia quan hệ ủy quyền. Những chủ thể khác như tổ chức không phải là pháp nhân thì phải lựa chọn ra một cá nhân có đủ thẩm quyền để đại diện tổ chức đó tham gia vào quan hệ đại diện theo ủy quyền.

Như vậy thì đại diện theo ủy quyền tức là việc một cá nhân, pháp nhân (bên đại diện) nhân danh và vì lợi ích của một cá nhân, pháp nhân khác (bên được đại diện) tiến hành xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự thông qua việc được bên được đại diện “trao quyền” hợp pháp.

=> Ủy quyền thực chất là một hình thức đại diện được pháp luật dân sự quy định bên cạnh hình thức đại diện theo pháp luật. Điều đó có nghĩa rằng đại diện thì bao hàm cả vấn đề ủy quyền. Như vậy, ở đây không thể xác định điểm giống và khác nhau giữa hai vấn đề này. Có thể so sánh về đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền ở những mục sau:

 

3. Điểm giống nhau

Điểm giống nhau giữa hai hình thức đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền đó là việc cả hai hình này thực chất đều là trường hợp bên đại diện/ủy quyền thực hiện các công việc cụ thể nhân danh và vì lợi ích của người ích của người được đại diện/ủy quyền trong một phạm vi nhất định, người đại diện/ủy quyền được pháp luật công nhận khi thực hiện các công việc liên quan đến nghĩa vụ, lợi ích của người được đại diện/ủy quyền

 

4. Điểm khác nhau

Đại diện theo pháp luật

Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Việc đại diện theo ủy quyền là cơ sở xác lập hợp đồng ủy quyền giữa người được ủy quyền và người ủy quyền ( hợp đồng ủy quyền là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền, còn bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định -Điều 581 Bộ luật dân sự).

Người đại diện theo pháp luật bao gồm:

1/ Cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

2/ Người giám hộ đối với người được giám hộ;

3/ Người được Toà án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;

4/ Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

5/ Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình;

6/ Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác;

7/ Những người khác theo quy định của pháp luật.

Đại diện theo uỷ quyền 

Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người đại diện và người được đại diện. Hình thức uỷ quyền do các bên thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản.

Người đại diện theo uỷ quyền 

Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo uỷ quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.

(Điều 141, 142, 143 Bộ Luật Dân sự) 

Về hình thức của ủy quyền, theo khoản 2, Điều 142 của  Bộ Luật Dân sự thì  Hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản”. Như vậy, theo quy định của Bộ Luật Dân sự thì có thể có nhiều hình thức ủy quyền khác nhau. Chính vì vậy, trong đời sống thường ngày, ngoài việc ủy quyền bằng văn bản, nhiều quan hệ ủy quyền được xác lập chỉ bằng lời nói hoặc những hành vi cụ thể. Khi việc ủy quyền được lập thành văn bản thì cũng có nhiều hình thức văn bản khác nhau (hợp đồng ủy quyền, Giấy ủy quyền, Biên bản ủy quyền…).

Thứ nhất: Giấy ủy quyền là một văn bản pháp lý trong đó ghi nhận việc người ủy quyền chỉ định người được ủy quyền đại diện mình thực hiện một hoặc nhiều công việc trong phạm vi quy định tại giấy ủy quyền. Giấy ủy quyền được coi là một hình thức ủy quyền theo Bộ Luật Dân sự Việt Nam, mà tùy theo hoàn cảnh, có thể là bắt buộc phải có để người được ủy quyền có đủ thẩm quyền đại diện cho người ủy quyền. Đa số các trường hợp được ủy quyền bằng giấy ủy quyền đều đòi hỏi phải được công chứng, chứng thực hoặc có con dấu của pháp nhân (nếu là ủy quyền giữa các cá nhân trong pháp nhân).

Người được ủy quyền chỉ được thực hiện các công việc và hưởng các quyền trong phạm vi quy định của giấy ủy quyền. Trong trường hợp người được ủy quyền có hành vi vượt quá phạm vi đó thì phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với phần vượt quá. Trong trường hợp đó là giao dịch dân sự thì đây còn là căn cứ để tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của Bộ Luật Dân sự Việt Nam.

Ngược lại, người ủy quyền có thể thừa nhận hành vi vượt quá phạm vi ủy quyền của người được ủy quyền sau khi hành vi đó đã xảy ra. Trong trường hợp này, hành vi đó được coi là phù hợp với phạm vi ủy quyền mà không cần sửa đổi bổ sung giấy ủy quyền, tuy nhiên, nó sẽ không còn được coi là căn cứ tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và người ủy quyền phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với hành vi mà mình đã thừa nhận đó

Thứ hai: Điều 581 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: Hợp đồng ủy quyền là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, còn bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.

Hợp đồng ủy quyền đòi hỏi phải có sự tham gia ký kết của cả bên ủy quyền và bên nhận ủy quyền; đối với Giấy ủy quyền thì không cần sự tham gia của bên nhận ủy quyền (ủy quyền đơn phương). Việc lập giấy ủy quyền không đòi hỏi bên nhận ủy quyền phải đồng ý và không có giá trị bắt buộc bên nhận ủy quyền phải thực hiện các công việc ghi trong giấy.

Do vậy, nếu sau khi Giấy ủy quyền được lập mà bên nhận ủy quyền không thực hiện công việc theo cam kết thì bên ủy quyền cũng không có quyền yêu cầu bên nhận ủy quyền phải thực hiện, kể cả việc bồi thường thiệt hại, nếu có.

 

5. Quy định về đại diện theo ủy quyền

Điều 138 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đại diện theo ủy quyền như sau:

– Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền để cho một cá nhân, pháp nhận khác đại diện thay mặt mình tiến hành xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự nhất định.

– Các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân cử ra một cá nhân, pháp nhân khác để đại diện cho mình tham gia vào việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của mình. Việc cử đại diện theo ủy quyền phải được tất cả thành viên thỏa thuận thống nhất.

– Trừ các trường hợp luật việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự do người từ đủ 18 tuổi trở lên thì người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng có thể là đại diện theo ủy quyền để tham gia xác lập và thực hiện giao dịch dân sự.

Quy định về đại diện theo ủy quyền của Bộ luật Dân sự 2015 có những điểm tiêu biểu sau đây:

– Thứ nhất, so với quy định tại Bộ luật cũ thì quy định về chủ thể của đại diện theo ủy quyền được trình bày theo hình thức liệt kê, nêu rõ bao gồm cá nhân và pháp nhân nên cụ thể và dễ hiểu hơn.

– Thứ hai, đối với chủ thể của quan hệ đại diện theo ủy quyền là pháp nhân thì phải có tư cách pháp nhân. Những chủ thể khác là tổ chức mà không có tư cách pháp nhân như hộ gia đình, hợp tác xã,…. thì không phải chủ thể của quan hệ này. Muốn tham gia vào quan hệ này thì những tổ chức không có tư cách pháp nhân phải thỏa thuận thống nhất với nhau chỉ định một cá nhân hoặc cử pháp nhân khác thay mình tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự.

Chính ra, có thể nói đây cũng là đang thực hiện một giao dịch – đại diện theo ủy quyền khi mà tất cả chủ thể trong tổ chức không có tư cách pháp nhân cử một chủ thể có đủ thẩm quyền thay mặt mình để tiến hành xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung của tổ chức không có tư cách pháp nhân đó.

Chủ thể được tổ chức không có tư cách cá nhân cử ra là cá nhân, pháp nhân bất kì, không nhất thiết là chủ hộ hay tổ trưởng để làm đại diện ủy quyền cho mình. Đây là quy định rất mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự trước thì đại diện của tổ hợp tác là tổ trưởng tổ hợp tác, đại diện cho hộ gia đình là chủ hộ gia đình và đây là đại diện theo pháp luật.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật dân sự miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.                                  

Bộ phận Luật sư Tư vấn pháp luật dân sự.

Xổ số miền Bắc