Sự tích Mẫu Thoải 4 lần hiển linh phù vua cứu nước – Oản Cô Tâm

Mẫu Thoải thuộc một trong ba vị thánh Mẫu quyền phép tối cao trong Tam Tòa Thánh Mẫu. Mẫu Thoải linh thiêng phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, mưa gió thuận hòa, vạn vật tốt tươi. 

Xem thêm sự tích, đền thờ và văn khấn 2 vị Thánh Mẫu trong Tam Tòa Thánh Mẫu:

Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên – Liễu Hạnh Công Chúa

Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn – La Bình Công Chúa

Mẫu Thoải là ai?

Mẫu Thoải là vị thánh mẫu chịu trách nhiệm quản lý vùng sông nước. Chữ “thoải” là đọc chệch từ chữ “thủy” có nghĩa là nước. Mẫu còn có nhiều danh hiệu khác như Mẫu Đệ Tam Thủy Cung, Xích Lân Công Chúa, Động Đình Công Chúa Ngọc Hồ Thần Nữ, Thủy Tiên Công Chúa, Thủy Cung Thánh Mẫu. 

Trong số những Thủy Phúc Thần trong tín ngưỡng người Việt thì Mẫu Thoải là vị Thần quan trọng nhất. Theo tư duy dân gian thì Mẫu tức là mẹ, là người khởi nguyên sáng tạo ra vạn vật thế gian. Theo đó, Mẫu Thoải là người khởi nguyên sáng tạo ra mọi miền sông nước như biển, hồ, ao, đầm, … Mẫu Thoải hội tụ, hồi quang và tỏa chiếu sức mạnh của mọi Thủy Thần, là người có thế lực và quyền năng điều hòa gió, mưa, nguồn nước. 

Mẫu là con gái út của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Sự tích Mẫu Thoải được ghi rõ trong bản văn mẫu. Ngoài ra còn có tác phẩm “Liễu Nghị truyền thư” (Truyện Liễu Nghị).

mẫu thoảimẫu thoải

Sự tích mẫu Đệ Tam Thoải Phủ

Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ có rất nhiều sự tích khác nhau không thống nhất.

Phổ biến nhất là sự tích dựa trên tài liệu là bản văn Mẫu Thoải và “Liễu Nghị Thư truyền thư”. Sự tích mẫu Đệ Tam Thoải Phủ như sau. Tương truyền, mẫu vốn là con gái út của Vua Cha Bát Hải Động Đình, sống dưới thời vua Hùng Vương. Đến khi lớn lên, tiên chúa được Vua Cha gả cho Kinh Xuyên – thần ốc trên núi. Vợ chồng sống hòa thuận đầm ấm cho đến khi Kinh Xuyên lấy tiểu thiếp là Thảo Mai. Khi Kinh Xuyên đi vắng, tiên chúa ngồi khâu áo rồi bị kim đâm vô ngón tay đã lấy mảnh vải trắng thấm máu rồi bỏ vào thùng rác nhưng bị Thảo Mai giấu đi. Kinh Xuyên trở về Thảo Mai gáo gở vu oan cho Tiên Chúa là cắt máu thề nguyền tư thông cùng kẻ khác. Kính Xuyên không luận trước sau mà đem đầy Tiên Chúa vào chốn rừng sâu mặc cho thú dữ ăn thịt. Khi ở trong rừng, lúc thì chúa hiện thành long xà, lúc chúa hiện thành mỹ nhân trút âu sầu với cỏ cây hoa lá. Lòng từ bi của tiên chúa khiến cho mọi loài thú đều yêu mến và nghe lời. Cũng hay cho con tạo xoay vần mà Tiên Chúa đã gặp được Liễu Nghị đang trên đường đi lai kinh ứng thi đi ngang qua. Tiên chúa đã viết thư và gửi Liễu Nghị cùng một chiếc kim thoa nhờ chàng gửi tới thủy cung. Liễu Nghị nghe theo mà tới Bể Đông. Chàng dùng kim thoa gõ vào cây ngô đồng như lời tiên chúa dặn thì y như rằng làn nước rẽ làm đôi đón chàng tới thủy cung. Ở đây chàng đã tâu trình bức thư được tiên chúa gửi nhờ tới Vua Cha. Đọc xong, Vua Cha Thoải Quốc nổi giận sai Trưởng Tử Xích Long Hầu đi đón tiên chúa hồi cung và lập tức trừng trị Kính Xuyên và Thảo Mai. Đồng thời gắn kết mối nhân duyên của tiên chúa với Liễu Nghị. Trong bản văn của Mẫu Đệ Tam chép:

“Thỉnh mời Đệ Tam Thánh Tiên

Xích Lân Long Nữ ngự miền Thoải Cung

Kính Xuyên sớm kết loan phòng

Thảo Mai tiểu thiếp ra lòng gieo oan

Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian

Vàng mười nỡ để lầm than sao đành

Lòng trời thương kẻ ngay lành

Xui quan Liễu Nghị nho sinh tìm vào…”

Dựa trên tích này cùng với lòng tín ngưỡng trong nhân dân với Thủy tổ thì Mẫu Đệ Tam được huyền hóa, tái hiện trong các triều đình phong kiến như bà Nguyễn Thị Châu (Châu Nương) ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh thời Lê – Nguyễn với tôn xưng mẫu Hàn Sơn. Tuy nhiên, dù được huyền hóa nhiều nhưng tích chung vẫn lấy theo “Liễu Nghị thư”.

Một vài sự tích Mẫu Thoải được lưu truyền khác lại cho rằng Mẫu là con gái của Động Đình Quân và là mẹ của Lạc Long Quân.

Xem thêm: Tổng hợp ngày lễ các vị Thánh trong Tứ Phủ trong năm – Sự tích, đền thờ và văn khấn

Ở vùng Nghệ An, nhân dân tương truyền rằng lúc mới mở nước, Kinh Dương Vương đi xem cảnh núi sông, tìm nơi đất lành để xây dựng kinh đô. Khi về tới phương nam, đến vùng Ngàn Hống, thấy cảnh núi non hùng vĩ, 99 ngọn cao vút trấn trên tiên Hội, có thế rồng vây hổ chầu, Dương Vương lấy làm vừa ý bèn sai đắp thành dưới núi, xây dựng lâu đài thành lũy,… Công việc tạm xong, vương lại cưỡi truyền trở ra phương bắc tiếp tục cuộc tuần du. Thuyền của vua theo dòng Thanh Long (tên cũ của Sông Lam) đến gần cửa Hội, bỗng thấy người con gái mặt Hoa da phấn, tóc đen mườn mượt, má đỏ hây hây từ dưới nước nổi lên. Sau khi tự xưng là Thần Long, người con gái ấy trở thành vợ của An Dương Vương và là mẹ của Lạc Long Quân – vị vua Hùng Vương thứ nhất.

Xem thêm: Hệ thống Tứ Phủ gồm những ai – những thông tin con nhang đệ tử nên biết

Ki Hồng Bàng thị trong phần Ngoại ký của Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Kinh Dương Vương trị vì phương Nam, gọi tên là nước Xích Quỷ, Vua lấy con gái của Động Đình Quân tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân.” Hay trong Lĩnh Nam chích quái cũng kể thêm: “Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy con gái của hồ Động Đình là Long Vương, sinh ra Sùng Lãm, hiệu là Lạc Long Quân.” Hay Phan Huy Chú viết Lịch triều hiến chương loại chí – quyển VI phần nhân vật chí coi Kinh Dương Vương là dòng dõi thần Nông, vua khởi đầu nước Việt ta. Khi trước cháu ba đời Thần Nông là Đế Minh, đi tuần thú ở biển Nam, gặp nàng Vụ Tiên rồi lấy làm vợ, đẻ con là Lộc Tục. Lộc Tục có Thánh Đức, Đế Minh yêu lắm, muốn lập là con nối, nhưng Lộc Tục cố nhường cho anh là Nghi; Đế Minh liền phong cho Lộc Tục ở đất Việt (miền nam), tức Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân, đẻ ra Lạc Long Quân.

Như vậy, 3 bộ sử giá trị nhất của Việt Nam thời xưa đã ghi nhận vợ của Kinh Dương Vương tức Mẫu Thoải chính là mẹ của Vua Hùng Vương Thứ nhất. 

Mẫu Thoải 4 lần hiển linh giúp Vua cứu nước

Mẫu hiển linh giúp vua Lý Thái Tổ

Tương truyền vùng Đồng Bằng Bắc Bộ thường xuyên có lũ lụt. Khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, ông bắt đầu công việc trị thủy. Công việc kéo dài đến tận thời vua Lý Thái Tông mới căn bản xong. Các đoạn đê được nối liền vào với nhau và có quy mô rộng lớn như ngày nay. Trong suốt quá trình xây dựng hệ thống đê, lũ lụt vẫn thường xuyên xảy ra gây khó khăn cho nhân dân. Mẫu Thoải đã phái các thủy thần, tướng lĩnh của mình đến các làng ven Thăng Long để âm phù giúp dân đắp đê chống lụt. Thần tích này còn được ghi tại các làng Nhật Chiêu, Quảng Bá, Tây Hồ, Yên Phụ,…

Mẫu hiển linh giúp Trần Hưng Đạo

Quân Nguyên xâm lăng đất nước, vua Trần Nhân Tông khi ấy triệu Hưng Đạo Vương phong làm Đại Nguyên Soái cất quân đi dẹp giặc. Lúc ấy khi đi ngang qua sông Xâm Miện (khu đền Dầm) thì mặt trời vừa lặn. Ông cho quân lính cắm trại dừng chân bên bãi sông còn mình thì ở lại trên thuyền.

Đêm đến, trong cơn mơ, ông thấy một người con gái áo trắng, mang đai ngọc lưu ly cưỡi rồng vàng đến trước mặt ông và nói rằng: “Thiếp là con gái Long Vương là Thủy Tinh Ngọc Dung công chúa, được lệnh đến giúp ngài diệt giặc. Ngài hãy đem quân đuổi giặc, thiếp nguyện âm phù trợ giúp.” Tỉnh dậy ông biết là mộng báo có người phù trợ bèn xua quân đại chiến với giặc. Hai bên giao tranh ác liệt thì gió bấc thổi lên, nước sông cuồn cuộn, sóng nổi ngập trời làm cho chiến thuyền của giặc bị nhấn chìm tả tơi.

Thắng trận trở về, ông tâu vua báo công và nêu rõ việc Ngọc Dung báo mộng. Vua sai sứ giải về Xâm Miện vào miếu (nay là đền Dầm) bái tạ và ban sắc phong:

“Hoàng Long tĩnh mạch, đoan trang

Anh linh Thục Diệu phu nhân Trung Đẳng Thần.”

Mẫu hiển linh giúp vua Lê Thánh Tông

Tích này liên quan đến ngôi đền Hàn Sơn nổi tiếng tại Thanh Hóa. Tích xảy ra trong quá trình vua Lê đem quân đi đánh Chiêm Thành. Khi thuyền đi qua sông Lèn thì gặp một trận cuồng phong. Vua bèn lập đàn tràng để xin các vị thần phù trợ. Mẫu Thoải hay tin đã phái một nữ tướng đến trị. Ngay lập tức sông yên, gió lặng. 

Sau khi thắng trận trở về, nhà vua nhớ công ơn, phong tặng cho Mẫu làm Thủy Phủ Thần Nữ tại đền Hàn Sơn. Từ đó, ngôi đền trở thành một trong những đền thờ Mẫu Thoải nổi tiếng nhất vùng.

Mẫu hiển linh giúp vua Lê Thần Tông

Đời vua Lê Thần Tông, mẫu Thoải hiển linh phù âm giúp dân chống lụt xua đuổi thủy quái khi nhân dân gặp nạn nước sông Hồng dâng cao bất thường tràn vào cả Yên Phụ. Nhà vua phải đích thân hành lễ Nam Giao (Lễ tế cáo trời đất) để cầu các vị thần linh phù trợ.

Chú ý khi sắm lễ Mẫu Thoải

Mẫu Thoải chứng tòa Thánh Mẫu màu trắng nên cần chú ý khi sắm lễ dâng mẫu phải sắm các lễ vật có màu trắng làm chủ đạo. Tại hầu hết các đền thờ mẫu Thoải, các lễ vật cơ bản phải sắm gồm một đĩa hoa, đĩa quả với nhiều loại quả khác nhau, cơi trầu, thẻ hương, giấy tiền, cút rượu, xôi thịt và một cánh sớ.

Thông thường sau khi dâng tiến những lễ vật này, đợi hết một tuần hương, bạn sẽ phải hạ toàn bộ những lễ vật này xuống, riêng cánh sớ và giấy tiền phải đem đi hóa. Nếu bạn muốn có một lễ vật có thể dâng cúng lâu dài trên ban thờ thánh thì có thể tham khảo Oản Tài Lộc. Oản Tài Lộc có thể được lâu với thời gian khoảng 6 tháng được trang trí tỉ mỉ, trang trọng rất thích hợp đặt trong không gian cúng lễ.

Xem thêm: Hướng dẫn cách dâng Oản Tài Lộc chuẩn nhất không phải ai cũng biết trên mâm lễ Tứ Phủ, Phật, Gia Tiên và Thần Tài.

Oản dâng Mẫu Thoải thường là oản có màu trắng. Để thêm phần thành tâm, thành kính, con hương thường sắm những quanh oản được đầu tư, trang trí tỉ mỉ, tạo hình cách điệu hoa văn cho thêm phần đặc sắc, lộng lẫy, mang nhiều ý nghĩa tốt lành. Với kiểu oản lễ đặc biệt như vậy, bạn khó có thể tìm kiếm được ở những đơn vị bán oản thông thường mà phải tim đến Oản Cô Tâm.

 

 

Oản Cô Tâm là đơn vị chuyên làm oản nghệ thuật với nhiều màu sắc và họa tiết trang trí mang ý nghĩa tâm linh phục vụ cho nhu cầu cúng bái, lễ lạy của khách hành hương. Với quanh oản vàng lễ Mẫu Thoải, khách hàng hoàn toàn an tâm khi mua hàng tại Oản Cô Tâm bởi quanh oản vàng sẽ được chúng tôi trang trí cách điệu với hoa lụa trang nhã cùng cành vàng lá ngọc, tạo nên quanh oản vừa đẹp, vừa kiêu sa lại hoàn toàn phù hợp với văn hóa tín ngưỡng tâm linh thờ cúng của người Việt, cực kỳ thích hợp để dâng lên cửa thánh mẫu cầu tốt lành đầu năm cho gia đình.

Văn khấn Mẫu Thoải

Nam mô a di đà phật! (3 lần)

Hương tử chúng con thành tâm kính lạy đức Hiệu Thiên Chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền cung cao Thượng đế

Kính lạy

Đức Cửu Trùng Thánh Vân lục cung công chúa

Đức Thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh Mã Hoàng công chúa, sắc phong Chế Thắng Hỏa Diệu Đại Vương, gia phong Tiên Hương Thánh mẫu

Đức đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều Mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương

Đức đệ tam Thủy phủ, Lân nữ Công Chúa 

Đức đệ tứ khâm sai Thánh Mẫu, tứ vị chầu bà, năm tòa quan lớn Mười dinh các quan, mười hai Tiên Cô, mười hai thánh cậu, Ngũ hổ Đại tướng, Thanh Hoàng Bạch Xà Đại tướng.

Hôm nay là …

Tín chủ con là ………..

Ngụ tại:……………………………

Cùng toàn thể gia đình đến điện (phủ, đền) chấp tay kính lễ khấu đầu vọng bái.

Lòng con thành khẩn, dạ con thiết tha kính dâng lễ vật con cúi xin các ngài xét thương cứu độ cho gia đình con tiêu trừ tai nạn điều lành thường tới, cầu tài được tài, cầu lộc được lộc, cầu bình an được bình an. 

Nam mô a di đà phật! (3 lần)

Đền thờ Mẫu Thoải 

Mẫu Thoải được phối thờ tại hầu hết các ngôi đền thuộc Tứ Phủ cùng Tam Tòa Thánh Mẫu. Tuy nhiên, những ngôi đền thờ chính của mẫu cũng rất nhiều, chủ yếu nằm gần khu vực các con sông lớn. Những ngôi đền nổi tiếng thờ Mẫu Thoải gồm đền Hàn Sơn, đền Dầm, đền Mẫu Thoải Long Biên Hà Nội, đền thờ Bà Áo Trắng, đền Mẫu Thoải Lạng Sơn, đền Cái Lân Hạ Long.

Đền Hàn Sơn (Thanh Hóa)

Địa chỉ: xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa

Đền Hàn Sơn là ngôi đền thờ Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ nổi tiếng bậc nhất. Năm 1992, đền đã được Nhà Nước công nhận và xếp hạng.

Đền Hàn Sơn nằm ngay cạnh con sông Lèn, một nhánh của sông Mã, nước chảy cuồn cuộn quanh năm. Hàng năm, đền đón hàng ngàn du khách về tham quan và cúng lễ bái thánh vô cùng tấp nập. Một phần vì danh tiếng nơi diễn ra lễ hội lớn nhất xứ Thanh. Phần khác vì sự linh thiêng, linh ứng của đền với lời khẩn cầu của con hương. 

Đền Dầm (Thường tín, Hà Nội)

Địa chỉ: thôn Xâm Dương, xã Ninh Sở, Thường Tín, Hà Nội

sự tích đền dầm

Đền Dầm là ngôi đền nổi tiếng thờ Mẫu Thoải Phủ gắn liền với tích Mẫu về báo mộng phù trợ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh thắng giặc ngoại xâm, được vua ban sắc phong tôn quý.

Ngôi đền được xây dựng lâu đời đã nhuốm màu lịch sử ngàn năm. Khuôn viên đền thoáng đãng gồm nhiều cây cổ thụ tỏa bóng mát cả sân đền tạo không khí vô cùng thoáng mát. 

Ngoài việc thờ tự Mẫu Thoải, đền Dầm còn phối thờ nhiều vị thánh khác trong đó có ngôi đền riêng thờ Hưng Đạo Vương nằm ngay trong khuôn viên đền. 

Lễ hội đền Dầm được tổ chức vào dịp tháng 2 mỗi năm. Bắt đầu từ mùng 1 và kết thúc vào ngày mùng 10. Trong suốt thời gian này, song song với việc tổ chức những nghi lễ trang nghiêm theo truyền thống thì dòng người cúng lễ cũng liên tục đổ về đền dâng hương bái thánh vô cùng tấp nập.

Xem chi tiết kiến trúc và cách dâng lễ Đền Dầm tại Hà Nội

Đền Mẫu Thoải (Long Biên)

Địa chỉ: số 21, tổ dân phố số 9, Bắc Biên, phường Ngọc Thụy, quận Long Biên, Hà Nội

đền mẫu thoải

Đền thờ Mẫu Thoải ở Hà Nội được xây dựng ở mảnh đất địa linh có thế phong thủy vô cùng đẹp. Đền nằm ngay sát vị trí sông Hồng lại có lạch nước tự nhiên rộng. Khi mùa cạn đến, lạch này tạo thành hồ lớn tách biệt với dòng sông tạo thế tụ thủy vô cùng đẹp. 

Ngoài thờ chính Mẫu Thoải, đền còn đặt ban thờ Ngọc Hoàng cùng Nam Tào, Bắc Đẩu, Ngũ Vị Tôn Ông, các Quan Hoàng, tứ vị vua bà. Ngoài ra, phía bên phải đền thờ Đức Thánh Trần, bên trái thờ Sơn Trang. 

Các lễ cúng của đền tập trung vào dịp tứ quý: ngày mùng 10 tháng giêng, tháng tư và tháng bảy, tháng chạp âm lịch với nhiều tiết lễ lớn.

Xem chi tiết đền Mẫu Thoải linh thiêng đất Hà Thành

Đền thờ Bà Áo Trắng (Yên Bái)

Địa chỉ: Thôn 3, xã Hợp Minh, thành phố Yên Bái.

đền bà áo trắng

Đền thờ Bà Áo Trắng nằm bên bờ sông Hồng nơi ngã ba hợp lưu với Ngòi Lâu, đối diện bến Âu Lâu – di tích lịch sử cấp Quốc Gia.

Ngôi đền là không gian sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh vô cùng nổi tiếng của người dân địa phương. Hàng năm cứ vào dịp lễ đền vào các ngày từ 25 đến 27 tháng 2 âm lịch hàng năm, song song với việc thực hiện các nghi lễ cúng tế truyền thống, các con hương từ khắp các tỉnh thành cũng đổ về đền dâng lễ cúng bái thánh mẫu. Cùng chấp bái, chấp niệm cầu tài lộc, bình an cho gia quyến.

Xem thông tin chí tiết về kiến trúc, cách dâng lễ tại đền Bà Áo Trắng

Đền Mẫu Thoải (Lạng Sơn)

Địa chỉ: 177, đường Hùng Vương, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn

đền mẫu thoải cửa đông

Đền Mẫu Thoải Lạng Sơn hay còn biết đến với cái tên đền cửa Đông nằm cạnh sông Kỳ Cùng trấn phía Đông thành phố Lạng Sơn. Năm 2013 đền đã được Bộ Văn Hóa Thể thao và Du Lịch công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia nhằm tôn vinh những giá trị cả về tín ngưỡng tinh thần và vật chất nơi đền thiêng xứ Lạng.

Xem chi tiết về đền thiêng xứ Lạng thờ Mẫu Thoải

Đền Cái Lân (Hạ Long)

Địa chỉ: phường Bãi Cháy, Thành Phố Hạ Long

đền cái lân

Đền Cái Lân là địa chỉ tâm linh nổi tiếng không chỉ với người Quảng Ninh mà còn với nhiều du khách thập phương. Đền Mẫu nằm trong khuôn viên Cảng Cái Lân đã giúp cho người dân địa phương yên tâm làm ăn, được mệnh danh là ngôi đền “cầu được ước thấy”.  Vì vậy, vào dịp Tết Nguyên Đán, Rằm tháng Giêng, Rằm tháng Bảy… đền Cái Lân lại thu hút đông đảo du khách đến tham quan chiêm bái tấp nập. 

Lúc này, con hương, đệ tử ai ai cũng nô nức sắm sửa đầy đủ lễ lạy thành tâm khấn vái. 

Xem chi tiết cách dâng lễ và thông tin đền Cái Lân nổi tiếng Hạ Long

Bản văn Mẫu Thoải

Thoải Tiên Thánh Mẫu văn

Mẫu Thoải Tiên Đệ Tam Thánh Mẫu Văn nói về Mẫu Đệ Tam, được dùng để hát thờ vào những dịp tiệc đản, hát văn thi hay hát hầu Mẫu đệ Tam như là văn khấn đền Cái Lân. 

Bỉ cách:

Anh linh lừng lẫy chốn giang khê

Nức tiếng con vua dưới thuỷ tề

Ngán nỗi Kính Xuyên rời chỉ thắm

May nhờ Liễu Nghị chắp dây xe

Rập rìu tin nhạn thư vừa tới

Thấm thoát xe loan phút đã về

Hiển hách xưa nay ai dễ tỏ

Có chăng gửi một bức thư đề

Miễu:

Trạnh giang biên doanh ngân lai láng

Nguyệt lầu lầu soi rạng Nam Minh

Con vua thuỷ quốc Động Đình

Có tiên thần nữ giáng sinh đền rồng

Đức gồm vẹn công dung ngôn hạnh

Nết nhu mì bẩm tính thiên nhiên

Dung nghi cốt cách thần tiên

Vàng trong nước lệ ngọc miền non côn

Hằng chầu chực kim môn ngọc điện

Duyên sắt cầm chưa định nơi nao

Chúa từ gìn giữ thanh tao

Gió đằng vương các khư tao dưới màn

Chốn thuỷ cung có nhà lệnh tộc

Vốn con dòng danh ốc Kính Xuyên

Xưa nay thế phiệt gia truyền

Thảo Mai nàng ấy tạm quyền tiểu tinh

Chí bình sinh phù đời giúp nước

Ân cửu trùng phó thác biên cương

Giá danh công chúa phi phương

May nhờ lá thắm xe duyên tơ hồng

Trên vương phụ có lòng lân mẫn

Thổng cách:

Cho hai người duyên phận sánh nhau

Chúa từ kết nghĩa trần châu

Đã đành chỉ thắm giành sâu khôn nài

Ước trăm năm duyên hài phối thất

Đạo cương thường nhiệm nhặt tóc tơ

Cùng nhau chưa mấy nắng mưa

Ngờ đâu duyên phận thiên cơ bởi trời

Trách Thảo Mai ra lòng giáo giở

Trá đồ thư làm cớ gieo oan

Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian

Nỡ đem đầy chốn lâm sơn sao đành

Đỉnh non xanh một mình vò võ

Sơm khuya cùng núi cỏ ngàn cây

Đèn trăng chiếu đá màn mây

Dưỡng thân hoa quả bạn bày trúc mai

Thường vãng lai thanh sơn tú thuỷ

Lột đại xá tựa thể ngư long

Có phen biến tướng lạ lùng

Mày ngài yểu điệu má hồng phi phương

Có phen nhớ gia hương rười rượi

Mặt rầu rầu dạ rối châu xa

Có phen tưởng khách Hằng Nga

Phú bình:

Tưởng bề phu phụ xót xa muôn phần

Có phen trách lang quân bội bạc

Cả nghe mà trách móc duyên ai

Có phen lão ủ đào phai

Phận đành chắp chi xe gai việc thường

Có phen trai dầu sương dãi nguyệt

Ba thu tròn mong quyết thu không

Có phen nhìn áng non sông

Âu sầu đến nỗi hình dung võ vàng

Tứ bề những hổ lang ác thú

Vật đều cùng mến chúa hôm mai

Đua nhau trăm giống nghìn loài

Dâng hoa cúng quả chẳng nài công phu

Trải mười thu dãi dầu sương nắng

Tin cá trầm nhạn vắng khôn hay

Chúa buồn vì nỗi riêng tây

Hay đâu con tạo vần xoay bởi trời

Trên dương thế có người nho sĩ

Phú chênh:

Văn tú tài Liễu Nghị là tên

Trẻ thơ nhờ ấm thung nguyên

Sôi kinh nấu sử hằng chuyên việc mình

Vừa gặp hội lai kinh ứng thí

Dặm đường trường Liễu Nghị trẩy ra

Vũ môn mong nhẩy đợt ba

Hiềm đâu con tạo xoay ra bởi trời

Đi tới trốn đầu nơi hiu quạnh

Bóng ác tà sương lạnh đầu hôm

Đầy ngàn hoa quả xanh um

Trước hàng liễu ủ sau chùm đào phai

Lòng quân tử đeo đai cảnh vật

Thấy chúa ngồi tư chất dung nhan

Má đào châu lệ chứa chan

Phú rầu:

Nỉ non tấm tức khóc than một mình

Chàng trông thấy tâm tình cảm kích

Chúa ngập ngừng hỏi khách rằng hay

Sơn lâm rừng vắng chốn này

Cớ sao quân tử tới đây lạc loài

Bây giờ trăng soi ác lặn

Chàng hãy còn thơ thẩn cớ sao

Thưa rằng hàn sĩ trí cao

Mười năm đèn sách công lao chuyên cần

Hội Long Vân hiềm chưa gặp gỡ

Duyên sự này cơn cớ bởi đâu

Dám xin kết nghĩa trần châu

Kẻo còn thục nữ đeo sầu dưới trăng

Chúa nghe nói rùng rằng khôn siết

Mới nhủ chàng cả quyết sao nên

Tôi nay người dưới thuỷ tiên

Nghiêm đường trước đã định duyên giai kỳ

Khăng khăng giữ đạo tuỳ sau trước

Chẳng ngờ chàng tính nước lòng mây

Bông không gắp lửa bỏ tay

Gieo oan thất tiên đem đầy mười đông

Phiền quân tử tin thông nhạn cá

Phú nói:

Duyên sự này thiếp há đơn sai

Chẳng rằng hẳn được như lời

Sá chi bể rộng sông dài quản đâu

Nhờ bóng nguyệt đêm thâu giãi tỏ

Giãi tấc lòng nhờ có cao xanh

Hàn Sơn nghe vẳng chuông kình

Kim ô bóng đã xế hình bãi dâu

Chúa hiềm nỗi bấy lâu oan ức

Phó cho chàng một bức thư phong

Thư văn:

Nữ tiên thủ bút

Bái tạ Long cung

Lạy vua cha chính ngự ngai rồng

Tường sự tích chung tình trúc chiếu

Phận con niên thiếu

Nữ tắc nữ công

Tự Kính Xuyên sớm kết chỉ hồng

Duyên cá nước sắt cầm hoà hợp

Vì nàng tiểu thiếp

Tên gọi Thảo Mai

Bỗng vì đâu đặt để nên nhời

Phút chốc khiến bắc nam đôi ngả

Hư không làm có

Gắp lửa bỏ tay

Trách chàng chẳng xét gian ngay

Nỡ bắt thiếp đem đầy viễn thú

Hôm mai vò võ

Tủi ngậm ngùi than

Tấm lòng son bối rối gan vàng

Đâu dạ sắt ngẩn ngơ mặt ngọc

Tưởng duyên tơ tóc

Tủi phận má hồng

Khi vui thời bạn trúc thông

Khi buồn lại than cùng hoa cỏ

Thiên duyên kỳ ngộ

Sẽ gặp tình quân

Gửi bức thư về mái hải tần

Trình khắp hết lưỡng ban thần tử

Nỗi niềm tâm sự

Mượn bút thay lời

Gửi chàng đi đến mai Long giai

Để thiếp được gần chầu thánh đế

Sơn minh hải thệ

Tạc dạ ghi lòng

Ví dù ai phụ nghĩa quên công

Xin xoi xét đôi vầng nhật nguyệt

Vãn cách:

Dặn chàng ra mái bể Đông

Tới đâu hễ thấy ngô đồng cây cao

Lấy kim thoa gõ vào cây ấy

Dưới thuỷ tề nghe thấy không lâu

Tuỳ cơ ứng biến nhuộn mầu

Mặc lòng nhời ngỏ , mặc dầu thơ trao

Chàng nghe nói tiêu hao sau trước

Dạ bùi ngùi chân bước đường thông

Bể đào lai láng xa trông

Nửa lo nỗi chứa nửa lòng sự duyên

Sông Ngân hán băng miền thẳng trỏ

Kiều dương:

Tới ngô đồng tay gõ vừa thôi

Tự nhiên nổi trận phong lôi

Giữa giòng bỗng thấy một đôi bạch xà

Chàng trông thấy sự đà ứng hiện

Mấy bầy nhời chúc kiến phân minh

Bạch xà thoát xuống động đình

Sai lên rẽ nước dòng xanh rước chàng

Rước chàng xuống đền vàng Thuỷ Phủ

Thấy quần thần văn vũ đôi bên

Tiêu thiều nhã nhạc dưới trên

Tả bầy ngư miếc hữu chen long xà

Kim quy sứ tâu toà ngọc bệ

Bước ra mời Liễu Nghị vào trong

Chàng quỳ dâng bức thư phong

Phụ vương trông thấy trong lòng quặn đau

Trách Kính Xuyên cơ cầu độc giữ

Mấy truyền đòi trưởng từ Xích Lân

Phán rằng em phải gian truân

Con nên rước xuống về sân chớ chầy

Nhời vương phụ phán ngay vừa kíp

Xích Lân bèn hoá phép thần thông

Bể đào lai láng mênh mông

Khắp hoà thế giới đều cùng mênh mang

Sấm chớp vang mưa tuôn bão giật

Cờn luyện:

Quỷ cùng ta thán khắp mọi nơi

Chúa tiên về tới long giai

Kính Xuyên phải tội Thảo Mai đi đày

Công cán này ai tày Liễu Nghị

Phong cho làm quốc tế thuỷ quan

Chàng từ vâng lệch thiên nhan

Duyên ưa phận đẹp chức ban trọng dùng

Mái tiên cung an bài tự trước

Kẻ phàm trần bỗng gặp sánh tiên

Chàng từ Kim cải bén duyên

Có danh trí tuệ có quyền anh linh

Dù ai phải bất bình mỏi mệt

Tấm lòng thành khấn vái lại tha

Dù ai tiến cúng nhang hoa

Tiền tài lưu loát cửa nhà bình yên

Đã nên đấng anh linh kỳ diệu

Khắp trong triều nhường vị kính ngôi

Dồn đại thạch:

Dám xin những sự đã rồi

Xin đừng nghĩ đến dông dài làm chi

Kìa Vũ thị hảo tuỳ một tiết

Chàng Trương sinh chẳng biết ngay gian

Bóng đèn nghe trẻ nói oan

Làm cho thiếu nữ hồng nhan liều mình

Đã nên đấng anh linh liệt nữ

Trách chi người vụng xử chấp nê

Bằng nay tiên chúa sinh chi

Giá đem sau trước mà suy sự lòng

Rũ sạch không những niềm tân khổ

Nương uy trời tế độ sinh linh

Đời đời nức tiếng thơm danh

Biển vàng ghi tạc sử xanh dõi truyền

Kiêm ngũ phúc dâng lên cõi thọ

Nước trị trường thánh chúa hưng long

Mẫu về chắc giáng điện trung

Khuông phù đệ tử hưng long thọ trường

Dị bản đoạn Bỉ cách:

Vầng nguyệt ai soi dưới thuỷ cung

Mặt hoa lồ lộ ngự ngai rồng

Giăng đôi tám tuổi in bóng nước

Sạch gương một vừng in lẻo lẻo trong

Trách bóng trăng loan duyên quải bạc

Lo đôi nên phượng ánh thêm hồng

Anh linh thần nữ quyền cai quản

Thuỷ quốc nhân gian một mối thông

Dị bản đoạn Thư văn:

Vậy có thư rằng:

Nữ tiên thủ bút

Bái tiến cửu trùng

Lạy vua cha cao ngự long cung

Xin chúc chiếu mở lòng nhân thứ

Kể từ ngày tái giá tòng phu

Việc tảo tần hằng dự không sai

Nhớ đến khi ngọc kính đầu mai

Nhời kinh giới dám đơn sai cùng phụ tử

Vì Thảo Mai ra lòng giáo dở

Trá đồ thư làm cớ gieo oan

Kính Xuyên chàng chẳng xét ngay gian

Đem đày chốn lâm sơn viễn thú

Đêm ngày vò võ chiếu đá màn mây

Bạn đèn giăng quạt gió làm khuây

Mượn núi cỏ ngàn cây vui thú

Nhân duyên kỳ ngộ

Gặp một chàng tuấn tú nho phong

Hội long vân ngư thủy phùng

Duyên cầm sắc bỗng động lòng quân tử

Lòng còn ngần ngại mới ngỏ lời

Bởi tại sự duyên

Vốn tôi nay người dưới thuỷ tiên

Sớm đã kết Kính Xuyên làm nghĩa cả

Không ngờ chàng lòng chim dạ cá

Nghe Thảo Mai nên đôi ngả sấm thương

Vả tôi nay như chim yến lạc đàn

Phải cung đạn đã sợ làm gỗ vậy

Vì chàng ở trước sao sau vậy

Đem chén son thề với khuôn xanh

Có thiên thanh địa bạch chứng minh

Giao loan mới cầm lành xin tái tục

Chàng Liễu Nghị tòng tâm sớ dục

Chiếc kim thoa phó trúc cùng chàng

Mảng tuyên thề mấy bức từ chương

Dâng về tới đền vàng thuỷ phủ

Kính trình vương phụ thẩm xét ngũ thầm

Nguyện cùng chàng kết nghĩa trăm năm

Cho vẹn chữ sắt cầm tảo hợp

Nỗi niềm giao ước tạc dạ ghi lòng

Dầu mà ai phụ nghĩa quên công

Soi xét có đôi vầng nhật nguyệt.

Văn Mẫu Thoải

Vầng nguyệt ai soi dưới thủy cung

Mặt hoa lồ lộ ngự ngai rồng

Giăng đôi tám tuổi lầu lầu

Sạch gương một vừng in lẻo lẻo trong

 

Trách bóng trăng loan duyên quái bạc

Lo đôi nên phượng ánh thêm hồng

Anh linh thần nữ quyền cai quản

Thủy quốc nhân gian một mối thông

 

Trịnh giang biên doành ngân lai láng

Nguyệt lầu lầu soi sáng nam minh

Con vua thủy quốc động đình

Có tiên thần nữ giáng sinh đền rồng

Đức gồm vẹn công dung ngôn hạnh

Nết nhu mì vốn tính thiên nhiên

 

Dung nghi cốt cách thần tiên

Vàng trong đáy biển ngọc miền non côn

Hằng chầu trực kim môn ngọc điện

Duyên sắt cầm chưa định nơi nao

 

Chúa từ giữ tiết thanh tao

Gió đằng vương các thư trao dưới màn

Chốn thủy quan có nhà lệnh tộc

Vốn con dòng danh ốc Kính Xuyên

 

Xưa nay thế phiệt gia truyền

Thảo Mai tiểu thiếp tạm quyền tiểu tinh

Chí bình sinh phù đời giúp nước

Ân cửu trùng phó thác biên cương

 

Mang danh tiên chúa phi phương

May nhờ lá thắm mừng duyên tơ hồng

Trên vươn phụ có lòng lân mẫn

Cho đôi người duyên phận sánh nhau

 

Kể từ kết nghĩa trần châu

Đã đàng đỉnh thắng dành sâu khôn nài

Ước trăm năm duyên hài phối thất

Đạo cương thường nhiệm nhặt tóc tơ

 

Cùng nhau chưa mấy nắng mưa

Hay đâu ra sự thiên cơ quải người

Trách Thảo Mai ra lòng giáo dở

Trá đồ thư làm cớ gieo oan

 

Kính Xuyên chẳng xét ngay gian

Phạt người nỡ để lầm than sao đành

 

Đỉnh non xanh một mình vò võ

Sớm khuya cùng núi cỏ ngàn cây

Đèn giăng quạt gió màn mây

Dưỡng thân hoa quả bạn bầy hươu nai

Thường vãng lai thanh sơn tú thủy

Lốt đại xà hình thể ngư ling

Có phen biến tướng lạ lùng

Mày ngài yểu điệu má hồng phi phương

 

Có phen nhớ gia nương rười rượi 

Mặt rầu rầu dạ tối châu sa

Có phen thấp thoáng hằng nga

Nghĩ đường phu phụ xót xa muôn phần

 

Trách lang quân sao chàng bội bạc

Cả nghe thành trách móc duyên ai

Dãi rầu liễu ủ đào phai

Phận đành chắp chỉ xe gai việc thường

 

Có phen trải dầu sương dãi nguyệt

Ba thu tròn mong quyết quy không

 

Tứ bề những hổ lang ác thú

Vật đều cùng mến chúa hôm mai

Đua nhau trăm giống nghìn loài

Dâng hoa cúng quả chẳng nài công phu

Trải mười thu giải dầu dương nắng

Tin cá trầm nhạn vắng khôn hay

Chúa hiềm vì nỗi riêng tây

Ai ngờ cơ tạo vần xoay bởi trời

 

Trên dương thế có người nho sĩ

Văn tú tài Liễu nghị là tê

Trẻ thơ nhờ ấm thung huyên

Soi kinh nấu sử hằng chuyên một mình

 

Vừa gặp thuở thần kinh hội thí

Dặm đường trường Liễu Nghị trẩy ra

Vũ môn mong nhảy đạt ba

Chỉ hiềm con tạo xuy ra quải người

 

Đi tới đó đầu nơi non quạnh

Bóng ác tà sương lạnh trời hôm

Đầy ngàn hoa quả xanh um

Trước cành liễu rủ, sau chìm đào phai

 

Lòng quân tử đeo đai cảnh vật

Nhác thấy người tư chất dung nhan

Má đào châu lệ chứa chan

Nỉ non tấm tức khóc than một mình

 

Chàng trông thấy sự tình cảm kích

Chúa ngập ngừng hỏi khách rằng nay

Non cao rừng vắng chốn này

Cớ sao quân tử đến đây lạc loài

 

Bây giờ đã trăng soi ác lặn

Sao chàng còn thơ thẩn có sao

Mười năm đèn sách công lao chuyên cần

 

Hội long vân hiềm chưa gặp gỡ

Sự duyên này cơn cớ bởi đâu

Dám xin kết nghĩa trần châu

Kẻo lòng quân tử đeo sầu dưới trăng

 

Chúa nghe nói dùng dằng khôn siết

Mới nhủ chàng cả quyết sao nên

Thiếp nay người dưới thoải tiên

Nghiêm đường trước đã định duyên giai kỳ

 

Khăng khăng giữ đạo tùy sau trước

Chẳng ngờ chàng tính nước lòng mây

Bỗng không gắp lửa bỏ tay

Giep oan thất tiết đem đầy mười đông

 

Phiền quân tử tin không vàng đá

Sự duyên sự này thiếp há đơn sai

Chàng rằng vâng được như lời

Dẫu rằng bể rộng sông dài quản đâu

 

Nhờ đèn nguyệt đêm thâu sáng tỏ

Giãi tấc lòng thề có cao xanh

Hàn sơn nghe vắng chuông kình

Kim ô bóng đã tỏ hình bãi dâu

 

Chúa hiềm nỗi nấy lâu oan ức

Phó kim thoa cùng bức thư phong

 

Có thư rằng

Nữ tiên thủ bút

Bái tiến cửu trùng

Lạy vua cha cao ngự long cung

Xin chúc chiếu mở lòng nhân thứ

 

Kể từ ngày tái giá tòng phu

Việc tảo tần hằng dự không sai

Nhớ đến khi ngọc kính đầu mai

Lời kinh giới dám sơn sai cùng phụ tử

 

Vì Thảo Mai ra lòng giáo dở

Trá đồ thư làm cớ gieo oan Kính Xuyên chàng chẳng xét ngay gian

Đem đày chốn lâm sơn viễn thú

 

Đêm ngày vò võ chiếu đá màn mây

Bạn đèn giăng quạt gió làm khuây

Mượn núi cỏ ngàn cây vui thú

 

Nhân duyên kỳ ngộ

Gặp một chàng tuấn tú nho phong

Hội long vân ngự thủy phùng

Duyên cầm sắc bỗng động lòng quân tử

 

Lòng còn ngần ngại mới ngỏ lời

Bởi tại sự duyên

Vốn tôi nay người dưới thủy tiên

Sớm đã kết Kính Xuyên làm nghĩa cả

 

Không ngờ chàng lòng chim dạ cá 

Nghe Thảo Mai nên đôi ngả sấm thương

Và tôi nay như chim yến lạc đàn

Phải cung đạn đã sợ làm gỗ vậy

Vì chàng ở trước sao sau vậy

Đem chén son thề với khuôn xanh

Có thiên thanh địa bạch chứng minh

Giao loan mới cầm lành xin tái tục

 

Chàng Liễu Nghị tòng tâm sở dục

Chiếc kim thoa phó trúc cùng chàng

Máng tuyên thề mấy bức từ chương

Dâng về tới đền vàng thủy phủ

 

Kính trình vương phụ thấm xét ngũ thầm

Nguyện cùng chàng kết nghĩa trăm năm

Cho vẹn chữ sắt cầm tảo hợp

Nỗi niềm giao ước tạc dạ ghi lòng

 

Dầu mà ai phụ nghĩa quên công

Soi xét có đôi vầng nhật nguyệt

Mặc sự trần ai hương nguyệt hạ

Tự phụ băng thán đáo hùng hà trung

 

Dặn chàng ra mãi bể đông

Tới đâu hễ thấy ngô đồng cây cao

Lấy kim thoa gõ vào cây ấy

Dưới thủy tề nghe thấy không lâu

Trong cơ ứng biến nhiệm màu

Mặc dầu lời ngỏ mặc dầu như trao

Chàng nghe nói tiêu hao sau trước

Dạ bùi ngùi chân bước đường thông

 

Bể đào lai láng xa trông

Nửa lo nỗi chúa nửa lòng sự duyên

Sông Ngân Hán băng miền thẳng trỏ

Tới ngô đồng/tay gõ vừa thôi

Tự nhiên chuyển động phong lôi

Giữa dòng trông thấy một đôi bạch xà

 

Chàng trông thấy sự đà ứng hiện

Mới bày lời chúa kiến phân minh

Bạch xà thoát xuống động đình

Sai lên rẽ nước dòng xanh rước chàng

 

Đón chàng xuống đền vàng thoải phủ

Thấy triều thần văn võ đôi bên

Tiêu nhiều nhã nhạc dưới trên

Tả bày lưu liếc hữu chen long xà

 

Kim quy xứ chầu tòa ngọc bệ

Đón ra mời Liễu Nghị vào trong

Chàng quỳ dâng bức thư phong

Phụ vương trông thấy trong lòng quặn đau

 

Trách Kính Xuyên cơ cầu độc giữ

Mới truyền đòi trưởng tử Sích Lân

Phán rằng chúa phải gian truân

Sai lên đón rước thủy quân chớ chầy

 

Lời vương phụ xuyên ngay dục kíp

Sích lân bèn hóa phép thần thông

 

Bể đào nổi trận mênh mông

Khắp loài thủy tộc đều cùng hiện ra

Sấm sét vang mưa sa chớp giật

Quỷ cùng tà tan mất nơi nơi

 

Chúa tiên về tới long giai

Kính Xuyên bắt tội Thảo Mai đem đày

Công cán này ai tầy Liễu Nghị 

Phong cho làm quốc tế Thủy Quan

 

Chàng từ vâng lệnh thiên nhan 

Duyên ưa phận đẹp, chức ban trọng dùng

Mái thiên cung an bài tự trước

Kẻ phàm trần bỗng gặp sánh tiên

 

Chàng từ kim cải bén duyên

Có dang trí tuệ có quyền anh linh

Dầu ai phải bất bình mỏi mệt

Tấm lòng thành lễ yết tạ qua

 

Dù ai tiến cúng hương hoa

Tiền tài lưu loát cửa nhà khang ninh

 

Đã nên đấng anh linh kỳ diệu

Khắp trong triều nhượng hiệu tôn ngôi

Dám xin những sự đã rồi

Xin đừng nghĩ ngợi dông dài chi đây

 

Kìa Vũ Thị thảo ngay một tiết

Chàng Trương Sinh chẳng biết ngay gian

 

Bóng đèn nghe trẻ nói oan

Làm cho thiếu nữ hồng nhan thiệt mình

Đã lên đấng anh linh liệt nữ

Trách chi người vụng xứ chấp lê

Bằng nay tiên chúa sinh chi

Dám soi gương trước mà suy sự lòng

Rũ sạch không mọi niềm tân khổ

Nương uy trời tế độ sinh linh

 

Đời đời nức tiếng thơm danh

Biển vàng ghi tạc sử xanh đòi truyền

Kiêm ngũ phúc dâng lên cõi thọ

Nước trị thường thánh chúa hưng long

Mẫu về trắc giáng điện trung

Khuông phù đệ tử hưng long thọ trường

Thủy Tinh Công Chúa Văn (thuộc tập “Văn Chầu các bà” – bản phiên nôm)

Trạnh giang bên dòng quanh lai láng

Nguyệt lầu lầu soi rạng nam minh

Vốn xưa Thoải quốc Động Đình

Có tiên lân nữ giáng sinh điện rồng

Đức phàm vẹn thong dong ngôn hạnh

Nét linh hòa vốn tính thiên nhiên

Tay bà khác giá thần tiên

Đã đành lệ thủy các miền non khôn

Hằng chầu trước thiên môn ngọc điện

Duyên sắt cầm chứa bén nơi nao

Mẫu tự hợp nghĩa Trần Châu

Gió Đằng Vương gác bóng chiều dưới mành

Chốn thủy quan có nhà lệnh tộc

Lưỡi côn bằng danh ốc Trinh Xuyên

Vốn dòng vây cá gia truyền

Thảo Mai nàng ấy tạm quyền tiểu tinh

Chí bình sinh phì nhà giúp nước

Ơn cửu trùng những thác biên cương

Bản danh tiên chúa phi phương

May nhờ lá thắm xe vương tơ hồng

Nên vương phụ có lòng lân mẫn

Cho hai người duyên phận gồm nhai

Mẫu tự hợp nghĩa Trần Châu

Đã đành lĩnh đỏ duyền sông khôn nài

Ước duyên hài trăm năm phối thất

Đạo cương thường chẳng nhặt tóc tiên

Cùng nhau chưa thấy nắng mưa

Bỗng đâu ra sự thiên cơ quải người

Trách Thảo Mai ra lòng trở giả

Đồ thư làm cứ gieo oan

Kính Xuyên chẳng xét ngay gian 

Vàng dòng nỡ để lầm than bao đành

Đài dương thế một mình vò võ

Sớm khuya cùng núi cỏ ngàn cây

Đèn trăng chiếu đất màn mây

Dưỡng thân hoa quả kết bày hươu nai

Đường vãng lai thanh sơn tú thủy

Lốt đại xà tướng vẽ ngư long

Có phen biến tướng lạ lùng

Mày ngài yểu điệu má hồng phi phương

CÓ phen trách rằng nàng lỗi lỗi

Mặt băng trừng ruột rối châu sa

Có phen thấp thoáng Hằng Nga

Tưởng bề phu phụ xót xa muôn phần

Có phen trách lang quân bội bạc

Nghe ai làm chiếc mác duyên ai

Có phen liễu ủ đào phai

Phận dành chắp bả xe gai sự thường

Có phen bôn trì dương nâng nguyệt

Ba thân phàm mong quyết quy không

Có phen nhịn nắng non xanh

Ngâm sầu tới nỗi hình dung võ vàng

Bốn bề những hổ lang ác thú

Vật đều cùng mến chúa hôm mai

Đua nhau trăm giống ngàn loài

Dâng hóa cúng quả chẳng nài công phu

Ngẫm mười thu dãi dầu sương nắng

Tin cá trầm nhạn vắng khôn hay

Những ngờ nhiều nỗi riêng tây

Nào hay con tạo vận xoay ở trời

Trên dương thế có người nho sĩ

Văn tú tài Liễu Nghị là tên

Trẻ từ nhờ ấm xuân huyên

Sôi kinh nấu sách hằng chuyên việc mình

Ngày vừa thuở thần kinh hội thí

Dặm đường trường Liễu Nghị trẩy ra

Vũ môn mong nhảy đạt ba

Chỉn hiềm con tạo xui ra bởi người

Bây giờ đã tới nơi non quạnh

Ác ban khoa sương lạnh trời hôm

Đội ngàn hoa cỏ xanh êm

Trước hàng liễu ủ sau hàng đào phai

Lòng hiếu sự đeo đòi cảnh vật

Thấy Chúa ngôi thư chất dung nhan

Má hồng châu lệ đầm chan 

Nỉ non hòa khóc hòa than một mình

Chàng nhận biết tâm tình cảm cách

Chúa nhận người hỏi khách rằng bây

Non cao rằng vắng chốn này

Dầu nay quân tử tới đây lạc loài

Bây giờ đã trăng soi ác lặn

Chàng hãy còn thơ thẩn cớ sao

Thưa rằng hàn sĩ chí cao

Mười năm đèn sách công lao chuyên cần

Hội hoa xuân lắm xưa gặp gỡ

Sự duyên này can cớ do đâu

Dám xin kết chỉ hợp bầu

Kẻo còn lẩn quất gieo cầu dưới trăng

Chúa nghe nói dùng dằng khôn xiết

Đoái nhỉ chàng hoa nguyệt sao nên

Thiếp nay người dưới thủy tiên

Nghiêm từ sớm đã định duyên giai kỳ

Khăng khăng giữ đạo tùy sau trước

Chẳng ngờ chàng tính nước lòng may

Hư không gắp lửa bỏ tay

Gieo oan một phút đầy mười đông

Phiền quân tử tính xuân áng áng

Sự duyên này thiếp há đơn sai

Chàng dằng miễn được như lời

Ra oai đỉnh thắm sông dài quản bao

Nhớ đèn nguyệt đêm thâu hỏi khó

Dãi tấc lòng thề chí cao xanh

Hàn sơn nghe vắng tiếng kình

Quy mô bỗng đa trở tình thực hư

Chúa nhiều nỗi chín lâu oan ức

Phó kim thoa cùng bức thư phong

Dặn chàng ra mãi biển đông

Đến đâu xem thấy ngô đồng cây cao

Chàng nghe nói tiêu hao sau trước

Dạ ngùi ngự bước trực đường thông

Bể đào cất mặt xa troong

Tưởng lo sự chúa mà mong sự tiên

Duềnh ngân hán băng miền thẳng trỏ

Tới ngô đồng tay múa bề tôi

Tự nhiên nổi trận phong lôi

Giữa dòng dè thấy một hai bách xà

Chàng xem thấy sự ứng hiện

Mới bày lời Chúa khiến phân minh

Bạch xà suấ tới Động Đình

Sai lên lấy nước dòng xanh điệu chàng

Một giây dưới điện vàng thủy phủ

Thấy quần thần văn võ đôi bên

Thiều tấu nhạc vũ dưới trên

Nơi bầy ngư biếc nơi chen long xà

Kim quy sai trước tòa ngọc bệ

Bước ra bày Liễu Nghị vào trong

Chàng bèn dâng bức thư phong

Phụ vương trông thấy trong lòng quặn đau

Trách Kinh Xuyên cơ cầu độc giữ

Mới bày chàng trưởng tử Xích Lân

Phán rằng chúa phải gian truân

Con vua điện dưới thủy cung chớ chày 

Lời vương phụ truyền ngay trục kíp

Xích Lân bèn hóa phép thần thông

Nước dâng cờ phất trống dong

Khắp hòa thế giới đều cùng mênh mang

Mảng tiếng vang mưa sa chớp dật

Quỷ cùng thần lánh bạt đòi nơi

Chúa tiên về chốn long giai

Sự Kinh Xuyên với Thảo Mai luận dày

Công cán này ai bằng Liễu Nghị

Phong cho làm quốc tế thủy quan

Chàng từ vâng mệnh thiên than

Duyên ưa phận đẹp chức ban trọng quyền

Mái thiên công an bài thuở trước

Đấng trần phàm bỗng được giao tiên

Chúa tự kim cải bén duyên

Có danh trí tuệ có quyền anh linh

Đã nên đấng anh linh liệt nữ

Trách thay nước can cớ chấp nê

Ngẫm thay tiên chúa sinh trì

Hãy soi gương trước mà suy sự lòng

Rũ sạch không mỗi đường tân khổ

Nương uy trời cứu hộ sinh linh.