Tây ban nha – nơi hội tụ của các nền văn hóa

Không chỉ nổi tiếng với những điệu nhảy Flamenco, những trận đấu bò, những bãi biển tuyệt vời và nhiều ánh náng mặt trời, Tây Ban Nha còn là nơi hội tụ giữa những luồng văn hóa khác nhau, sự pha trộn giữa truyền thống và hiện đại, là nguồn cảm hứng bất tận cho các nghệ nhân sáng tạo nên những bộ đèn chùm rực rỡ.

Tổng quát chung

– Vị trí địa lý: Tây Ban Nha là đất nước nằm ở Tây Nam Châu Âu, giáp với biển Địa Trung Hải, Bắc Đại Tây Dương, Vịnh Biscay và dãy núi Pyrenees, và tây nam nước Pháp.

Tây Ban Nha có biên giới với Maroc thông qua các lãnh thổ nhỏ của nước này trên lục địa Châu Phi, khoảng 5% dân số Tây Ban Nha sống tại các lãnh thổ thuộc châu Phi, hầu hết là tại quần đảo Canaria.

– Thủ đô: Mandrid

– Cờ: Tây Ban Nha có lá cờ với hai dải ngang màu đỏ trên cùng và dưới cùng, trong đó dài màu vàng rộng hơn, còn dải ngang màu đỏ nằm ở giữa. Quốc huy được hiển thị ở mặt trên lá cờ nằm trong dải màu vàng cũng là đại diện cho bốn vương quốc truyền thống của đất nước.

Theo chiều kim đồng hồ từ phía bên trái gồm các vương quốc: Castile (biểu tượng hình lâu đài), Leon (biểu tượng con sư tử), Aragon (biểu tưởng bởi các sọc đỏ và vàng), và Navarre (biểu tượng là các chuỗi liên kết).

– Quốc ca: Quốc ca của Tây Ban Nha được gọi là Marcha Real – ‘Royal March’ – Hành khúc Hoàng gia, và là một trong số ít ca khúc trên thế giới không có lời bài hát chính thức.

– Dân tộc: Các nhóm dân tộc ở Tây Ban Nha là Castilian (khoảng 75%), Catalan (khoảng 16%), Galicia (khoảng 6,5%) và Basque (khoảng 2%.)

– Dân số: theo ước tính năm 2017 là 46.070.146 người.

– Khí hậu: ôn đới, được chia thành 3 dạng khí hậu chính, khí hậu lục địa, khí hậu địa trung hải và khí hậu hải dương.

– Tiền tệ: Sử dụng đồng Euro.

– Chính phủ: Chính phủ Tây Ban Nha là chế độ quân chủ lập hiến, có Vua là người đứng đầu nhà nước và chỉ huy chính nhưng không có quyền hạn trong Chính phủ.

Một vài nét khái quát về lịch sử

Đế quốc hùng mạnh Tây Ban Nha bắt đầu khi Columbias phát hiện ra Châu Mỹ vào năm 1492 dẫn đến sự kiện xâm chiếm thuộc địa của phần lớn miền Nam và Trung Mỹ, Mexico, một phần của Caribe và phần lớn Hoa Kỳ hiện nay.

Trong thế kỷ 16, 17 người Tây Ban Nha đã mất đi quyền chỉ huy con đường biển đến Anh và sau đó phải vật lộn để nắm lấy các cuộc cách mạng công nghiệp và thương mại diễn ra trong thế kỷ tiếp theo. Tây Ban Nha sau đó dần trở nên tụt hậu so với Anh, Pháp và Đức cả về mặt chính trị lẫn kinh tế.

Đất nước này phải chịu đựng những khó khăn to lớn trong cuộc nội chiến nổ ra từ năm 1936 đến năm 1939 và kết quả là phải chịu 36 năm chế độ độc tài quân sự của Tướng Francisco Bahamonde (Franco). Mãi cho đến năm 1975, sau cái chết của Franco, Tây Ban Nha mới có thể thiết lập một xã hội hòa bình và dân chủ, sau đó là sự tăng trưởng nhanh chóng trong nền văn hóa hiện đại hóa và kinh tế.

Tây Ban Nha về sau gia nhập Liên minh Châu Âu vào năm 1986 và trở thành một nhà lãnh đạo toàn cầu về tự do và nhân quyền.

Trong năm 2008, Tây Ban Nha phải chịu một cuộc suy thoaí kinh tế trầm trọng nhưng đã bắt đầu dần khôi phục vào những năm gần đây. Mức tăng trưởng GDP trong 3 năm kể lại đây đã trên mức trung bình EU. Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp của họ đã giảm, nhưng vẫn còn cao, đặc biệt là trong giới trẻ Tây Ban Nha.

Tôn giáo và tín ngưỡng

Tây Ban Nha là một quốc gia Công giáo La Mã chủ yếu với khoảng 94% dân số thuộc về tôn giáo đó. Trong lịch sử Tây Ban Nha đã có nhiều giai đoạn mà các nhóm tôn giáo khác nhau cùng tồn tại, bao gồm cả người Hồi giáo, người Do Thái và Kito hữu.

Một số truyền thống của Tây Ban Nha chính là sự kiện tôn giáo mà đất nước này xây dựng lên. Trong tuần lễ Thánh, các cuộc diễu hành diễn ra khi những người tham gia phải đội một chiếc mũ có đỉnh nhọn hình nón và mặc đồng phục diễu hành. Họ phải đi chân trần và vác một vật nặng trên vai, biểu tượng cho những người ăn năn, hối lỗi.

Lịch sử âm nhạc Tây Ban Nha

Không có gì ngạc nhiên khi lịch sử âm nhạc Tây Ban Nha lại phát triển rộng rãi và đa dạng như vậy. Không một quốc gia châu Âu nào lại tự hào vì có một dòng máu yêu âm nhạc đến cháy bỏng bằng Tây Ban Nha, với các yếu tố độc đáo đến từ các nền văn hóa khác nhau.

Một phần khiến Tây Ban Nha trở nên hấp dẫn như vậy là do sự xuất hiện của một loạt các nền văn hóa khác nhau trong lịch sử của họ. Trong thời kỳ đầu tiên, việc chia tách các nền văn hóa đã vô tình ảnh hưởng tới mọi tầng lớp giai cấp và đóng góp đáng kể vào lịch sử âm nhạc nước này. Người La Mã là những người đầu tiên đem ý tưởng âm nhạc của người Hy Lạp đến với vùng đất Tây Ban Nha. Sau đó sự trỗi dậy của người Visigoth đã cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của nền âm nhạc thiêng liêng và những bài hát xuất phát từ Giáo Hội, và dưới sự khoan dung của Moors, Do Thái, Kito và Moorish bắt đầu xuất hiện.

Dưới thời kỳ Phục Hưng, âm nhạc Tây Ban Nha tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Âm nhạc với các loại nhạc cụ nổi lên phát triển mạnh, đáng chú ý nhất là sự ảnh hưởng của nền âm nhạc Ả Rập và sự xuất hiện của cây đàn guitar Tây Ban Nha. Sau cuộc tái thiết thế kỷ 16, phong cách ca hát đa âm, có tiếng nói bổ sung, phát triển thông qua sự tiếp xúc với các nước láng giềng ở phía bắc là Pháp và Flanders.

Khi các nhạc sĩ đi ngao du khắp nơi từ nước này sang nước khác, đặc biệt là Rome và nảy ra những ý tưởng phong phú trên đường đi, tạo nên những bản nhạc vĩ đại, một số nhà soạn nhạc cổ điển như Francisco Guerrero và Tomás Luis de Victoria đã trở thành những nhà soạn nhạc kinh điển hàng đầu.

Vào thế kỷ 17-18, một trong những biểu hiện vĩ đại nhất của nền âm nhạc Tây Ban Nha đã xuất hiện, đó chính là hình thức Opera, đang phát triển nở rộ và trở thành hiện tượng văn hóa được tiếp tục phát triển cho đến ngày nay. Tuy vậy trái ngược với thế kỷ trước, âm nhạc cổ điển đã chững lại và suy giảm dài tận 2 thế kỷ. Thay vào đó âm nhạc dân gian đã lan rộng và trở nên phổ biến trên khắp các vùng khác nhau của Tây Ban Nha.

Sau nội chiến Tây Ban Nha và 50 năm đàn áp của Chính phủ dưới sự độc tài của tướng Francisco Franco, âm nhạc đã bị cấm trên khắp các vùng. Mọi thứ liên quan đến ngôn ngữ, văn học và âm nhạc đều bị đốt cháy, những người truyền bá văn hóa đều bị bắt giam. Kết quả là, âm nhạc dân gian đa dạng của Tây Ban Nha đã phát triển trong nhiều thế kỷ qua đã biến mất, nhưng thực chất là được giấu kín bởi sự theo dõi của Chính Phủ Franco.

Khi chế độ quân chủ Franco dẫn kết thúc, sự nổi lên của nhạc Pop và Rock ‘n’ roll đã đánh dấu một khía cạnh quan trọng khác trong lịch sử âm nhạc. Các nhóm người Mỹ và Anh xâm nhập và nền âm nhạc quốc tế đang dần xâm nhập, thậm chí cả Franco cũng không ngăn chặn được nền âm nhạc phát triển.

Những bản nhạc Pop đầu tiên về cơ bản là bắt chước nhạc Pop Pháp, hoặc Mỹ và Anh. Các nghệ sĩ Tây Ban Nha đã đem niềm đam mê với vũ điệu Flamenco vào đó và tạo nên một sự pha trộn tuyệt vời.

Nghệ thuật Tây Ban Nha

Từ họa sĩ đến kiến truc sư, nhà điêu khắc đến nhà soạn kịch, Tây ban Nha đã trở thành quê hương của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng qua nhiều thế kỷ. Nghệ thuật Tây Ban Nha đã được quốc tế công nhận bởi quốc tế như là một phần quan trọng của văn hóa và lịch sử nước này.

Do vị trí địa lý và bề dày lịch sử, nền hội họa Tây Ban Nha cũng chịu ảnh hưởng qua nhiều thế kỷ. Thế kỷ thứ 7, quy tắc Moorish đã để lại dấu ấn riêng khó phai nhòa đến nền văn hóa xứ sở bò tót. Ta có thể thấy rõ ràng điều đó qua các tòa kiến trúc được xây dựng bởi các kiến trúc sư nổi tiếng. Như Lluís i Domènech, kiến trúc sư tài ba xứ Catalan, thường sử dụng đồ trang trí Moorish để tô điểm cho những sáng tạo của mình.

Rất nhiều họa sĩ lớn của Tây Ban Nha dành rất nhiều thời gian ở Pháp, và đặc biệt là Paris, nơi nghệ thuật bùng nổ. Pablo Picasso nổi tiếng đã dành rất nhiều thời gian của mình ở Paris, nơi ông cũng gặp rất nhiều nhà điêu khắc Tây Ban Nha khác như Pablo Gargallo.

Nghệ thuật hội họa Tây Ban Nha cũng là nguồn gốc phát triển của nhiều phong trào nghệ thuật Châu Âu. Trong đó Pablo Picasso là một trong những nghệ sĩ Tây Ban Nha vĩ đại được nhiều người biết đến, ông được coi là Cha đẻ của phong cách nghệ thuật hiện đại, Cubism. Picasso là người có sức ảnh hưởng lớn đối với các họa sĩ quan trọng khác của Cuba như Georges Braque và Juan Gris.

Một nghệ sĩ khác của Tây Ban Nha, là Antoni Gaudí, đã tiếp tục phong trào hiện đại Catalan trong thế kỷ 19 – 20, tạo ra sức ảnh hưởng đến nhiều kiến trúc sư trẻ người Catalan Tây Ban Nha của thế kỷ sau.

Thậm chí một số đạo diễn Tây Ban Nha còn có tác động rất lớn đến nền điện ảnh Thế giới. Segundo de Chomón là một đạo diễn phim Tây Ban Nha thế kỷ 19 – 20 người được coi là tiên phong trong ngành điện ảnh vì những tiến bộ trong kỹ thuật quay phim chuyển động.

Nghệ thuật là một cách tuyệt vời để thể hiện cảm xúc bên trong của bạn, đặc biệt là những gì khó diễn tả thành lời, các nghệ sĩ Tây Ban Nha vô cùng giỏi điều đó. Nhiều họa sĩ đã sử dụng tác phẩm nghệ thuật của mình để biểu hiện sự phản đối của bản thân.

Ví dụ, Picasso đã thể hiện sự phẫn nộ trong vụ đánh bom thị trấn nhỏ Guernica trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha bằng cách vẽ nên bức tranh “Guernica”. Còn Francisco Goya cũng sản xuất bộ phim “Los desastres de la guerra” – “The Disasters of War” như biểu tình để chống lại bạo lực trong cuộc nổi dậy của Tây Ban Nha vào ngày 2 tháng 5 năm 1808, hay còn được họi là Dos de Mayo năm 1808.

Kiến trúc Tây Ban Nha

Kiến trúc La Mã xuất hiện ở Tây Ban Nha khi người La Mã chinh phục bán đảo này và mang đến những kỹ thuật chuyên môn tuyệt vời. Họ đã xây dựng nên một mạng lưới các con đường kết nối nhiều thành phố lớn với nhau như Cordoba và Tarragona. Nhiều cây cầu và cống dẫn nước được xây dựng ở Tây Ban Nha cùng một số công trình công cộng khác như ngọn hải đăng ở La Coruna, vẫn còn đang được sử dụng cho đến ngày nay.

Thời kỳ tiền Roma, nghệ thuật Kito giáo xuất hiện sau thời đại cổ điển, nhưng trước thời kỳ nghệ thuật La Mã. Nổi tiếng nhất trong số đó là nghệ thuật Asturias. Giai đoạn này là thời điểm đổi mới trong cấu trúc và thiết kế.

Vào thế kỷ thứ 10 – 11 là thời điểm kiến trúc Roman của Tây Ban Nha bắt đầu phát triển. Tuy nhiên vào thời điểm này, kiến trúc khá cơ bản, các bức tường dày và việc sử dụng các tác phẩm điêu khắc bị hạn chế. Kiến trúc giai đoạn này được gọi là “Romanesque”. Và tòa nhà mang tính biểu tượng của kiến trúc Romanesque Tây Ban Nha là nhà thờ Jaca ở Aragon, nơi có lối trang trí theo phong cách bàn cờ tiêu biểu là “taqueado jaqués”.

Thế kỷ 12 chứng kiến sự xuất hiện của kiến trúc Gothic từ Châu Âu ở bán đảo Tây Ban Nha, nhưng nó vẫn xen kẽ với thời kỳ La Mã trước đó. Phải thực sự đến thế kỷ 13 phong cách Gothic mới phát triển đến đỉnh cao. Các nhà thờ Burgos, Toledo và Leon đều được xây dựng theo phong cách Gothic, chịu ảnh hưởng nặng nề từ Đức và Ý.

Thế kỷ 15 là lúc bắt đầu thời kỳ kiến trúc Phục Hưng, nhiều tòa nhà Gothic cũ được điều chỉnh để đáp ứng phong cách Phục Hưng mới. Cung điện Charles V, tại Granada được thiết kế bởi Pedro Machuca rất nổi tiếng trong khoảng thời gian đó. Công trình này đã kết hợp nhiều yếu tố với những phong cách riêng biệt trước khi phong trào phát triển đúng cách, và đã được hoàn thành trước khi Michelangelo trở thành họa sĩ được yêu thích. Tuy nhiên sau thời đại này, những ảnh hưởng của phong cách Gothic đã giảm xuống, các công trình Phục hưng thực sự của Tây Ban Nha bắt đầu xuất hiện. El Escorial, tại thị trấn San Lorenzo de El Escorial, là ví dụ điển hình nhất về kiến ​​trúc thời Phục hưng của Tây Ban Nha.

Kiến trúc Baroque là một phong cách có nguồn gốc từ Ý, xuất hiện vào thế kỷ 16. Biến thể của phong cách này dần phát triển và trở thành phong cách kiến trúc mà người ta thường thấy tại Plaza Mayor ở Madrid. Một vài công trình điển hình nhất về kiến trúc Baroque ở Tây Ban Nha là Mặt tiền phía Tây của Nhà thờ Santiago de Compostela, và mặt tiền của Đại học valladolid và Hospicio de San Fernando ở Madrid.

Kiến trúc Tân cổ điển ở Tây ban Nha được phát triển bới trường kiến trúc Madrid, Học viện Kỹ thuật Hoàng gia San Ferrnando. Công trình kiến trúc Tân cổ điển nổi tiếng nhất của Tây Ban Nha là Juan de Villanueva. Tòa nhà nổi tiếng nhất của ông ở Tây Ban Nha là Museo del Prado, phòng trưng bày nghệ thuật ở trung tâm Madrid, nơi bạn có thể học nghệ thuật Tây Ban Nha tốt nhất.

Thế kỷ 19 là thời kỳ phục hưng các phong cách kiến trúc cũ. Do đó có những ví dụ điển hình về kiến trúc Neo-Gothic, kiến trúc Neo – Ai Cập và Neo – Romanesque, và một số phong cách khác. Các kiến trúc sư Tây Ban Nha sẽ chọn ra một phong cách tùy thuộc vào mục đích của họ. Antonino Palacios là một ví dụ điển hình về phong cách chiết trung này, với cung điện Palacio de Comunicaciones. Thế kỷ 19 cũng là thời kỳ Cách mạng Công nghiệp, các tòa nhà bắt đầu kết hợp một số vật liệu mới mà Cuộc cách mạng này mang lại, bao gồm cả kính và đồ sắt.

Thế kỷ 20 chứng kiến sự nổi lên của chủ nghĩa hiện đại Catalan, một phong cách kết hợp nhiều yếu tố tự nhiên hơn. Gaudí là kiến trúc sư hàng đầu của Tây Ban Nha theo phong cách này. Ông trang trí thành phố Barcelona với nhiều tòa nhà tuyệt vời, bao gồm công trình nổi tiếng nhất của ông, La Sagrada Familia. Lluís Domènech i Montaner cũng là một kiến trúc sư người Tây Ban Nha khác, ông chính là người đã phát triển phong trào hiện đại Catalan.

Ngày nay, có rất nhiều kiến trúc sư Tây Ban Nha vừa chớm nở, và sẽ còn nhiều kiến trúc sư hơn nữa trong giới kiến trúc hiện đại. Cả Santiago Calatrava và Rafael Moneo đã đẩy ranh giới của kiến trúc Tây Ban Nha ra khắp toàn bộ đất nước và cả nước ngoài.

Ẩm thực Tây Ban Nha

Truyền thống ẩm thực của Tây Ban Nha dựa vào sự phong phú của các loại trái cây và rau quả trồng tại địa phương cũng như thịt và gia cầm. Jamón serrano, giăm bông, và Chorizo, xúc xích là những món ăn rất phổ biến tại nơi đây. Còn hải sản và cá lại rất phổ biến ở các vùng ven biển. Các loại thực phẩm phổ biến khác là phomat, trứng, đậu, gạo, các loại hạt (đặc biệt là hạnh nhân), và bánh mì. Dầu oliu và tỏi là loại gia vị phổ biến hơn cả. Tây Ban Nha cũng được biết đến với các loại rượu vang, bao gồm Rioja  sản xuất tại tỉnh phía Bắc, Sherry – là một loại rượu vang được làm nặng thêm có thể khô hoặc ngọt, và Sangria – rượu vang trộn với trái cây và nước soda.

Món ăn Tây Ban Nha nổi tiếng nhất là món hầm paella, có nguồn gốc từ Valencia, một tỉnh phía đông trên biển Địa Trung Hải. Gạo, một thành phần chính không thể thiếu được trồng ở vùng bình nguyên thủy triều của Valencia. Mặc dù có nhiều biến thể, Paella thường được làm từ nhiều hải sản có vỏ (như tôm, trai, cua hoặc tôm hùm), xúc xích Chirizo, rau (cà chua, đậu Hà Lan và măng tây), gà và gạo. Nước sốt được làm từ hành tây, tỏi, rượu vang, ớt đr và nghệ tây để thêm hương vị cho món hầm.

Mỗi khu vực đều có các món ăn và đặc sản riêng biệt. Gazpacho, một món súp cà chua lạnh có nguồn gốc từ miền nam Tây Ban Nha. Theo truyền thống, để giã nhỏ các nguyên liệu bằng tay người ta thường dùng một vật dụng đặc biệt được gọi là dornillo, nhưng những người đầu bếp Tây Ban Nha hiện đại lại sử dụng máy say sinh tố để làm việc này.

Cataluña (Catalonia), ở đông bắc Tây Ban Nha, được biết đến với những món ăn sáng tạo có sự giữa kết hợp hải sản, thịt gia cầm và trái cây địa phương. Ở miền bắc, xứ Basque (páis Vasco), cá là thực phẩm quan trong đối với chế độ ăn uống của người dân Tây Ban Nha. Ở những vùng sâu bên trong, như vùng Castilla, thịt đóng vai trò là loại thực phẩm chính. Tortilla española, là một món trứng tráng khoai tây, được phục vụ trong cả nước. Nó có thể được chuẩn bị một cách nhanh chóng và làm cho một bữa tối trở nên thịnh soạn nhưng đơn giản. Món tráng miệng nổi tiếng nhất của Tây Ban Nha là flan, một món sữa trứng phong phú.

Tây Ban Nha- nơi của những lễ hội lạ lùng nhất

Lễ hội Tây Ban Nha diễn ra ở mọi thành phố, thị trấn và làng mạc khắp Tây Ban Nha vào thời điểm nhất định trong năm và một trong những đặc điểm thu hút khách đến thăm Tây Ban Nha nhất. Một số lễ hội ở Tây Ban Nha có ý nghĩa tôn giáo vf lịch sử sâu sắc trong khi những lễ hội khác chỉ đơn giản là tiệc tùng và vui chơi.

Trong đó Lễ hội cà chua – La Tomatina là một trong những lễ hội độc đáo và thú vị nhất ở nơi đây, thường được tổ chức vào thứ tư cuối tùng của tháng Tám hàng năm tạo thị trấn Bunol, Valencia.

Lễ hội cà chua là cuộc chiến thực phẩm lớn nhất mà bạn từng tham gia, đây là nơi hàng tấn cà chua chín được ném trên đường phố bởi hàng ngàn người tham gia lễ hội. Mọi người sử sử những quả cà chua chín mọng để ném vào những người đi đường tham gia lễ hội. Không cần người chiến thắng chỉ có niềm vui và thưởng thức không khí lễ hội là mục đích là Lễ hội cà chua đem lại.

Một trong những lễ hội đầy màu sắc nổi tiếng nhất ở Tây Ban Nha là lễ hội Santa Cruz de Tenerife, được tổ chức vào tháng hai mỗi năm. Lễ hội được tổ chức tương tự như ở Brasil với các cuộc diễu hành cùng phao nổi và ban nhạc, biểu diễn trên đường phố, các vũ công với trang phục, lễ hội tuyệt đẹp. Một số bộ trang phục đẹp mắt có thể nặng tới 100kg, phải mất nhiều tháng để có thể chuẩn bị cũng như nhiều giờ để tập luyện di chuyển tự do trong bộ trang phục to lớn như vậy.

Lễ hội bò rượt – San Fermin Fiestas Pamplona thường diễn ra vào tuần thứ hai và là lễ hội đưa tất cả mọi người đến với mọi ngóc ngách của thành phố Pamplona. Lễ hội bắt đầu bằng cách bắn pháo hoa được gọi là Chupinazo từ ban công của thị trưởng. Bò đuổi bắt đầu từ Quảng trường Santo Domingo và chạy qua các đường phố cổ của Pamplona.

Đây là lễ hội nổi tiếng nhất của Tây Ban Nha, nhưng cũng không kém phần nguy hiểm, khi để những người khách muốn tìm kiếm cảm giác mạnh, bị rượt đuổi bởi một con bò đang tức giận.

Bạn thấy Tây Ban Nha có nhiều điều thú vị phải không nào, còn một bí mật nữa mà có thể bạn không ngờ đó là Top Hit Despacito bạn đang nghe cũng là âm nhạc đến từ Tây Ban Nha với những vụ điệu cực kì nóng bỏng đó.

Mong rằng những thông tin trên mang đến cho bạn những thông tin hữu ích!

Đánh giá bài viết