Thông tư 29-TT hướng dẫn đánh giá, xếp loại học sinh cấp II phổ thông cơ sở, trung học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO
——–
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—————
Số: 29 TT
Hà Nội, ngày 6
tháng 10 năm 1990
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI HỌC SINH CẤP II PHỔ THÔNG CƠ SỞ,
PHỔ THÔNG TRUNG HỌC
Đánh giá, xếp loại trình độ được đào tạo của học
sinh là nhiệm vụ quan trọng của nhà trường phổ thông, góp phần đảm bảo quá trình
giáo dục theo đúng mục tiêu đào tạo đã được xác định theo quyết định số 305/QĐ
và 329/QĐ. Việc đánh giá xếp loại trình độ được đào tạo của học sinh phải thể
hiện rõ tính toàn diện, thống nhất từ cấp I đến cấp THPT, đồng thời từng bước cải
tiến, nâng cao làm cho việc đánh giá xếp loại ngày một chính xác, cụ thể, khách
quan và tương đối dễ làm.
Từ năm học 1990-1991 học sinh các trường phổ
thông được đánh giá, xếp loại theo hai mặt: Hạnh kiểm (thể hiện phẩm chất của
con người học sinh) và học lực (thể hiện kết quả học các bộ môn văn hóa khoa học,
lao động – kỹ thuật, rèn luyện thân thể… của học sinh) để phù hợp với điều kiện
và thực tế giáo dục trong tình hình hiện nay.
Bộ hướng dẫn cụ thể việc đánh giá, xếp loại như
sau:
A. ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI VỀ HẠNH
KIỂM.
I. Những căn cứ để đánh giá về
hạnh kiểm.
1. Căn cứ vào mục tiêu và kế hoạch đào tạo được
Bộ qui định theo các quyết định số: 305/QĐ và 329/QĐ ngày 31-3-1990.
2. Căn cứ vào việc thực hiện nhiệm vụ học sinh từng
cấp học ban hành theo quyết định số 1118/QĐ ngày 2-12-1987, tập trung vào các
điểm chủ yếu sau:
– Nhận thức, tình cảm làm nền tảng cho hành động
đẹp đẽ.
– Hành động cụ thể biểu hiện qua các hoạt động học
tập, lao động, rèn luyện thân thể vui chơi…
– Tác dụng của cá nhân học sinh đối với tập thể.
– Ý thức tự phê bình, thái độ tự giác đấu tranh
với những sai lầm, khuyết điểm của chính mình.
3. Hạnh kiểm của học sinh chủ yếu được đánh giá
qua những hành vi, thái độ cư xử trong phạm vi nhà trường và phải phù hợp với
thời gian, điều kiện được giáo dục, với trình độ phát triển về nhận thức, về
tâm lý, sinh lý của học sinh.
4. Xem xét một cách đúng mức, khách quan những
biểu hiện về hành vi đạo đức và thái độ cư xử trong các mối quan hệ xã hội và
gia đình.
II. Tiêu chuẩn đánh giá, xếp
loại về hạnh kiểm.
Về mặt hạnh kiểm, học sinh được đánh giá xếp loại
thành 5 loại: tốt, khá, trung bình, yếu, kém. Tiêu chuẩn cụ thể của từng loại
như sau:
1.Loại tốt: Được xếp hạnh kiểm về loại tốt là những
học sinh có nhận thức đúng và thực hiện khá đầy đủ nhiệm vụ học sinh; có ý thức
trách nhiệm cao đối với học tập, lao động, rèn luyện đạo đức, nếp sống và rèn
luyện thân thể…, có tiến bộ không ngừng, đạt kết quả cao về tất cả các mặt.
Những biểu hiện chính của tiêu chuẩn trên là:
1) Xác định được mục đích học tập, chuyên cần
ham học, trung thực trong học tập và đạt kết quả ngày càng tiến bộ. Luôn khiêm
tốn và sẳn sàng giúp bạn cùng học tập tiến bộ. Mạnh dạn đấu tranh chống thói lười
biếng, ỷ lại , thiếu trung thực trong học tập.
2) Tham gia đầy đủ và thực hiện tốt các buổi lao
động, hoạt động hướng nghiệp, học nghề. Có ý thức và thực hành tiết kiệm; quí
trọng và bảo vệ tài sản chung của nhà trường, của lớp học. Sẵn sàng tham gia
lao động góp phần xây dựng địa phương do nhà trường tổ chức.
3) Tích cực rèn luyện thân thể và tham gia các
buổi luyện tập quân sự. Luôn giữ vệ sinh cá nhân, giữ sạch đẹp trường lớp.
4) Có nhiều cố gắng rèn luyện nếp sống lành mạnh,
có văn hóa có kỷ luật. Trung thực đúng mức trong quan hệ giao tiếp đối với thầy
giáo, cô giáo, bạn bè, với gia đình và những người xung quanh.
5) Có ý thức thực hiện tốt pháp luật và các
chính sách có liên quan đến bản thân. Có thái độ rõ ràng ủng hộ cái đúng, cái tốt,
không đồng tình với những biểu hiện sai trái trong và ngoài xã hội.Tích cực
tham gia các hoạt động xã hội do nhà trường tổ chức ,sẵn sàng giúp bạn,các em
nhỏ,người già ,những người tàn tật khi gặp khó khăn.Có ý thức đoàn kết quốc tế
,vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc ,lịch sự và không có hành động,thái độ
thiếu văn hóa với người nước ngoài.
2.Loại trung bình: Được xếp loại trung bình về hạnh
kiểm là những học sinh có ý thức thực hiện nhiệm vụ học sinh, có tiến bộ nhất định
về hạnh kiểm nhưng còn chậm, không đều, chưa vững chắc, kết quả nói chung ở mức
trung bình. Còn mắc một số khuyết điểm nhưng ít nghiêm trọng, chưa thành hệ thống,
khi được góp ý kiến biết nhận ra khuyết điểm nhưng sửa chữa còn chậm.
Những biểu hiện chính của tiêu chuẩn trên là:
1) Thực hiện được những qui định tối thiểu về nề
nếp, kỷ luật học tập như: đi học tương đối đều, có học và làm bài, nghỉ học có
xin phép, ra vào lớp theo đúng qui định…; đôi khi còn bị nhắc nhỡ về học bài,
làm bài , đôi khi còn quay cóp hoặc bàn bạc trao đổi với bạn khi làm bài kiểm
tra, còn nói chuyện riêng hoặc làm việc khác trong giờ học. V v…
2) Tham gia tương đối đủ các buổi lao động, hoạt
động hướng nghiệp, học nghề do nhà trường tổ chức. Hoàn thành những phần việc
được giao, chấp hành sự phân công trong hoạt động, song chưa tỏ rõ sự cố gắng,
hoặc còn có những thiếu sót về thái độ và kỷ luật trong khi lao động, học nghề.
3) Có cố gắng nhất định về rèn luyện thân thể
tham gia các hoạt động thể dục thể thao và văn hóa văn nghệ… của lớp, của trường,
nhưng nói chung ở mức bình thường.
4) Không mắc những khuyết điểm nghiêm trọng
trong các quan hệ với thầy và bạn, chưa chủ động tích cực rèn luyện nếp sống
lành mạnh, có văn hóa, trong cách cư xử còn có lúc chưa đúng mức. Chưa vững
vàng trước sự phân định giữa tốt và xấu, đúng và sai do vậy không thể hiện rõ
thái độ ủng hộ cái đúng, cái tốt, phê phán cái xấu, cái sai, có lúc còn bị lôi
cuốn theo những việc làm chưa tốt.
5) Có tham gia các hoạt động xã hội do nhà trường,
Đoàn, Đội tổ chức, tuân theo luật pháp và những chính sách liên quan đến bản
thân.
3- Loại khá: Những học sinh đạt trên mức trung bình
nhưng chưa đạt mức tốt trong việc thực hiện các nhiệm vụ học sinh thể hiện qua
các mặt: rèn luyện đạo đức, học tập, lao động, rèn luyện thân thể, hoạt động xã
hội.V… hoặc trong các mặt trên có mặt đạt tốt nhưng cũng có mặt khác đạt chỉ
tới mức trung bình đều được xếp hạnh kiểm loại khá. Những học sinh này có thể
còn mắc những khuyết điểm nhỏ, được góp ý kiến thì sửa chữa tương đối nhanh và
không tái phạm.
4- Loại yếu: Xếp loại hạnh kiểm yếu những học
sinh: không đạt tới mức trung bình theo tiêu chuẩn trên, có những biểu hiện yếu
kém, chậm tiến bộ trong những điểm đã qui định cho loại trung bình.
Những biểu hiện của loại yếu về hạnh kiểm là:
1) Có hành động vô lễ, xúc phạm tương đối nghiêm
trọng đến uy tín và danh dự của thầy giáo, cô giáo ở trong hay ở ngoài nhà trường.
2) Quá lười học, được nhắc nhỡ nhiều lần nhưng
không tiến bộ, nhiều lần quay cóp hoặc có hành động thô bạo để được quay cóp
trong giờ kiểm tra.
3) Nhiều lần trốn lao động và hoạt động tập thể,
tự tiện bỏ học nhiều tiết, nhiều buổi.
4) Lấy cắp ở trong lớp, trong trường, hoặc tham
gia vào lấy cắp tài sản XHCN, tài sản riêng của công dân…
5) Tham gia gây rối, đánh nhau làm mất trật tự
trị an một cách tương đối nghiêm trọng.
6) Có hành động xấu, thiếu văn hóa đối với phụ nữ,
người già, người tàn tật, các em nhỏ và người nước ngoài, được phê bình góp ý
nhiều lần nhưng sự tiếp thu và sửa chữa rất chậm.
7) Những học sinh bị kỷ luật cảnh cáo hoặc đuổi
học 1 tuần ở học kỳ nào thì xếp loại hạnh kiểm yếu ở học ấy.
5- Loại kém: Học sinh có những biểu hiện sai
trái nghiêm trọng và bị kỷ luật ở mức đuổi học 1 năm đều xếp hạnh kiểm loại
kém.
III. Cách thức đánh giá xếp,
loại:
Để làm tốt việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm của
học sinh, giáo viên chủ nhiệm lớp cần thực hiện:
1- Tổ chức tốt quá trình giáo dục trước khi đánh
giá xếp loại:
– Vào đầu năm học nhà trường chỉ đạo giáo viên
chủ nhiệm tổ chức tốt việc học tập nhiệm vụ học sinh đã được qui định trong các
quyết định 305/QĐ, 329/QĐ và 1118/QĐ; thường xuyên nhắc nhỡ học sinh thực hiện
theo các nhiệm vụ đó.
– Nắm tình hình xếp loại hạnh kiểm ở năm học trước,
sơ bộ phân loại đối tượng, phân tích những ưu điểm, khuyết điểm từ đó định ra
phương pháp giáo dục thích hợp với từng học sinh.
– Luôn gợi mở, hướng dẫn nêu gương tốt để thúc đẩy
sự vươn lên, mong muốn tiến bộ của cá nhân. Thường xuyên theo dõi uốn nắn, phê
phán kịp thời, đúng mức những biểu hiện chưa tốt. Có những biện pháp tích cực
phát hiện nhằn ngăn chặn những hành động hay khuynh hướng xấu có thể xảy ra, loại
bỏ những điều kiện làm nảy sinh hiện tượng xấu.
– Xây dựng mối quan hệ giáo dục với gia đình và
Đoàn, Đội thống nhất các biện pháp giáo dục học sinh, tăng cường thông tin về
quá trình giáo dục giữa giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh.
2- Thực hiện tốt việc đánh giá, xếp loại:
– Vận dụng đúng đắn và phù hợp các tiêu chuẩn
đánh giá, xếp loại hạnh kiểm:
Tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại về mặt hạnh kiểm
là tiêu chuẩn chung cho cả hai cấp học. Vì vậy khi thực hiện giáo viên chủ nhiệm
căn cứ vào tiêu chuẩn và thực tế của quá trình giáo dục để vận dụng vào việc
đánh giá, xếp loại cho học sinh trong lớp; chú ý kết hợp chặt chẽ quá trình tiếp
thu và phát triển của nhận thức với những hành vi cụ thể của học sinh ở lớp cuối
cấp 2 THPT và các lớp THPT.
Khi vận dụng các tiêu chuẩn, cần lưu ý: động cơ
của hành động diễn biến và tính chất của hành động, tác dụng và hậu quả của
hành động. Có như vậy mới đánh giá chính xác, công bằng và có tác dụng giáo dục.
– Thực hiện đúng qui trình đánh giá, xếp loại:
Căn cứ vào tiêu chuẩn và quá trình tiếp thu giáo dục của học sinh, cuối mỗi học
kỳ và cuối năm học giáo viên chủ nhiệm dự kiến và lập danh sách xếp loại hạnh
kiểm. Bảng danh sách này được đưa lấy ý kiến của giáo viên bộ môn, cán bộ lớp,
cán bộ Đoàn, Đội. Các giáo viên bộ môn và cán bộ lớp cán bộ Đoàn, Đội có trách
nhiệm cho ý kiến đồng ý với hay không đồng ý với bản dự kiến xếp loại hạnh kiểm
này, nêu lý do và có chữ ký, chịu trách nhiệm về ý kiến của mình. Trên cơ sở
tham khảo những ý kiến đóng góp đó giáo viên chủ nhiệm cân nhắc và quyết định
danh sách xếp loại hạnh kiểm đảm bảo tính chính xác, khách quan, công bằng và
báo cáo với Hiệu trưởng.
Giáo viên chủ nhiệm chỉ chính thức công bố danh
sách xếp loại hạnh kiểm sau khi đã được Hiệu trưởng duyệt y.
Nói chung kết quả đánh giá, xếp loại hạnh kiểm ở
học kỳ II của học sinh được lấy làm kết quả đánh giá, xếp loại cả năm. Tuy
nhiên nếu có học sinh hạnh kiểm được xếp vào loại tốt hoặc khá ở học kỳ I,
nhưng do mắc sai lầm đột xuất mà hạnh kiểm bị xếp vào loại yếu ở học kỳ II, thì
có thể đưa ra Hội đồng giáo dục xem xét quá trình rèn luyện cả năm và quyết định
xếp loại hạnh kiểm vào loại yếu hoặc trung bình.
B. ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI VỀ HỌC
LỰC.
Từ năm học 1990-1991 trở đi việc đánh giá xếp loại
về học lực của học sinh được thực hiện theo cách tính điểm trung bình của tất cả
các môn học.
I. Những căn cứ để đánh
giá, xếp loại về học lực.
1- Kết quả các môn học theo qui chế cho điểm
trên 10 được qui định trong chương trình từng lớp, từng cấp đổ Bộ ban hành:
A- Đối với các lớp cấp 2 THPT gồm các môn:
Tiếng Việt và Văn, Sử, Địa lý, Giáo dục công
dân, Ngoại ngữ, Toán, Vật lý, Hóa, Sinh, Nghệ thuật, Thể dục-Quân sự, Lao động-kỹ
thuật.
B- Đối với các lớp THPT:
Ở các lớp không phân ban: Gồm các môn: Văn và Tiếng
Việt, Sử, Địa lý, Giáo dục công dân, Toán, Vật lý, Hóa, Sinh, kỹ thuật, Thể dục-Quốc
phòng, Ngoại ngữ.
Ở các lớp phân ban:Theo hướng dẫn riêng.
2- Chế độ cho điểm và điểm trung bình các môn học
của học sinh.
II. Chế độ cho điểm, hệ số
các loại điểm kiểm tra, và hệ số các môn học.
1- Chế độ cho điểm: Chế độ cho điểm ở các cấp học
được qui định chung như sau:
A. Số lần kiểm tra cho từng môn học: trong một học
kỳ, mỗi học sinh được kiểm tra ít nhất:
– Các môn học có từ 2 tiết/1 tuần trở xuống: 4 lần.
– Các môn học có từ 2,5 đến 3 tiết/1 tuần: 6 lần.
– Các môn học có từ 4 tiết/1 tuần trở lên: 7 lần.
B- Các loại điểm kiểm tra: Số lần kiểm tra qui định
cho từng môn như trên bao gồm: kiểm tra miệng, kiểm tra viết 15 phút, kiểm tra
viết 1 tiết trở lên (theo phân phối chương trình), kiểm tra cuối học kỳ.
– Nếu học sinh thiếu điểm kiểm tra miệng, phải
được thay bằng điểm kiểm tra viết 15 phút. Nếu thiếu điểm kiểm tra viết từ 1 tiết
trở lên (theo phân phối chương trình) phải được kiểm tra bù.
– Ở những môn trong phân phối chương trình không
qui định kiểm tra viết từ 1 tiết trở lên, phải thay bằng kiểm tra viết 15 phút,
cho đủ số lần kiểm tra đã qui định.
– Các loại điểm kiểm tra theo qui định trên sẽ
thực hiện theo hướng dẫn của từng bộ môn.
2- Hệ số các loại điểm kiểm tra.
– Kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút: hệ số 1.
– Kiểm tra từ một tiết trở lên: hệ số 2.
– Điểm kiểm tra học kỳ không tính hệ số mà tham
gia trực tiếp vào tính điểm trung bình môn theo hướng dẫn phần dưới.
3- Hệ số các môn học
Các môn Văn-Tiếng Việt và toán của cấp 2 và THPT
không phân ban được tính hệ số 2 khi tham gia tính điểm trung bình học kỳ hoặc
cả năm.
III. Cách tính điểm và tiêu
chuẩn xếp loại về học lực.
1- Cách tính điểm:
A- Điểm trung bình học kỳ (ĐTBHK)
– Điểm trung bình các bài kiểm tra (ĐTBKt): Là
trung bình cộng của từng điểm các bài kiểm tra sau khi đã tính hệ số (không
tính điểm kiểm tra học kỳ).
– Điểm trung bình môn học kè (ĐTBmhk): Là trung
bình cộng của ĐTBKt và điểm trung bình học kỳ (ĐKTHK):
– Điểm trung bình các môn học kè (ĐTBHK): là
trung bình cộng của các điểm ĐTBmhk sau khi đã tính hệ số.
B- Điểm trung bình cả năm: (ĐTBCN)
– Điểm trung bình môn cả năm (ĐTBmcn): Là trung
bình cộng của điểm Trung bình môn học kè I với 2 lần trung bình môn học kè II.
-Điểm trung bình các môn cả năm (ĐTBCN):
-Các điểm trung bình chỉ lấy đến một chữ số thập
phân.
IV. Cách thức tiến hành.
1- Giáo viên bộ môn chịu trách nhiệm cho điểm
theo chế độ qui định ở trên, và tính điểm trung bình môn của từng học kỳ, cả
năm.
Sau khi đã tính điểm trung bình, giáo viên bộ môn
ghi vào sổ điểm, học bạ học sinh và phê vào học bạ về môn mình phụ trách.
2- Giáo viên chủ nhiệm chịu trách nhiệm tính điểm
trung bình các môn từng học kỳ, cả năm học, và xếp loại học lực theo tiêu chuẩn
qui định. Giáo viên chủ nhiệm ghi kết quả vào sổ điểm, học bạ cho từng học
sinh.
3- Để làm tốt phần việc này giáo viên bộ môn,
giáo viên chủ nhiệm cần phải nắm vững chế độ cho điểm, cách tính điểm, tiêu chuẩn
xếp loại học lực để thực hiện tốt, tránh những sai sót,đảm bảo cho học sinh
không bị thiệt thòi.
C. SỬ DỤNG KẾT QUẢ ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI.
I. Sử dụng kết quả đánh giá
, xếp loại để xét cho học sinh lên lớp:
1- Cho lên thẳng : những học sinh có đủ các điều
kiện sau:
A- Nghỉ học không quá 45 ngày trong một năm học.
B- Được xếp loại học lực và hạnh kiểm cả năm từ
trung bình trở lên.
2- Cho ở lại lớp:
Cho ở lại lớp hẳn những học sinh phạm vào một
trong những điều kiện sau:
A- Nghỉ học quá 45 ngày trong một năm học.
B- Có học lực cả năm xếp loại kém.
C- Có hạnh kiểm và học lực cả năm xếp loại yếu.
3- Thi lại các môn học và rèn luyện thêm trong
hè về hạnh kiểm:
Những học sinh không thuộc diện ở lại lớp hẳn được
nhà trường xét cho thi lại các môn học hoặc rèn luyện thêm trong hè về hạnh kiểm
để được xét cho lên lớp vào sau hè. Nhà trường chịu trách nhiệm tổ chức cho học
sinh thi lại và rèn luyện thêm về hạnh kiểm.
A- Thi lại các môn học:
– Học sinh xếp loại yếu về học lực được cho phép
để lựa chọn thi lại các môn có điểm trung bình cả năm dưới 5,0 sao cho sau khi
thi lại có đủ điều kiện để lên lớp.
– Điểm bài thi lại của môn nào được dùng để thay
thế cho điểm trung bình môn cả năm của môn đó khi tính lại điểm trung bình các
môn cả năm học. Sau khi đã tính lại, những học sinh có điểm trung bình các môn
cả năm đạt từ 5,0 trở lên sẽ được lên lớp.
Học sinh phải đăng ký môn thi lại cho nhà trường
chậm nhất 7 ngày trước khi tổ chức thi lại.
B- Rèn luyện thêm về hạnh kiểm:
Những học sinh xếp loại yếu về hạnh kiểm sẽ phải
rèn luyện thêm trong hè. Giáo viên chủ nhiệm chịu trách nhiệm đặt những yêu cầu
nội dung cụ thể để giao cho học sinh rèn luyện, đồng thời có biện pháp tổ chức
theo dõi, đánh giá mức độ thực hiện những nội dung đó của học sinh. Sau hè căn
cứ vào sự tiến bộ của học sinh Hội đồng giáo dục xét và xếp loại lại hạnh kiểm
cho những học sinh này. Nếu được xếp loại trung bình sẽ được lên lớp.
4- Kết quả đánh giá xếp loại về hạnh kiểm và học
lực cả năm ở lớp cuối cấp được dùng làm điều kiện để xét cho học sinh dự thi tốt
nghiệp THPT, THPT (sẽ nói rõ ở qui chế thi tốt nghiệp THPT và THPT).
5- Ngoài việc đánh giá xếp loại các môn đã nêu
trên, tùy theo yêu cầu và điều kiện để đẩy mạnh và khuyến khích việc học tập, Bộ
sẽ qui định việc thi lấy chứng chỉ và các chứng chỉ này sẽ được xem xét để đánh
giá xếp loại , hoặc hướng ưu tiên khi xét tuyển, xét tốt nghiệp.
II. Sử dụng kết quả đánh
giá xếp loại để khen thưởng:
1- Tặng danh hiệu học sinh tiên tiến cho những học
sinh được xếp loại từ khá trở lên về cả hai mặt: Hạnh kiểm và học lực.
2- Tặng danh hiệu học sinh giỏi cho những học
sinh được xếp loại giỏi về học lực và xếp loại khá trở lên về mặt hạnh kiểm.
D. TRÁCH NHIỆM TRONG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CÁC MẶT GIÁO DỤC.
I. Giáo viên chủ nhiệm:
1-Chịu trách nhiệm chính về việc đánh giá, xếp
loại các mặt giáo dục của học sinh lớp mình phụ trách. Thực hiện đúng theo qui
trình đánh giá các mặt như qui định ở trên một cách công bằng, chính xác, khách
quan, công khai.
2-Sau khi được duyệt, tổ chức công bố kết quả
đánh giá, xếp loại cho học sinh và cha mẹ học sinh.
3-Tiếp nhận và giải quyết những khiếu nại của học
sinh về đánh giá, xếp loại trong phạm vi quyền hạn của mình báo cáo hiệu trưởng
những khiếu nại ngoài quyền hạn đã qui định. Thông báo kết quả giải quyết các
khiếu nại đó đến học sinh trong thời gian đã qui định.
4-Hoàn chỉnh việc ghi vào sổ điểm, học bạ học
sinh từng học kỳ, cả năm theo đúng qui định. Chú ý ghi cả kết quả thi lại và
rèn luyện về hạnh kiểm sau hè (nếu có)
II. Trách nhiệm của hiệu
trưởng.
1-Tổ chức học tập chu đáo thông tư này cho giáo
viên và học sinh.Phổ biến rộng rãi đến cha mẹ học sinh để cùng phối hợp giáo dục,
đến học sinh để học sinh tự đánh giá xếp loại và kiểm tra sự đánh giá và xếp loại
của nhà trường đối với mình.
2-Đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các chế độ
cho điểm, đánh giá xếp loại của giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm và các
giáo viên phụ trách từng việc được giao.
3-Chỉ đạo và tổ chức rút kinh nghiệm việc đánh
giá xếp loại để áp dụng thống nhất trong từng khối lớp và toàn trường.
4-Duyệt và chuẩn y các kết quả đánh giá, xếp loại
của các lớp, đôn đốc việc hoàn chỉnh sổ điểm học bạ.
5-Tổ chức việc thi lại và xếp loại về hạnh kiểm
của học sinh sau hè.
6-Xây dựng và đảm bảo quan hệ thông tin 2 chiều
giữa nhà trường và cha mẹ học sinh.
7-Tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại của học
sinh về đánh giá xếp loại thuộc phạm vi và quyền hạn của mình.
III- Trách nhiệm và quyền
được khiếu nại của học sinh.
1- Học sinh có trách nhiệm thực hiện tốt nhiệm vụ
học sinh, cố gắng rèn luyện theo tiêu chuẩn các mặt giáo dục để đạt kết quả
cao. Luôn khiêm tốn, tiếp thu sự giáo dục của thầy giáo, cô giáo, và tập thể lớp
tích cực giúp bạn cùng tiến bộ.
2-Học sinh có quyền được khiếu nại bằng lời hoặc
bằng đơn đến giáo viên chủ nhiệm, Hiệu trưởng nhà trường và các trên khi thấy
mình chưa được đánh giá xếp loại chính xác, công bằng.
Thông tư này được áp dụng từ năm học 1990-1991,
thay thế cho các thông tư và hướng dẫn đánh giá học sinh cấp II và cấp THPT Bộ
đã ban hành trước đây. Các cấp quản lý giáo dục có trách nhiệm phổ biến và tổ
chức các nhà trường trong địa phương mình thực hiện tốt thông tư này. Trong quá
trình thực hiện, nếu thấy cần phải điều chỉnh điều gì, các Sở giáo dục cần báo
cáo ngay để Bộ xem xét và giải quyết kịp thời.
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
THỨ TRƯỞNG
Lương Ngọc Toản