Tiểu Luận Luật Quốc tế và luật VN
Mục lục bài viết
Tiểu Luận Luật Quốc tế và luật VN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 : Tổng quan về luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
1.1. Cấu trúc hệ thống luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
1.1.1. Cấu trúc hệ thống luật quốc tế
1.1.2. Cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
1.2.1. Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam
Chương 2 : Mối quan hệ giữa luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
2.1. So sánh luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
2.2.1. Thuyết nhất nguyên luận và thuyết nhị nguyên luận
2.2.2. Ảnh hưởng của pháp luật Việt Nam đối với luật quốc tế
2.2.3. Tác động của luật quốc tế đối với pháp luật Việt Nam
Chương 3 : Vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam
3.1. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia và pháp luật Việt Nam
3.2. Vai trò của điều ước quốc tế trong các quan hệ pháp luật ở Việt Nam
3.3. Vị trí pháp lý của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam
3.4. Vấn đề áp dụng điều ước quốc tế của Việt Nam
3.5. Trình tự thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam
Chương 4 : Thực thi điều ước quốc tế ở Việt Nam
4.1. Cách thức áp dụng nội dung điều ước quốc tế vào thực tế pháp luật
4.1.1. Cơ sở pháp lý và thực tiễn
4.1.2. Các phương thức áp dụng nội dung điều ước quốc tế vào thực tế pháp luật
4.1.2.1. Áp dụng trực tiếp
4.1.2.2. Áp dụng gián tiếp
4.2. Pháp luật hiện hành của Việt Nam về thực thi điều ước quốc tế
4.3. Thực trạng thực thi các điều ước quốc tế ở Việt Nam
4.4. Mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi điều ước quốc tế ở Việt Nam
4.4.1. Mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi điều ước quốc tế
4.4.2. Vấn đề giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi điều ước quốc tế
4.5. Giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả việc thực thi điều ước quốc tế ở Việt Nam
4.5.1. Xử lý mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế trong quá trình bảo đảm thi hành các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia
4.5.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
4.5.3. Thiết lập một môi trường tốt để đảm bảo thực thi các điều ước quốc tế
KẾT LUẬN
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong thời đại hiện nay, khi mà quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và phát triển nhanh chóng thì các quốc gia trên thế giới không còn chỉ là những cá thể riêng biệt mà ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn thông qua rất nhiều các mối liên kết trên mọi lĩnh vực từ kinh tế – chính trị cho đến văn hóa – giáo dục,… Một quốc gia không thể nào tồn tại và phát triển theo cách riêng lẻ mà cần phải có sự quan hệ với các quốc gia khác trên toàn thế giới. Trong mối liên kết toàn cầu này, hành động hay quyết định của một quốc gia không chỉ mang tính chất nội bộ của quốc gia đó, mà còn ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Hay nói khác hơn, quan hệ hợp tác quốc tế không chỉ là nhu cầu nội tại thiết thực của bản thân mỗi quốc gia nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế – xã hội ở mỗi nước, mà còn là trách nhiệm và nghĩa vụ của các quốc gia xét dưới góc độ pháp luật quốc tế. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài mối quan hệ này.
Luật quốc tế và pháp luật Việt Nam có mối quan hệ biện chứng với nhau. Mối quan hệ giữa pháp luật Việt Nam và luật quốc tế là vấn đề lí luận truyền thống của luật quốc tế nhưng vẫn đồng thời mang tính thời sự sâu sắc đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện pháp luật.
Hiện nay tại Việt Nam, vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế thông qua việc giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế hiện đang có hiệu lực với Việt Nam và pháp luật Việt Nam cũng đang là vấn đề thời sự. Trong bối cảnh của công cuộc cải cách, mở cửa tại Việt Nam ngày nay, điều ước quốc tế trở thành công cụ pháp lý chủ yếu, điều chỉnh hiệu quả quan hệ hợp tác quốc tế toàn diện của Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới và các tổ chức quốc tế.
Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới và mở cửa cho đến nay, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào các hoạt động kinh tế, văn hóa , chính trị mang tầm vóc quốc tế. Trong quá trình này, Việt Nam đã kí kết rất nhiều điều ước quốc tế cả song phương lẫn đa phương. Đặc biệt, với sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tố chức thương mại thế giới WTO vào ngày 07 tháng 11 năm 2006, thì số lượng các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, gia nhập đã có sự gia tăng nhanh chóng. Do đó, trách nhiệm đặt ra cho Việt Nam là phải đảm bảo cho các điều ước quốc tế được thực thi một cách tốt nhất. Để làm được điều này, trước hết cần phải tạo ra sự hài hòa giữa pháp luật Việt Nam với luật pháp quốc tế, điều đó có nghĩa là phải làm rõ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai phạm trù pháp luật này. Đây là một trong những đề tài gây ra nhiều tranh luận nhất trong quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện nay.
Liên quan đến vấn đề trên, trong phạm vi của tiểu luận này sẽ trình bày về những vấn đề sau đây :
– Tổng quan về luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
– Mối quan hệ giữa luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
– Vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam
– Thực thi điều ước quốc tế ở Việt Nam
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 : Tổng quan về luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
1.1. Cấu trúc hệ thống luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
1.1.1. Cấu trúc hệ thống luật quốc tế
Xuất phát từ góc độ lý luận chung về pháp luật, có thể xem xét sự tồn tại của luật quốc tế, bao gồm một tổng thể các quy phạm luật quốc tế, có mối quan hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành và các chế định cụ thể, thông qua các hình thức pháp lý do các chủ thể luật quốc tế xây dựng, theo trình tự, thủ tục và những phương pháp nhất định. Sự tồn tại này gồm hai mặt của một chỉnh thể có tính thống nhất. Một là, hệ thống cấu trúc bên trong của luật quốc tế với các yếu tố sau :
– Các nguyên tắc như hệ thống nguyên tắc cơ bản, nguyên tắc pháp luật chung, nguyên tắc trong từng ngành hay từng chế định độc lập của luật quốc tế.
– Các quy phạm luật quốc tế được phân biệt căn cứ vào giá trị hiệu lực, nội dung hoặc hình thức thể hiện.
– Các ngành và chế định độc lập, như Luật biển quốc tế, Luật điều ước quốc tế, Luật hàng không quốc tế, Luật ngoại giao và lãnh sự,…
Hệ thống cấu trúc bên ngoài của luật quốc tế thể hiện sự tương thích với đặc thù quá trình hình thành và phương thức viện dẫn, áp dụng các loại nguồn của chủ thể quan hệ pháp luật quốc tế mà từ phương diện khoa học luật quốc tế, có thể phân biệt thành các nguồn có chứa đựng quy phạm luật quốc tế và những hình thức mang tính chất hỗ trợ cho việc xây dựng, áp dụng và thực hiện có hiệu quả luật quốc tế.[1]
1.1.2. Cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam
Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể hiện trong các văn bản do cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, thủ tục nhất định.
Hệ thống cấu trúc của pháp luật Việt Nam gồm có 3 thành tố cơ bản gồm :
– Quy phạm pháp luật (đơn vị cơ bản trong hệ thống cấu trúc)
– Chế định pháp luật (tập hợp các quy phạm pháp luật có cùng tính chất)
– Ngành luật (tập hợp các quy phạm pháp luật có đặc tính chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội).
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
1.2.1. Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia : Theo tuyên bố về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế hiện đại ngày 24/10/1970, mọi quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền trong quan hệ quốc tế, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế, không phân biệt chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội.[2]
Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế : Nguyên tắc này được gọi một cách đầy đủ là : “Nguyên tắc tất cả các quốc gia từ bỏ việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế của mình chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, hoặc là bất cứ cách thức nào khác không phù hợp với những mục đích của Liên hợp quốc.”[3] Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên hiệp quốc : “Tất cả các Thành viên từ bỏ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, hoặc bằng cách khác trái với những Mục đích của Liên Hiệp Quốc.”
Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng phương pháp hòa bình : Tại khoản 3 Điều 2 Hiến chương Liên hiệp quốc đã ghi nhận : “Tất cả các Thành viên giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình, theo cách không làm nguy hại đến hòa bình, an ninh quốc tế và công lý.” Đồng thời, tại khoản 1 Điều 33 Hiến chương Liên hiệp quốc cũng đã xây dựng hệ thống các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, cụ thể : “1. Các bên đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc tranh chấp ấy có thể đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải cố gắng tìm cách giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng những tổ chức hoặc những hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình.”[4]
Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác : Về phương diện pháp lý quốc tế, công việc nội bộ được hiểu là mọi công việc thuộc thẩm quyền giải quyết của một quốc gia, không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật quốc tế.[5] Do đó, không một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nào có quyền can thiệp, trực tiếp hay gián tiếp, bằng bất cứ biện pháp nào và với bất kỳ lý do nào, vào các công việc đối nội hoặc đối ngoại của một quốc gia khác.
Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau : Về nguyên tắc, hợp tác quốc tế là quyền và nhu cầu tất yêu của các quốc gia và các chủ thể khác của Luật quốc tế. Theo đó, các quốc gia có quyền tự do lựa chọn, thiết lập và thực hiện các quan hệ hợp tác quốc tế để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, trong xã hội quốc tế từ trước đến nay có rất nhiều lĩnh vực, nhiều mối quan hệ mà một quốc gia nào dù giàu mạnh đến đâu cũng không thể đơn phương giải quyết được như các vấn đề về chiến tranh, hòa bình; nhân quyền, môi trường, y tế, nhân đạo, thương mại quốc tế,… Chính vì vậy, tất cả các quốc gia phải cùng nhau hợp tác để giải quyết làm cho thế giới ngày càng tốt đẹp hơn. Điều đó có nghĩa là, các quốc gia phải có nghĩa vụ hợp tác với nhau trên tất cả các lĩnh vực vì lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp của cộng đồng quốc tế.[6]
Nguyên tắc dân tộc tự quyết : Vì quyền tự quyết của các dân tộc được long trọng ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp quốc, tất cả các dân tộc có quyền tự do quyết định chế độ chính trị và theo đuổi sự phát triển về kinh tế, xã hội và văn hóa của mình mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài: tất cả các quốc gia có nghĩa vụ phải tôn trọng quyền này, phù hợp với các điều khoản của Hiến chương Liên hợp quốc.[7]
Nguyên tắc Pacta sunt servan da (tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế) : Mỗi quốc gia phải có nghĩa vụ thực hiện một cách tận tâm, đầy đủ, thiện chí và trung thực các nghĩa vụ mà mình đã cam kết phù hợp với Hiến chương Liên hiệp quốc và Luật quốc tế hiện đại đó là các nghĩa vụ phát sinh từ Hiến chương Liên hiệp quốc ; từ các nguyên tắc và các quy phạm được thừa nhận rộng rãi của Luật quốc tế, từ các điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên; từ các tuyên bố đơn phương của quốc gia đưa ra. Các quốc gia không được viện dẫn những lý do không chính đáng để từ chối thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong điều ước như đất nước có biểu tình, thiên tai, sự thay đổi lãnh thổ, không phù hợp với pháp luật trong nước.[8]
1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam
Nguyên tắc tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân : Nguyên tắc này đòi hỏi nội dung của pháp luật cũng như hoạt động tổ chức thực hiện, áp dụng pháp luật phải thể hiện tính toàn quyền nhân dân, quán triệt tư tưởng nhân dân là chủ thể cao nhất của quyền lực nhà nước. Nguyên tắc này là tư tưởng xuyên suốt trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là Hiến pháp với tư cách là đạo luật cơ bản (Điều 2 HP 1992).
Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa : Pháp luật xã hội chủ nghĩa phải thể hiện các phương diện của nền dân chủ như mở rộng quyền tự do, dân chủ cho công dân; định ra những hình thức và biện pháp hữu hiệu để nhân dân tham gia quản lí các công việc của nhà nước; trừng trị nghiêm khắc những hành vi vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân. Mặt khác, pháp luật cần điều chỉnh chặt chẽ địa vị pháp lí của các thiết kế trong hệ thống chính trị, đặc biệt là nhà nước, xác lập mối quan hệ đúng đắn giữa các thiết chế đó, tạo điều kiện để chúng thực sự trở thành những thể chế của nền dân chủ.
Nguyên tắc nhân đạo : Thể hiện ở chỗ tất cả hệ thống pháp luật phải thấm nhuần sự quan tâm đối với con người. Con người là trung tâm của mọi đường lối chính sách và pháp luật. Nó không chỉ là phương tiện đảm bảo tính mạng, sức khoẻ của con người mà còn tạo ra mọi điều kiện để mỗi người tự mình xây dựng một cuộc sống hạnh phúc. Khi truy cứu trách nhiệm pháp lí, pháp luật không có mục đích gây đau khổ về mặt thể xác hoặc hạ thấp danh dự các nhân, mà mong muốn giáo dục con người trở về với cuộc sống lương thiện.
Nguyên tắc thống nhất giữa các quyền và nghĩa vụ : Nguyên tắc này xuất phát từ chỗ trong xã hội ta không thừa nhận đặc quyền của bất kì ai, không ai có đặc ân được hưởng nhiều quyền mà lại không phải thực hiện nghĩa vụ, Mặt khác, cũng không ai chỉ có thực hiện nghĩa vụ mà không hưởng quyền. Điều 51 Hiến pháp 1992 quy định : Quyền và nghĩa vụ công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Trong xây dựng pháp luật, khi xác định địa vị pháp lí của các chủ thể pháp luật, cần quán triệt tư tưởng: quyền phải đi đôi với nghĩa vụ, có quyền phải có nghĩa vụ và ngược lại, quyền và nghĩa vụ phải tương ứng, phù hợp với nhau. Nguyên tắc có ý nghĩa với tất cả mọi người, không kể giữ chức vụ nào, khi vi phạm pháp luật đều phải chụi trách nhiệm pháp lí.
Nguyên tắc công bằng : Đây là nguyên tắc bao trùm của pháp luật bởi pháp luật theo nghĩa chân chính và công lí. Công bằng xã hội là sự công bằng trong quan hệ của các thành viên xã hội mà tiêu chuẩn cơ bản của nó là lợi ích của con người. Trong phân phối sản phẩm, công bằng có nghĩa là tương quan hợp lí giữa một bên là hành vi của công dân, sự đóng góp công sức lao động của họ cho xã hội và một bên là thái độ, sự đối xử của xã hội. Trong cưỡng chế nhà nước, công bằng có nghĩa là chỉ phải chụi trách nhiệm pháp lí khi có lỗi, mức độ vi phạmvà mức độ trách nhiệm phải tương xứng nhau.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa : Nguyên tắc này đòi hỏi mọi chủ thể đều có trách nhiệm phải đưa những yêu cầu của pháp luật vào thực tế đời sống; phải xử sự phù hợp với pháp luật. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, bất cứ chủ thể nào có hành vi vi phạm pháp luật đều bị truy cứu trách nhiệm pháp lí.
Nguyên tắc tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật : Điều 146 HP 1992 quy định : Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản Nhà nước, có hiệu lực pháp lí cao nhất, mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Những đạo luật có hiệu lực thấp hơn Hiến pháp nhưng cao hơn những văn bản dưới luật.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội : Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức mà thông qua đó Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của nhà nước Việt Nam. Sự lãnh đạo đó đối với hoạt động của nhà nước nói chung và hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói riêng là nguyên tắc hiến định,được quy định rõ ràng trong hiến pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chương 2 : Mối quan hệ giữa luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
2.1. So sánh luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
Về đối tượng điều chỉnh : pháp luật Việ Nam điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong nội bộ phạm vi lãnh thổ Việt Nam; còn luật quốc tế điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống sinh hoạt quốc tế giữa các chủ thể của luật quốc tế.
Về chủ thể : chủ thể của pháp luật Việt Nam là thể nhân, pháp nhân và nhà nước tham gia với tư cách là chủ thể đặc biệt khi nhà nước là một bên trong quan hệ; còn chủ thể của luật quốc tế là các quốc gia có chủ quyền, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, các tổ chức liên chính phủ và các chủ thể khác.
Về trình tự xây dựng pháp luật : việc xây dựng pháp luật và trình tự xây dựng pháp luật của pháp luật Việt Nam do cơ quan lập pháp thực hiện; còn xây dựng và trình tự xây dựng pháp luật quốc tế vì không có cơ quan lập pháp nên khi xây dựng các quy phạm thành văn, bất thành văn chủ yếu do sự thỏa thuận giữa các chủ thể có chủ quyền quốc gia của luật quốc tế.
Về biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật : Việt Nam có bộ máy cưỡng chế tập trung thường trực như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù… làm biện pháp bảo đảm thi hành; còn pháp luật quốc tế thì không có bộ máy cưỡng chế tập trung mà chỉ có một số biện pháp cưỡng chế nhất định mang tính tự cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể.
Về phương pháp điều chỉnh : các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều phương pháp điều chỉnh khác nhau; còn các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế thì chỉ có một phương pháp điều chỉnh là sự thỏa thuận.
2.2 Mối quan hệ biện chứng giữa luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
2.2.1. Thuyết nhất nguyên luận và thuyết nhị nguyên luận
Trên thế giới có hai học thuyết chính về mối quan hệ giữa luật quốc tế với luật quốc gia là thuyết nhất nguyên luận và thuyết nhị nguyên luận. Có thể tóm tắt quan điểm của mỗi học thuyết này như sau :
– Thuyết nhất nguyên luận cho rằng hệ thống luật quốc tế và luật quốc gia hợp thành một hệ thống pháp luật duy nhất, trong đó luật quốc tế giữ vị trí tối cao (điều ước quốc tế hòa nhập vào nội luật). Các nước theo truyền thống luật châu Âu lục địa (civil law) theo trường phái này;
– Thuyết nhị nguyên luận cho rằng luật quốc tế và luật quốc gia là hai hệ thống pháp luật riêng biệt. Không thể viện dẫn một điều ước quốc tế trước Tòa án quốc gia, trừ khi điều ước đó đã được chuyển hóa vào nội luật bằng những quy định pháp luật trong nước cụ thể. Trường phái này được thừa nhận rộng rãi ở các nước theo hệ thống pháp luật án lệ (commun law) .
Ở Việt Nam, về phương diện khoa học luật chưa có sự thống nhất về vấn đề này. Còn về phương diện luật thực định, Hiến pháp năm 1992 và Pháp lệnh Ký kết và Thực hiện điều ước quốc tế năm 1998 cũng chưa làm sáng tỏ vấn đề vị trí của điều ước quốc tế so với các văn bản quy phạm pháp luật trong nước. Tuy nhiên, trong hầu hết các văn bản luật, pháp lệnh hiện hành của Việt Nam đều có điều khoản áp dụng điều ước quốc tế đại ý : “Trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của luật/pháp lệnh/nghị định này và các quy định của điều ước quốc tế về cùng một vấn đề, thì áp dụng các quy định của điều ước quốc tế đó”. Từ thực tiễn này cho phép rút ra hai nhận xét sau:
– Thứ nhất, Nhà nước Việt Nam đã và đang thực hiện nghiêm chỉnh Công ước Viên năm 1969 về điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Điều 26 và 27 Công ước đã đề ra nguyên tắc nghiêm chỉnh tuân thủ cam kết quốc tế (pacta sunt sevanda), tức là một khi quốc gia tự nguyện ràng buộc bởi một cam kết quốc tế thì cũng đồng nghĩa với việc quốc gia đó có trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh từ cam kết đó mà không được viện dẫn bất cứ lý do gì, kể cả lý do về pháp luật quốc gia để biện minh cho việc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ quốc tế đã cam kết;
– Thứ hai, bằng các quy định về áp dụng điều ước quốc tế như đã nói ở trên, Việt Nam đã chấp nhận quan điểm về tính ưu thế của pháp luật quốc tế so với pháp luật quốc gia. Đây cũng là quan điểm đang được thừa nhận rộng rãi trên thế giới hiện nay. Một số học giả cho rằng có vẻ như Việt Nam đang xích lại gần trường phái nhất nguyên luận. Tuy nhiên, còn quá sớm để khẳng định rằng Việt Nam chấp nhận quan điểm nhất nguyên luận, bởi lẽ dù thừa nhận tính ưu thế của pháp luật quốc tế so với pháp luật quốc gia, nhưng quan điểm chủ đạo hiện nay ở Việt Nam vẫn cho rằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống độc lập và có tác động qua lại lẫn nhau. Quan điểm này không phải là hoàn toàn không có cơ sở, bởi lẽ trong hệ thống pháp luật thực định của Việt Nam cũng chưa có bất kỳ một quy định nào cho phép hiểu một cách tường minh về việc pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống độc lập hay là chúng hòa làm một.
Mặc dù chưa có cơ sở để có thể khẳng định rằng Việt Nam chấp nhận trường phái nhất nguyên hoặc nhị nguyên, song dựa vào việc Việt Nam chấp nhận quan điểm về tính ưu thế của pháp luật quốc tế so với pháp luật quốc gia (luật/pháp lệnh), có thể cho phép nhận xét là Việt Nam đã coi điều ước quốc tế có vị trí cao hơn luật. Quan điểm này cũng đã được tái khẳng định một cách rõ ràng tại Điều 4 dự thảo Luật Điều ước quốc tế.
2.2.2. Ảnh hưởng của pháp luật Việt Nam đối với luật quốc tế
Pháp luật quốc tế được xây dựng bởi các quy phạm trong điều ước quốc tế, mà điều ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các quốc gia, mà mỗi quốc gia có quan điểm pháp luật riêng của mình, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Do vậy, pháp luật Việt Nam có ảnh hưởng tới sự phát triển của pháp luật quốc tế. Sự ảnh hưởng này mang tính xuất pháp điểm.
– Việc thừa nhận tính chất xuất phát điểm này không có nghĩa là thừa nhận pháp luật trong nước có giá trị ưu tiên hơn pháp luật quốc tế, mà có nghĩa là trong quá trình xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế, các quốc gia (bao gồm cả Việt Nam) trước hết phải xuất phát từ những nguyên tắc và quy phạm của pháp luật trong nước. Đồng thời, các quốc gia (trong đó có Việt Nam) cần phải tránh ký kết các điều ước quốc tế trái với pháp luật trong nước hoặc khi thực hiện đòi hỏi phải có những thay đổi lớn trong pháp luật của nước mình.
Luật quốc tế thể hiện nội dung của pháp luật trong nước. Khi tham gia vào quá trình xây dựng các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế, các quốc gia (trong đó có Việt Nam) bao giờ cũng muốn thể hiện quan điểm, đường lối chính sách cũng như các nội dung trong pháp luật nước mình, đặc biệt khi đề cập đến vấn đề mà pháp luật trong nước điều chỉnh.
Ngoài ra, pháp luật trong nước còn đóng vai trò là phương tiện để thực hiện luật quốc tế.[9]
2.2.3. Tác động của luật quốc tế đối với pháp luật Việt Nam
Ảnh hưởng ngược trở lại của luật quốc tế đến pháp luật Việt Nam cũng có vai trò quan trọng và mang tính chất thúc đẩy sự phát triển, hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Là kết quả của sự thỏa thuận giữa các quốc gia (trong đó có Việt Nam), luật quốc tế thể hiện rất nhiều sự tiến bộ, nhiều thành tựu mới của khoa học pháp lý hiện đại.
Do yêu cầu cần có sự hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới (Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ) ngày càng cao nên đã có sự ảnh hưởng của luật quốc tế đến pháp luật trong nước. Trong pháp luật quốc nội của các quốc gia đã có sự xuất hiện những quy phạm mới sửa đổi hoặc hủy bỏ những quy phạm hiện hành không phù hợp với những điều ước quốc tế mà mình tham gia.
Luật quốc tế hướng pháp luật quốc gia (trong đó có pháp luật Việt Nam) phát triển theo chiều hướng tiến bộ, nhân đạo, đặc biệt luật quốc tế còn là công cụ để thực hiện chính sách đối ngoại của các quốc gia (trong đó có Việt Nam).[10]
Chương 3 : Vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam
3.1. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia và pháp luật Việt Nam
Nhìn tổng thể hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam có thể thấy rằng pháp luật Việt Nam thừa nhận ưu thế của các quy phạm điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia bên cạnh quy phạm pháp luật trong nước.[11] Sự thừa nhận này thể hiện ở hầu hết các bộ luật mà Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành (như Luật Hình sự, Luật Hàng không, Luật Dân sự, Luật Quốc tịch,…). Cụ thể trong khoản 1 Điều 6 Luật ký kết gia nhập và thực hiện quốc tế quy định[12] “Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế”.
Cụ thể hơn, Cho tới nay nước ta đã ký được hơn 1000 điều ước quốc tế song phương và là thành viên của gần 200 điều ước quốc tế đa phương. Ngày 10/10/2001 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế. Điều 26 Phần III Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế năm 1969 quy định nguyên tắc Pacta sunt servanda như sau : “Mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia điều ước và phải được các bên thi hành với thiện ý”. Đồng thời, Công ước Viên cũng đã xác định mối quan hệ giữa pháp luật trong nước và việc tôn trọng các điều ước quốc tế mà quốc gia đã cam kết, như sau : “Một bên kết ước không thế viện những quy định của pháp luật trong nước của mình làm lý do để không thi hành một điều ước mà mình đã cam kết”[13]. Việt Nam cũng đã ban hành Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Điều 24 Pháp lệnh Ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998 của Việt Nam cũng đã quy định nguyên tắc tuân thủ điều ước quốc tế (Pacta sunt servanda) như sau : “Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nghiêm chỉnh tuân thủ điều ước quốc tế mà mình đã ký kết là thành viên của Công ước Viên 1969, Việt Nam cam kết thực thi những “điều ước quốc tế được ký kết trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thố quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế và các quy định của Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh về ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế). Nhìn tổng thể vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam đều được ghi nhận bằng một công thức chung nhất đó là : trong trường hợp điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của luật (Bộ luật, Pháp lệnh, Nghị định) này, thì áp dụng các quy định của điều ước quốc tế ( Khoản 2 Điều 795 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 3 Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997; Khoản 2 Điều 7 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; Khoản 2 Điều 2 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000; Điều 5 Luật Hải quan năm 2001; Điều 5 Luật Thương mại năm 2005; Điều 8 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003; v.v…). Như vậy, Việt Nam đã chấp nhận quan điểm về giá trị ưu thế của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia so với pháp luật trong nước và coi điều ước quốc tế là một bộ phận cấu thành của pháp luật Việt Nam, và về phương diện hiệu lực thi hành, điều ước quốc tế giữ vị trí thứ hai sau các quy định của hiến pháp và trước các quy định của bộ luật.
3.2. Vai trò của điều ước quốc tế trong các quan hệ pháp luật ở Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay, điều ước quốc tế là một trong những công cụ hiệu quả nhất mà các quốc gia có thể sử dụng để thiết lập các quan hệ đối ngoại. Chính vì thế, trong pháp luật các nước nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng, điều ước quốc tế đóng một vai trò quan trọng và thường được ưu tiên áp dụng trong trường hợp xảy ra xung đột giữa các quy định của văn bản quy phạm pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về cùng một vấn đề. Ngay từ cuối những năm 80 của thế kỉ trước, nguyên tắc ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế so với nội luật đã được chính thức ghi nhận trong một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đối ngoại của nước ta. Dần dần, nó đã trở thành nội dung không thể thiếu trong các văn bản quy phạm pháp luật ở tất cả các cấp độ luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật. Gần đây nhất, tại Khoản 1 Điều 6 của Luật Kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 có quy định : “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế”. Từ đây có thể hiểu “trong một chừng mực nhất định nào đó, Việt Nam thừa nhận luật pháp quốc tế như một nguồn luật nằm ngoài hệ thống pháp luật quốc gia, được ưu tiên bổ sung cho pháp luật quốc gia để giải quyết các vấn đề phát sinh trong tiến trình hội nhập, nhằm đảm bảo chuẩn mực quốc tế vẫn được tôn trọng một khi pháp luật quốc gia chưa thể tiếp cận pháp luật quốc tế”[14]. Điều này đã được tái khẳng định trong báo cáo của Bộ ngoại giao về dự thảo Luật kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế : một trong những “mục tiêu quan trọng trong Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010” là phải gắn kết được kế hoạch kí kết, gia nhập điều ước quốc tế với chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhằm có được một hệ thống pháp luật thống nhất, phát triển[15].
3.3. Vị trí pháp lý của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ ràng về việc điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có vị trí như thế nào trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong nước. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 : “Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.” Do đó, các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia sẽ được thực thi kể cả trong trường hợp pháp luật Việt Nam còn chưa quy định đầy đủ… Từ quy định này, có quan điểm cho rằng điều ước quốc tế có vị trí sau Hiến pháp, trên các văn bản luật, pháp lệnh.
Bên cạnh đó, năm 2001 Việt Nam cũng đã gia nhập Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước quốc tế. Điều 26 Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969 quy định nguyên tắc Pacta sunt servand quy định : “mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia điều ước và phải được các bên thi hành với thiện ý”. Nguyên tắc này đã được chuyển hoá vào quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 : “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”[16].
Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam cũng đều thấy rõ giá trị ưu thế của điều ước quốc tế, chẳng hạn :
– Theo Khoản 2 Điều 759 Bộ luật dân sự năm 2005 : “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Bộ luật này, thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.”
– Theo Khoản 2 Điều 2 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em : “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.”
– Theo Điều 3 Luật di sản văn hoá : “Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam; trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.”
Có thể thấy rõ công thức chung được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam là nếu pháp luật trong nước (từ luật trở xuống) có quy định khác hoặc trái với điều ước quốc tế về quyền con người mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gia nhập, thì điều ước quốc tế có giá trị ưu tiên áp dụng. Từ đó cho thấy, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có giá trị pháp lý ưu tiên hơn so với pháp luật trong nước.
3.4. Vấn đề áp dụng điều ước quốc tế của Việt Nam
Khoản 3 Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 quy định Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước để thực hiện điều ước quốc tế đó. Quy định này thể hiện Việt Nam chấp nhận cả hai phương pháp thực hiện điều ước quốc tế : áp dụng trực tiếp và chuyển hoá điều ước vào văn bản quy phạm pháp luật quốc nội.
Một ví dụ điển hình là việc Quốc hội ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 về việc Phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó quyết định : “2. Áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam được ghi tại Phụ lục đính kèm Nghị quyết này và các cam kết khác của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới. Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp dụng quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm.”
3.5. Trình tự thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam
Khi đề cập đến trình tự thực hiện điều ước quốc tế, vấn đề quan trọng đặt ra đối với Việt Nam là làm cách nào để bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ điều ước. Trên cơ sở quy định tại Chương VI của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, có thể nêu lên một số nội dung quan trọng sau đây liên quan đến trình tự thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam, phù hợp với nguyên tắc Pacta sunt servanda như sau :
– Theo quy định tại Điều 71 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế bao gồm những nội dung sau đây : Lộ trình thực hiện điều ước quốc tế; Dự kiến phân công trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tổ chức thực hiện điều ước quốc tế; Kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế; Các biện pháp tổ chức, quản lý, tài chính và các biện pháp cần thiết khác để thực hiện điều ước quốc tế; Tuyên truyền, phổ biến điều ước quốc tế. Việc thực hiện các điều ước quốc tế trước hết phải xuất phát từ đặc điểm tình hình, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển. Do đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đề ra tiến trình, các biện pháp tổ chức thực hiện điều ước trong từng giai đoạn, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Đồng thời, phải hoàn thiện cơ chế quản lý việc thực hiện điều ước, quản lý nguồn tài chính, kể cả nhũng đóng góp, tài trợ quốc tế cho việc thực hiện điều ước quốc tế cũng phải được vạch ra một cách cụ thể.
– Xác định cơ quan có trách nhiệm thực hiện điều ước quốc tế. Nghĩa vụ thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người, trước hết là thuộc về Nhà nước. Nhưng trong bộ máy nhà nước, nghĩa vụ này chủ yếu thuộc về các Bộ, ngành, cơ quan trung ương và chính quyền địa phương các cấp. Trong phạm vi, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, các Bộ, ngành và các cấp chính quyền có trách nhiệm đề ra kế hoạch cụ thể và biện pháp bảo đảm khả thi các cam kết mà Việt Nam đưa ra trong điều ước quốc tế. Việc thực hiện từng loại điều ước lại phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi Bộ, ngành. Trong trường hợp phát sinh khó khăn, bất cập, các Bộ, ngành, cơ quan trung ương cần phối hợp với Bộ Ngoại giao kiến nghị Chính phủ những biện pháp cần thiết để khắc phục, nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế phát sinh trên cơ sở điều ước. Đồng thời, hàng năm và khi có yêu cầu, các Bộ, ngành có trách nhiệm phối hợp với Bộ Ngoại giao báo cáo Chính phủ, Chủ tịch nước về tình hình thực hiện điều ước quốc tế trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của ngành. Nghĩa vụ phối hợp thực hiện điều ước quốc tế đòi hỏi chung đối với tất cả các Bộ, ngành, cơ quan nhà nước ở trung ương và các cấp chính quyền địa phương; không một Bộ, ngành hoặc cơ quan nhà nước nào có thế đứng ngoài nghĩa vụ này.
Qua phân tích pháp luật Việt Nam, có thể kết luận các điều ước quốc tế đã được Việt Nam ký kết và gia nhập thì có hiệu lực pháp lý bắt buộc và được nhà nước đảm bảo thực hiện ngay cả trong trường hợp điều ước quốc tế đó có quy định trái với quy định của pháp luật trong nước. Bằng việc “nội luật hoá” các quy định của điều ước quốc tế, thì ở những mức độ khác nhau, đã có thể coi các quy định của điều ước quốc tế đó là một bộ phận cấu thành của pháp luật trong nước. Chính vì thế, điều ước quốc tế giữ vị trí đặc biệt trong hệ thống các quy phạm pháp luật quốc gia của Việt Nam.
Chương 4 : Thực thi điều ước quốc tế ở Việt Nam
4.1. Cách thức áp dụng nội dung điều ước quốc tế vào thực tế pháp luật
4.1.1. Cơ sở pháp lý và thực tiễn
Nghĩa vụ chuyển hoá các quy định của điều ước quốc tế nói chung và điều ước quốc tế về nhân quyền nói riêng đã được ghi nhận trong bản thân các công ước mà Việt Nam là thành viên cũng như pháp luật về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế trong nước.
Khác với nhiều nước, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) không quy định về việc chuyển hoá điều ước quốc tế mà Việt Nam là một bên ký kết vào pháp luật trong nước. Tuy nhiên, vấn đề này đã được quy định cụ thể trong Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005.
Khoản 3 Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 quy định : “Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết đinh chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.”
4.1.2. Các phương thức áp dụng nội dung điều ước quốc tế vào thực tế pháp luật
Việc nội luật hoá (hay chuyển hoá điều ước quốc tế) được thực hiện theo các phương thức phố biến sau :
Sửa đổi, bổ sung, ban hành pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện điều ước quốc tế. Theo quy định tại khoản 10 Điều 14 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, cơ quan đề xuất ký kết có trách nhiệm kiến nghị về việc áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế hoặc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đế thực hiện điều ước quốc tế.
Như vậy, để thực hiện nghĩa vụ pháp lý quốc tế phát sinh từ điều ước quốc tế mà cần phải sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành, thì cơ quan đề xuất việc ký kết điều ước quốc tế phải chủ động phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc này.
Trong công tác xây dựng pháp luật, theo quy định tại Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, một trong những nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới là phải “không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.” Đây cũng là một biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý quốc tế phát sinh từ điều ước quốc tế được tuân thủ nghiêm túc tại Việt Nam
Tiến hành chuyển hoá quy phạm của điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước. Nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mật thiết đến vấn đề chuyển hoá (nội luật hoá) các điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước. Mục đích cơ bản của vấn đề chuyến hoá là bảo đảm thuận lợi cho việc thực hiện các điều ước quốc tế.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam khẳng định thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ phát sinh từ điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Trong bộ máy nhà nước, Chính phủ có trách nhiệm chỉ đạo các Bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là một bên ký kết. Như vậy, nhận thức về nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế đã đạt được sự thống nhất cao, được thể chế hoá thành pháp luật, tạo cơ sở thuận lợi cho việc chỉ đạo của Chính phủ và việc thực hiện của các cơ quan nhà nước.
Xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, Nhà nước của mỗi quốc gia là thành viên của điều ước quốc tế đều có quyền hạn và trách nhiệm xác định cách thức thực thi các điều khoản của điều ước quốc tế trong phạm vi quyền lực pháp lý của mình. Hành vi này được các chuyên gia về luật quốc tế gọi là “chuyển hóa điều ước quốc tế vào luật quốc gia” (với các tên gọi khác nhau: “incorporation”, “transformation”, “reception”)[17]. Thực tế thực thi điều ước quốc tế tại các quốc gia hiện nay thường tồn tại hai cách thức chuyển hóa điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia : chuyển hóa trực tiếp và chuyển hóa gián tiếp.
Trong pháp luật Việt Nam, tại Khoản 3 Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT 2005 có quy định : “Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.”
Từ quy định này có thể thấy pháp luật Việt Nam thừa nhận hai cách thức áp dụng điều ước quốc tế vào thực tiễn pháp luật đó là : áp dụng trực tiếp và áp dụng gián tiếp.
4.1.2.1. Áp dụng trực tiếp
Áp dụng trực tiếp có nghĩa là khi điều ước quốc tế đã được ký kết và có hiệu lực thì mọi cá nhân, tổ chức là đối tượng điều chỉnh của điều ước đó đều có nghĩa vụ thi hành và công dân hoàn toàn có thể viện dẫn các quy định của điều ước quốc tế đó trước Tòa án để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Đây là cách thức thực thi điều ước quốc tế được áp dụng rộng rãi trong pháp luật các nước trên thế giới từ giữa thế kỉ XX. Nhưng cho đến nay hãy còn khá mới mẻ đối với pháp luật Việt Nam. Sở dĩ như vậy bởi lâu nay tâm lí chung của cả các cơ quan hữu quan và người dân Việt Nam thường hiểu chưa đúng rằng pháp luật chỉ bao gồm các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành chứ không bao gồm cả các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đây là hệ quả của công tác tuyên truyền các điều ước quốc tế còn chưa thực sự sâu rộng.
Tuy nhiên trong thực tiễn cũng đã có một số quy định của điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp vào đời sống pháp luật. Chẳng hạn như trong Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO đã liệt kê các quy định liên quan đến nội dung cam kết được áp dụng trực tiếp của Việt Nam là : Luật doanh nghiệp, Luật luật sư, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh. Hoặc Hiệp định về thuế chẳng hạn, đây là loại hiệp định luôn có hiệu lực cao hơn nội luật và được áp dụng trực tiếp, bởi lẽ có hay không có hành vi chuyển hóa hầu như không có ý nghĩa thực tế trong trường hợp áp dụng mức thuế đã cam kết giữa các quốc gia.
4.1.2.2. Áp dụng gián tiếp
Áp dụng gián tiếp là việc quốc gia thành viên ban hành một đạo luật để chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế vào nội luật. Trường hợp này xảy ra khi nội dung của ĐƯQT chưa đủ cụ thể, rõ ràng để có thể áp dụng trực tiếp vào thực tiễn pháp luật hoặc nội dụng điều ước đó có điều khoản trái hoặc chưa được quy định trong Hiến pháp.
Cách thức này đã được tiến hành để chuyển hóa một số điều ước về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự trong pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam; chuyển hóa nội dung Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) vào trong Luật Bình đẳng giới. Nhiều quy định của các điều ước quốc tế khác cũng đã được chuyển hóa thành các quy định trong các đạo luật của Việt Nam, nhất là từ khi chúng ta gia nhập WTO như: Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật cạnh tranh, Luật thương mại… có nhiều quy định tương thích với các quy định của Công ước BERN về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật, Công ước Paris về bảo hộ sở hũu công nghiệp; Pháp lệnh về công nhận và thi hành của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam hài hòa với các quy tắc của Công ước New York năm 1958…
Nếu như trước kia, việc chuyển hóa điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia còn chưa được quy định cụ thể, thì với việc Quốc hội thông qua Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, vấn đề áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế vào đời sống pháp luật đã chính thức được thừa nhận. Theo đó, trong trường hợp nội dung của điều ước quốc tế đã cụ thể, rõ ràng, Nhà nước sẽ không cần phải thực hiện các thủ tục chuyển hóa điều ước quốc tế bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật truyền thống vừa phức tạp, vừa tốn kém, mà chỉ cần ra quyết định thừa nhận toàn bộ hoặc một phần nội dung của điều ước quốc tế đó để nội dung điều ước có thể đi vào thời kỳ thực hành. Điều này hứa hẹn đem đến những biến chuyển to lớn cho công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của nước nhà trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng như hiện nay.
4.2. Pháp luật hiện hành của Việt Nam về thực thi điều ước quốc tế Hiến pháp năm 1992
Các bộ luật, luật (Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hàng Hải, Bộ luật Lao động, Luật khoáng sản…), Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005. Trong luật này có 1 chương gồm 4 mục, 26 điều (từ Điều 71 đến Điều 96) quy định về các hoạt động của quá trình thực thi các điều ước quốc tế bao gồm lên kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế, giải thích, sửa đổi bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế.
Các văn bản dưới luật (Nghị định, Thông tư…) ví dụ: Nghị định số 26/2008/NĐ- CP về sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác điều ước quốc tế và công tác thỏa thuận quốc tế, Chỉ thị số 14/CT-TTg về các biện pháp tăng cường kiểm tra, đôn đốc, thực hiện các điều ước quốc tế trong lĩnh vực kinh tế – thương mại; Thông tư 65/2008/TT-BTC hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác điều ước quốc tế và công tác thỏa thuận quốc tế, Quyết định số 06/2006/QĐ-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành quy chế thẩm định điều ước quốc tế.
4.3. Thực trạng thực thi các điều ước quốc tế ở Việt Nam
Những thành công :
Việt Nam đã thực hiện tốt việc chuyển hóa các điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia.
Việt Nam đã tích cực tổ chức và tham gia vào các dự án tăng cường hiệu quả thực thi điều ước quốc tế.
Việt Nam thực hiện đầy đủ việc báo cáo với các tổ chức quốc tế về tình hình thực hiện điều ước quốc tế ở Việt Nam theo đúng quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Việt Nam từng bước thực hiện việc tuyên truyền phổ biến các điều ước quốc tế và vai trò của việc thực hiện nghiêm minh các điều ước quốc tế mà chúng ta là thành viên tới các cá nhân, tổ chức đặc biệt là những chủ thể tham gia trực tiếp vào việc thực thi các điều ước quốc tế.
Việt Nam đã quan tâm thích đáng bằng hình thức khen thưởng và xử lý kỷ luật, xử phạt đối với những cá nhân, tổ chức có đóng góp và có những hành vi chống đối lại việc các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã là thành viên.
Những hạn chế :
Các hạn chế trong công đoạn trước khi điều ước quốc tế có hiệu lực ở Việt Nam :
– Về việc chuẩn bị dự thảo điều ước quốc tế song phương.
– Việc đánh giá tính hợp hiến của các điều ước quốc tế.
– Việc lấy ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp trước khi ký điều ước quốc tế.
– Về việc nộp lưu chuyển bản gốc điều ước quốc tế cho Bộ Ngoại giao.
– Về việc công bố Điều ước quốc tế trên công báo.
– Việc thực hiện trách nhiệm báo cáo hàng năm về tình hình ký kết và thực hiện điều ước quốc tế.
– Về thực hiện điều ước quốc tế nhiều bên.
Các hạn chế trong công tác triển khai thực hiện các điều ước quốc tế sau khi điều ước quốc tế đã có hiệu lực tại Việt Nam :
– Cơ sở pháp lý : Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay không đủ căn cứ để các cá nhân, tổ chức dựa vào đó để áp dụng cho việc thực thi các điều ước quốc tế.
– Cơ chế bảo đảm thực thi điều ước quốc tế chưa hiệu quả.
– Nhận thức của cán bộ, công chức còn hạn chế.
– Sự tham gia của các cơ quan thông tin đại chúng trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến các điều ước quốc tế còn nhiều hạn chế.
– Sự thiếu hụt các nguồn vật chất bảo đảm cho việc thực thi các điều ước quốc tế.
4.4. Mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi điều ước quốc tế ở Việt Nam
4.4.1. Mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi điều ước quốc tế
Để đi đến ký kết một điều ước quốc tế, Bộ Tư pháp đã phải tiến hành một quy trình thẩm định kỹ lưỡng về tính hợp hiến, mức độ tương thích các quy định pháp luật trong nước… Nhưng khi nội dung của điều ước được thi hành trong thực tiễn thì hoàn toàn vẫn có thế xảy ra mâu thuẫn giữa quy định của hai hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế. Thực tế này có thể là do tình trạng văn bản hướng dẫn thi hành có nội dung không thống nhất với văn bản được hướng dẫn dẫn đến làm vô hiệu hóa luật[18]. Thực trạng này thậm chí còn xảy ra ở cả các văn bản pháp luật trong nước. Nguyên nhân thứ hai có thể dẫn ra ở đây đó là trong quá trình giải thích luật mới phát hiện ra các mâu thuẫn có thể có nhưng chưa phát hiện được trong quá trình thẩm tra, phê duyệt[19].
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam hoàn toàn có nguy cơ phải đối mặt với các điều ước quốc tế có nội dung trái Hiến pháp. Mà theo quy định của pháp luật Việt Nam thì nội dung điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết phải “phù hợp với các quy định của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam”[20]. Theo đó, có thể hiểu, pháp luật Việt Nam không chấp nhận những điều khoản trong các điều ước có nội dung trái với Hiến pháp. Điều này xét về một phương diện nào đó hoàn toàn không có lợi cho các quan hệ ngoại giao của Việt Nam . Như vậy đòi hỏi chúng ta cần phải có cách xử lí khéo kéo cho vấn đề này để đảm bảo được các quyền tự chủ và dân tộc tự quyết mà vẫn thể hiện được chủ trương hội nhập quốc tế “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”.[21]
4.2.2. Vấn đề giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi điều ước quốc tế
Về vấn đề giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi điều ước quốc tế, trong pháp luật Việt Nam hiện nay mới chỉ có quy định : “Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế”[22]. Từ đây có thể đưa ra phương thức xử lí những điểm chưa thống nhất giữa điều ước quốc tế và các văn bản luật trong nước : để thực hiện điều khoản trái hoặc chưa được quy định trong nội luật thì có thể áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế đó mà không cần chuyển hóa nội dung điều ước vào pháp luật trong nước hoặc sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước cho phù hợp sau khi điều ước quốc tế có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên chỉ với quy định này thì chúng ta hãy còn bỏ ngỏ việc giải quyết mâu thuẫn phát sinh giữa điều ước quốc tế và Hiến pháp. Một số nước, trong đó tiêu biếu là Cộng hòa Pháp, đã đưa ra cách giải quyết tương đối linh hoạt cho vấn đề này : tiến hành sửa đổi Hiến pháp cho phù hợp với nội dung điều ước quốc tế mà Nhà nước tham gia kết ước[23]. Vậy nên chăng, ở Việt Nam, pháp luật cho phép đưa vào nội dung của điều ước những điều khoản có nội dung trái với Hiến pháp nhưng trước khi chấp nhận ràng buộc thì phải tiến hành sửa đổi Hiến pháp ? Bởi cần phải lưu ý rằng : pháp luật quốc gia vẫn trong quá trình tiếp cận với luật pháp quốc tế, những quy định trong nội luật chưa hẳn lúc nào cũng là tối ưu, nhất là trong khi tình hình thế giới biến đổi không phải từng ngày mà từng giờ.
Bên cạnh giải pháp tình thế được đưa ra khi “việc đã rồi” như trên, về lâu dài, chúng ta cần tăng cường hơn nữa công tác chủ động nghiên cứu, phân tích điều ước quốc tế để xây có thể xây dựng các quy phạm pháp luật trên cơ sở tính đến điều ước quốc tế mà Việt Nam sắp hoặc có thể trở thành thành viên trong tương lai. Mong rằng Việt Nam sẽ sớm có được một hệ thống pháp luật tương đối phù hợp với chuẩn luật pháp quốc tế.
4.5. Giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả việc thực thi điều ước quốc tế ở Việt Nam
4.5.1. Xử lý mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế trong quá trình bảo đảm thi hành các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia
Mặc dù đã được khẳng định trong các văn bản của pháp luật về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế với hệ thống pháp luật quốc gia nhưng một vấn đề đặt ra mà chúng ta cần phải giải quyết đó là xử lý với các điều ước quốc tế trái với quy định của Hiến pháp. Đây là điều kiện tiền đề để đảm bảo thực thi các điều ước quốc tế có hiệuquả.
4.5.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về việc thực thi điều ước quốc tế.
Cần minh bạch hệ thống các văn bản pháp lý có cácquy định về những lĩnh vực mà các điều ước quốc tế tác động đến.
4.5.3. Thiết lập một môi trường tốt để đảm bảo thực thi các điều ước quốc tế
Chúng ta cần phải kiện toàn, củng cố bộ máy có chức năng thực hiện điều ước quốc tế (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án).
Cần phải có biện pháp xử lý nghiêm minh với các hành vi vi phạm điều ước quốc tế.
Cần phải có những bảo đảm cần thiết để điều ước quốc tế được thực hiện tại Việt Nam. Các yếu tố bảo đảm có thể tính đến :
– Bảo đảm về chính trị : Ngay từ khi hoạch định việc ký kết, phê chuẩn, gia nhập các điều ước quốc tế, chúng ta phảitính đến tính khả thi của các điều ước quốc tế đó.
– Bảo đảm về pháp lý : Đi đối với việc thể chế hóa các điều ước quốc tế, chúng ta cần phải tiến hành việc rà soát lại cả hệ thống pháo luật đồng bộ, tương ứng và sâu rộng giữa điều ước quốc tế với pháp luật trong nước.
– Bảo đảm về tổ chức : Song song với việc bảo đảm kiện toàn các cơ quan tổ chức, đơn vị phải đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên gia để nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng các điều ước quốc tế song phương, đa phương phù hợp với thông lệ quốc tế.
– Bảo đảm tuyên truyền cho các doanh nghiệp, các cá nhân hiểu biết về điều ước quốc tế, từ đó có sự nhìn nhận đúng và thấy được tầm quan trọng của việc thực thi điều ước quốc tế đối với ảnh hưởng của quốc gia cũng như với ảnh hưởng của bản thân các doanh nghiệp, cá nhân mình.
Tăng cường mở rộng các cuộc hội thảo, các dự án để nâng cao nhận thức các cơ quan, tổ chức, cá nhân về các điều ước quốc tế.
KẾT LUẬN
Theo xu thế phát triển của quan hệ quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay thì các quốc gia trên thế giới đang ngày càng xích lại gần nhau hơn. Do đó, nhu cầu tất yếu của các quốc gia là phải cùng nhau hợp tác để xây dựng một hệ thống pháp luật quốc tế tiến bộ, hiện đại và vì lợi ích chung của cả cộng đồng quốc tế. Đề thực hiện được điều này, các quốc gia nên tiến hành kí kết các điều ước quốc tế nhằm thiết lập các tiêu chuẩn và nguyên tắc mới trong tất cả các lĩnh vực của quan hệ quốc tế trên cơ sở tự nguyện và bình đắng về chủ quyền của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung hay pháp luật trong hội nhập kinh tế nói riêng thì vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp và chậm đi vào cuộc sống. Trong khi đó, pháp luật trong lĩnh vực hội nhập kinh tế lại chậm được sửa đổi, bổ sung, có thể nói là quá lạc hậu, khập khiễng và có độ chênh quá nhiều so với các công ước quốc tế, các quy chế của các tố chức kinh tế quốc tế…
Do đó, việc hoàn thiện hơn nữa pháp luật, trong đó đặc biệt chú trọng đến nội luật hoá các cam kết là yêu cầu tất yếu. Trong quá trình này, việc xử lý xung đột pháp luật là điều cần thiết để đảm bảo sự hài hoà từng bước giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế, bảo vệ được lợi ích của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tóm lại, xét một cách tổng thể thì sẽ rất khó để có thể đưa ra được một quan điểm nào hoàn toàn thỏa đáng về các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam trong thời điểm hiện nay, khi mà pháp luật Việt Nam còn chưa thực sự có được những quy định cụ thể, rõ ràng về vấn đề này, và vẫn còn nhiều tranh cãi chưa thể đi đến thống nhất trong ngày một ngày hai. Bởi cả hai hệ thống pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế đều là những thực thể động, không ngừng thay đổi để bắt nhịp với sự phát triển của đời sống xã hội. Do vậy, việc xác định và giải quyết mối quan hệ giữa hai hệ thống pháp luật này là một quá trình lâu dài và sẽ không bao giờ hết tính thời sự.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
Giáo trình Luật quốc tế, trường Đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản Công an nhân dân 2008.
-
Tập bài giảng Khái luận chung về Luật quốc tế, khoa Luật quốc tế, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm học 2009-2010
-
Báo cáo của Bộ ngoại giao (tháng 5/2004) : Tổng kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh về kí kết và thực hiện ĐƯQT (1998 – 2003)
-
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006
-
Hoàng Ngọc Giao, Bàn về thực thi điều ước quốc tế, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2005
-
TS. Lê Thành Long, Đảm bảo sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế ở Việt Nam, Hội nghị khoa học về tính thống nhất của hệ thống pháp luật (31/8 – 1/9/2006)
-
Trần Văn Thắng và Lê Mai Anh, Luật quốc tế – lý luận và thực tiễn, nhà xuất bản Giáo dục năm 2001
-
Bùi Ngọc Toàn, Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 02(69), tháng 2/2006
[1]. Giáo trình Luật quốc tế, trường Đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản Công an nhân dân 2008, tr. 34-35
[2]. Tập bài giảng Khái luận chung về Luật quốc tế, khoa Luật quốc tế, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm học 2009-2010, tr. 75
[3]. Nghị quyết 2625 (XXV) của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 24/10/1970
[4]. Tập bài giảng Khái luận chung về Luật quốc tế, khoa Luật quốc tế, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm học 2009-2010, tr. 86
[5]. Tập bài giảng Khái luận chung về Luật quốc tế, khoa Luật quốc tế, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm học 2009-2010, tr. 88
[6]. Tập bài giảng Khái luận chung về Luật quốc tế, khoa Luật quốc tế, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm học 2009-2010, tr. 91
[7]. Nghị quyết 2625 (XXV) của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 24/10/1970
[8]. Tập bài giảng Khái luận chung về Luật quốc tế, khoa Luật quốc tế, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm học 2009-2010, tr. 95-96
[9]. Tập bài giảng Khái luận chung về Luật quốc tế, khoa Luật quốc tế, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm học 2009-2010, tr. 24
[10]. Tập bài giảng Khái luận chung về Luật quốc tế, khoa Luật quốc tế, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm học 2009-2010, tr. 25
[11]. Việc giải quyết mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia trong pháp luật của mỗi nước có sự khác nhau nhất định. Xem thêm : Trần Văn Thắng và Lê Mai Anh, Luật quốc tế – lý luận và thực tiễn, nhà xuất bản Giáo dục, tr. 63
[12]. Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2006
[13]. Điều 27 Công Ước Vienna 1969 về Luật điều ước quốc tế
[14]. Xem thêm: Bùi Ngọc Toàn, Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 02(69), tháng 2/2006
[15]. Báo cáo của Bộ ngoại giao (tháng 5/2004) : Tổng kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh về kí kết và thực hiện ĐƯQT (1998 – 2003)
[16]. Khoản 6 Điều 3 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005
[17]. Xem thêm : Hoàng Ngọc Giao, Bàn về việc thực thi điều ước quốc tế, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3/2005
[18]. Xem thêm : TS. Lê Thành Long, Đảm bảo sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế ở Việt Nam, Hội nghị khoa học về tính thống nhất của hệ thống pháp luật (31/8 – 1/9/2006)
[19]. Xem thêm : TS. Lê Thành Long, Đảm bảo sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế ở Việt Nam, Hội nghị khoa học về tính thống nhất của hệ thống pháp luật (31/8 – 1/9/2006)
[20]. Khoản 2 Điều 3, Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam số 41/2005/QH11 ngày 14/06/2005
[21]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr. 112
[22]. Khoản 1 Điều 6, Luật ký, kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam số 41/2005/QH11 ngày 14/06/2005
[23]. Điều 54 của Hiến pháp 1958 Cộng hòa Pháp quy định: “Theo yêu cầu của Tổng thống, Thủ tướng hay Chủ tịch Thượng viện hoặc Hạ viện, nếu Hội đồng bảo hiến đã tuyên bố về một cam kết quốc tế có chứa đựng một điều khoản trái với Hiến pháp thì việc cho phép phê duyệt hay phê chuẩn nó chỉ có thể diễn ra sau khi có sửa đổi Hiến pháp”.Thực tế, từ khi ban hành Hiến pháp 1958 đến nay, Pháp đã trải qua 4 lần sửa đổi Hiến pháp để tham gia các điều ước: Hiệp ước Maxtrict 1992, Hiệp ước Amsterdam 1999, Hiệp ước thành lập Tòa Hình sự quốc tê, Hiến chương về các ngôn ngữ trong khu vực