Tiểu luận Những đặc điểm độc đáo của cồng chiêng Tây Nguyên – Tài liệu text

Tiểu luận Những đặc điểm độc đáo của cồng chiêng Tây Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.17 KB, 6 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
Đề bài: Những đặc điểm độc đáo của cồng chiêng Tây Nguyên
Việt Nam là nước có nhiều danh lam thắng cảnh và nhiều giá trị văn hóa
đặc sắc làm nên một bản sắc riêng. Nhắc đến Tây Nguyên là nhắc đến vùng cao
nguyên đầy nắng và gió, nhắc đến núi rừng hùngvĩ mà thơ mộng, nhắc đến tiếng
chim, tiếng thú vang vọng cả đất trời. Tây Nguyên không chỉ đẹp về cảnh vật
thiên nhiên, mà đặc biệt hơn là vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của cả một nền
văn hóa lâu đời, đậm đà bản sắc dân tộc.Và khơng gian văn hóa cồng chiêng
Tây Ngun là một trong số những vẻ đẹp đáng tự hào đó. Trải qua bao năm
tháng cồng chiêng đã trở thành nền văn hóa đặc trưng, đầy sức quyến rủ và hấp
dẫn của vùng đất Tây Ngun. Năm 2005 “khơng gian văn hóa cồng chiêng
Tây Ngun” đã chính thức được UNESCO cơng nhận là “Kiệt tác di sản văn
hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”.
I/ Lịch sử hình thành
Cồng chiêng là một nhạc cụ rất phổ biến trong nền âm nhạc của các tộc
người Việt Nam. Nhưng với người Tây Nguyên, cồng chiêng là đại diện, là
nguồn sống, là tín ngưỡng tâm linh. Những âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi
thơi thúc, hịa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòng sẽ sống mãi cùng
với đất trời và con người Tây Nguyên. Để có được những thành tựu như ngày
hôm nay, cồng chiêng Tây Nguyên phải trải qua một quá trình phát triển lâu dài.
Những nét chạm khắc biểu hiện người đánh cồng chiêng (dáng
đánh rất giống người Tây Ngun) có trên trống đồng Đơng Sơn vốn có
lịch sử hơn 4.000 năm. Về lối đánh, “rất nguyên thủy”, người Tây Nguyên
vẫn “mỗi người một cái”, chưa kết thành dàn do một nghệ sĩ biểu diễn như các
dân tộc ở Thái-lan, Malaysia, Lào, Campuchia (theo nguyên lý phát triển từ đơn
giản đến phức tạp; càng đơn giản càng gần ý nghĩa là “vật tổ”); hình dáng
1

cồng chiêng cũng thế, chưa phát triển theo dạng trống (tức chiêng có đế, vng
hoặc trịn).

Cồng chiêng Tây Ngun vẫn mang ý nghĩa từ thuở sơ khai của
nó: Dùng để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín ngưỡng-là phương
tiện giao tiếp với siêu nhiên… qua các lễ thổi tai, bỏ mả v.v…, nghĩa là vẫn thuần
chức năng phục vụ đời sống con người. Trong khi ở các vùng Đơng – Nam Á
khác, cồng chiêng đã “tiến hóa” đến mức thành phương tiện biểu diễn cung
đình, mang chức năng giải trí.
Xét về lịch sử tiến hóa, mỗi sự biến chuyển tính năng nhạc khí diễn
ra trong hàng mấy trăm năm. Và có thể khẳng định, căn cứ trên vết tích trống
đồng, cồng chiêng Tây Ngun đã có ít nhất 2.000 năm.
II/ Giá trị của cồng chiêng
Việc sử dụng cồng chiêng thể hiện tính cộng đồng của người dân
tộc thiểu số. Từ việc dùng nó làm phương tiện để săn thú, cho đến việc dùng nó
làm tiếng nói để kết nối với thế giới thần linh, hay một số tập tục khác đã cho
thấy sự thay đổi hàng ngày trong nhận thức về giá trị của cồng chiêng trong
cộng đồng người Tây Nguyên. Nó là phương tiện kết nối họ trong công cuộc
sinh tồn đồng thời cũng là sự tôn kính của họ với các đấng thần linh hay là ý
niệm tôn trọng thiên nhiên của họ.
Mặt khác, trong các đám cúng gia đình hay của làng bản, trước khi cúng
tế, người ta thường phải xin dùng cồng chiêng trong buổi lễ, qua đó cho thấy sự
nhớ ơn và ý thức tôn trọng ông bà tổ tiên, thế hệ đi trước.
Đặc biệt, cồng chiêng còn song hành cùng con người Tây Nguyên
từ khi sinh ra cho đến khi mất đi. Với người Giarai, khi đứa trẻmới sinh ra trong
buổi “lễ thổi tai” chúng sẽ được nghe tiếng chuông đầu tiên để biểu trưng rằng
nó đã thuộc vào bộ tộc của họ. Rồi trong cuộc sống của họ, tiếng cồng chiêng
đi theo trong các lễ hội cầu mùa, mừng lúa mới, rồi trong đám cưới của họ,
thậm chí trong các lễ đưa ma hay bỏ mả…
2

Trong nền âm nhạc Việt Nam, nghệ thuật đánh cồng chiêng đã góp phần

tạo nên sự phong phú về hình thức chơi nhạc cụ cũng như phong phú thêm về
các loại nhạc cụ. Sự biến đổi và khác biệt trong cách đánh cồng chiêng của
người dân Tây Nguyên tạo nên sự phong phú ngày càng hấp dẫn cho loại hình
nghệ thuật này, đồng thời cũng cho thấy sự tinh tế, tâm hồn lãng mạn của họ
ngày càng đi đến những tầm cao hơn của nghệ thuật.
Cồng chiêng Êđê nhịp điệu phức hợp, tốc độ nhanh, cường độ lớn; cồng
chiêng Mnông cường độ không lớn mặc dù tốc độ khá nhanh; cồng chiêng Bana
-Giarai thiên về tính chất chủ điệu (một bè trầm của cồng có núm vang lên âm
sắc vững chãi, hùng tráng, một bè giai điệu thánh thót của chiêng khơng có
núm với âm sắc đanh gọn, lảnh lót). Có khi họ dùng tay để đánh, có khi dùng
dùi gỗ có bịt vải ở đầu…điều đó tạo nên sự phong phú cho viêc tạo ra các hiệu
ứng âm thanh khác nhau. Khi biểu diễn vòng tròn, các nghệ nhân đánh và
di chuyển dàn cồng chiêng từ phải qua trái với ý nghĩa ngược chiều với thời
gian, hướng về nguồn cội.
Bên cạnh âm nhạc thì nét đẹp văn hóa này còn được thể hiện rõ ràng
và phong phú trong các tác phẩm sử thi, truyền thuyết, thơ ca… Ngoài ra, việc
sử dụng cồng chiêng âm vang, hùng hồn, tấp nập trong các trận đánh quân thù
thể hiện tinh thần tự chủ của người dân tộc, tinh thần yêu nước cao cả, u
chuộng hịa bình của họ. Hoặc sâu sắc hơn, những âm vang đó trong những
tình huống, khơng gian phù hợp còn gợi cho người ta hồi tưởng về cội
nguồn, về những cuộc săn đuổi mn thú để duy trì sự sống, đồng cũng là thể
hiện sức mạnh vô biên của họ khi đối chọi với thiên nhiên khắc nghiệt.
Có thể nói, văn hố và âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện
tài năng sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân loại. Cồng chiêng và sinh hoạt văn
hoá cồng chiêng của các dân tộc ở Tây Nguyên rất đa dạng, nhưng thống nhất.
Đây chính là đặc điểm rất cơ bản của vùng văn hoá Tây Nguyên và cũng là đặc
điểm của văn hoá Việt Nam.
III/ Thực trạng.
3

Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun đang đứng trước nguy cơ
mai một. Trước hết là sự suy giảm nhanh chóng về số lượng các dàn cồng
chiêng. Tỉnh Lâm Đồng chỉ còn lại 3.113 bộ. Từ năm 1982 đến 1992, tỉnh Đắc
Lắc đã mất 5.325 bộ chiêng, từ năm 1993 đến 2003 lại mất tiếp 850 bộ, hiện tại
cả tỉnh chỉ còn 3.825 bộ cồng chiêng.
Nguy cơ mai một cồng chiêng còn thể hiện ở các bài bản nhạc chiêng
dần dần bị lãng qn. Người Mnơng trước đây có 40 bản nhạc chiêng, nay các
nghệ nhân chỉ còn nhớ, lưu truyền và trình diễn được 10 bản nhạc chiêng. Mặt
khác, những nghệ nhân có đơi tai thẩm âm, có năng khiếu trong việc chỉnh
chiêng cũng thưa vắng dần trong các cộng đồng cư dân.
Đáng tiếc nhất là khi những nghệ nhân Tây Nguyên chết đi đã mang
theo cả kho tàng di sản văn hố cồng chiêng mà khơng dễ dàng tạo dựng và
khơi phục được. Sự đứt gãy dịng chảy của văn hoá truyền thống dẫn đến sự thờ
ơ, hờ hững của lớp trẻ với văn hoá của các thế hệ tiền nhân, trong đó có văn hố
âm nhạc cồng chiêng.
IV/ Giải pháp.
Trở thành kiệt tác truyển khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại, Không
gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên đặt ra những vấn đề cấp thiết trong công
tác bảo tồn, phát huy giá trị của nó. Bài tốn bảo tồn sẽ cực kỳ phức tạp, vất vả.
Cồng chiêng không chỉ là nghệ thuật biểu diễn đơn thuần, mà gắn bó
chặt chẽ với nghi lễ, với đời sống hằng ngày, với chính khơng gian của vùng đất
ấy. Vì vậy, cần có một chương trình tổng thể, quy mô cho công việc này. Trước
mắt, cần đẩy mạnh công tác sưu tầm, ghi chép và nghiên cứu một cách bài bản,
hệ thống về cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Tiến hành phục hồi và giữ gìn các sinh hoạt văn hóa để tạo mơi trường
diễn xướng của sinh hoạt văn hóa cồng chiêng trên quan điểm kế thừa có chọn
lọc.
Chú trọng đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số. Mở lớp truyền dạy
kinh nghiệm đánh chiêng, chỉnh chiêng tại cộng đồng.

4

Muốn bảo tồn cồng chiêng và văn hoá cồng chiêng, phải giữ gìn, khơi
phục các sinh hoạt văn hố – tín ngưỡng liên quan đến cồng chiêng.
Khai thác tiềm năng kinh tế của kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể
này nhưng không phá vỡ hay làm tăng thêm nguy cơ mai một của Khơng gian
văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Là một sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân
loại, Khơng gian văn hố cồng chiêng Tây Nguyên có khả năng hấp dẫn, thu hút
khách du lịch. Đây cũng là cơ hội tốt để tuyên truyền, quảng bá về giá trị của di
sản.
Tìm giải pháp để đưa các đoàn nghệ nhân đi biểu diễn và xây dựng
một số buôn làng thành điểm du lịch, với đầy đủ một không gian sinh hoạt và
diễn xướng cồng chiêng.
Kết luận: Cồng chiêng Tây Nguyên có mặt trong mọi nghi lễ quan trọng
của đời sống con người và cộng đồng các dân tộc, nó trở thành sợi dây gắn kết
vững chắc giữa các thành viên trong gia đình, trong dịng tộc, trong các buôn
làng trên mảnh đất Tây Nguyên từ ngàn đời nay. Cồng chiêng cũng là một nhạc
cụ rất phổ biến trong nền âm nhạc của các tộc người Việt Nam. Nhưng với
người Tây Nguyên, Cồng chiêng là đại diện, là nguồn sống, là tín ngưỡng tâm
linh. Những âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thơi thúc, hịa quyện với tiếng
suối, tiếng gió và với tiếng lịng sẽ sống mãi cùng với đất trời và con người các
dân tộc Tây Ngun.

Cho đến ngày nay nó vẫn tồn tại, hịa nhập cùng cuộc

sống của các dân tộc Tây Nguyên, tạo nên một khơng gian văn hóa cồng chiêng
đặc sắc, hấp dẫn và nhiều thú vị.
IV/ Tài liệu tham khảo.

Mạng internet:

+ />+ />5

+ />%C4%83n+h%C3%B3a+c%E1%BB%93ng+chi%C3%AAng+t
%C3%A2y+nguy%C3%AAn.htm

6

Cồng chiêng Tây Ngun vẫn mang ý nghĩa từ thuở sơ khai củanó: Dùng để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín ngưỡng-là phươngtiện giao tiếp với siêu nhiên… qua các lễ thổi tai, bỏ mả v.v…, nghĩa là vẫn thuầnchức năng phục vụ đời sống con người. Trong khi ở các vùng Đơng – Nam Ákhác, cồng chiêng đã “tiến hóa” đến mức thành phương tiện biểu diễn cungđình, mang chức năng giải trí.Xét về lịch sử tiến hóa, mỗi sự biến chuyển tính năng nhạc khí diễnra trong hàng mấy trăm năm. Và có thể khẳng định, căn cứ trên vết tích trốngđồng, cồng chiêng Tây Ngun đã có ít nhất 2.000 năm.II/ Giá trị của cồng chiêngViệc sử dụng cồng chiêng thể hiện tính cộng đồng của người dântộc thiểu số. Từ việc dùng nó làm phương tiện để săn thú, cho đến việc dùng nólàm tiếng nói để kết nối với thế giới thần linh, hay một số tập tục khác đã chothấy sự thay đổi hàng ngày trong nhận thức về giá trị của cồng chiêng trongcộng đồng người Tây Nguyên. Nó là phương tiện kết nối họ trong công cuộcsinh tồn đồng thời cũng là sự tôn kính của họ với các đấng thần linh hay là ýniệm tôn trọng thiên nhiên của họ.Mặt khác, trong các đám cúng gia đình hay của làng bản, trước khi cúngtế, người ta thường phải xin dùng cồng chiêng trong buổi lễ, qua đó cho thấy sựnhớ ơn và ý thức tôn trọng ông bà tổ tiên, thế hệ đi trước.Đặc biệt, cồng chiêng còn song hành cùng con người Tây Nguyêntừ khi sinh ra cho đến khi mất đi. Với người Giarai, khi đứa trẻmới sinh ra trongbuổi “lễ thổi tai” chúng sẽ được nghe tiếng chuông đầu tiên để biểu trưng rằngnó đã thuộc vào bộ tộc của họ. Rồi trong cuộc sống của họ, tiếng cồng chiêngđi theo trong các lễ hội cầu mùa, mừng lúa mới, rồi trong đám cưới của họ,thậm chí trong các lễ đưa ma hay bỏ mả…Trong nền âm nhạc Việt Nam, nghệ thuật đánh cồng chiêng đã góp phầntạo nên sự phong phú về hình thức chơi nhạc cụ cũng như phong phú thêm vềcác loại nhạc cụ. Sự biến đổi và khác biệt trong cách đánh cồng chiêng củangười dân Tây Nguyên tạo nên sự phong phú ngày càng hấp dẫn cho loại hìnhnghệ thuật này, đồng thời cũng cho thấy sự tinh tế, tâm hồn lãng mạn của họngày càng đi đến những tầm cao hơn của nghệ thuật.Cồng chiêng Êđê nhịp điệu phức hợp, tốc độ nhanh, cường độ lớn; cồngchiêng Mnông cường độ không lớn mặc dù tốc độ khá nhanh; cồng chiêng Bana-Giarai thiên về tính chất chủ điệu (một bè trầm của cồng có núm vang lên âmsắc vững chãi, hùng tráng, một bè giai điệu thánh thót của chiêng khơng cónúm với âm sắc đanh gọn, lảnh lót). Có khi họ dùng tay để đánh, có khi dùngdùi gỗ có bịt vải ở đầu…điều đó tạo nên sự phong phú cho viêc tạo ra các hiệuứng âm thanh khác nhau. Khi biểu diễn vòng tròn, các nghệ nhân đánh vàdi chuyển dàn cồng chiêng từ phải qua trái với ý nghĩa ngược chiều với thờigian, hướng về nguồn cội.Bên cạnh âm nhạc thì nét đẹp văn hóa này còn được thể hiện rõ ràngvà phong phú trong các tác phẩm sử thi, truyền thuyết, thơ ca… Ngoài ra, việcsử dụng cồng chiêng âm vang, hùng hồn, tấp nập trong các trận đánh quân thùthể hiện tinh thần tự chủ của người dân tộc, tinh thần yêu nước cao cả, uchuộng hịa bình của họ. Hoặc sâu sắc hơn, những âm vang đó trong nhữngtình huống, khơng gian phù hợp còn gợi cho người ta hồi tưởng về cộinguồn, về những cuộc săn đuổi mn thú để duy trì sự sống, đồng cũng là thểhiện sức mạnh vô biên của họ khi đối chọi với thiên nhiên khắc nghiệt.Có thể nói, văn hố và âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên thể hiệntài năng sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân loại. Cồng chiêng và sinh hoạt vănhoá cồng chiêng của các dân tộc ở Tây Nguyên rất đa dạng, nhưng thống nhất.Đây chính là đặc điểm rất cơ bản của vùng văn hoá Tây Nguyên và cũng là đặcđiểm của văn hoá Việt Nam.III/ Thực trạng.Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun đang đứng trước nguy cơmai một. Trước hết là sự suy giảm nhanh chóng về số lượng các dàn cồngchiêng. Tỉnh Lâm Đồng chỉ còn lại 3.113 bộ. Từ năm 1982 đến 1992, tỉnh ĐắcLắc đã mất 5.325 bộ chiêng, từ năm 1993 đến 2003 lại mất tiếp 850 bộ, hiện tạicả tỉnh chỉ còn 3.825 bộ cồng chiêng.Nguy cơ mai một cồng chiêng còn thể hiện ở các bài bản nhạc chiêngdần dần bị lãng qn. Người Mnơng trước đây có 40 bản nhạc chiêng, nay cácnghệ nhân chỉ còn nhớ, lưu truyền và trình diễn được 10 bản nhạc chiêng. Mặtkhác, những nghệ nhân có đơi tai thẩm âm, có năng khiếu trong việc chỉnhchiêng cũng thưa vắng dần trong các cộng đồng cư dân.Đáng tiếc nhất là khi những nghệ nhân Tây Nguyên chết đi đã mangtheo cả kho tàng di sản văn hố cồng chiêng mà khơng dễ dàng tạo dựng vàkhơi phục được. Sự đứt gãy dịng chảy của văn hoá truyền thống dẫn đến sự thờơ, hờ hững của lớp trẻ với văn hoá của các thế hệ tiền nhân, trong đó có văn hốâm nhạc cồng chiêng.IV/ Giải pháp.Trở thành kiệt tác truyển khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại, Khônggian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên đặt ra những vấn đề cấp thiết trong côngtác bảo tồn, phát huy giá trị của nó. Bài tốn bảo tồn sẽ cực kỳ phức tạp, vất vả.Cồng chiêng không chỉ là nghệ thuật biểu diễn đơn thuần, mà gắn bóchặt chẽ với nghi lễ, với đời sống hằng ngày, với chính khơng gian của vùng đấtấy. Vì vậy, cần có một chương trình tổng thể, quy mô cho công việc này. Trướcmắt, cần đẩy mạnh công tác sưu tầm, ghi chép và nghiên cứu một cách bài bản,hệ thống về cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.Tiến hành phục hồi và giữ gìn các sinh hoạt văn hóa để tạo mơi trườngdiễn xướng của sinh hoạt văn hóa cồng chiêng trên quan điểm kế thừa có chọnlọc.Chú trọng đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số. Mở lớp truyền dạykinh nghiệm đánh chiêng, chỉnh chiêng tại cộng đồng.Muốn bảo tồn cồng chiêng và văn hoá cồng chiêng, phải giữ gìn, khơiphục các sinh hoạt văn hố – tín ngưỡng liên quan đến cồng chiêng.Khai thác tiềm năng kinh tế của kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thểnày nhưng không phá vỡ hay làm tăng thêm nguy cơ mai một của Khơng gianvăn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Là một sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhânloại, Khơng gian văn hố cồng chiêng Tây Nguyên có khả năng hấp dẫn, thu hútkhách du lịch. Đây cũng là cơ hội tốt để tuyên truyền, quảng bá về giá trị của disản.Tìm giải pháp để đưa các đoàn nghệ nhân đi biểu diễn và xây dựngmột số buôn làng thành điểm du lịch, với đầy đủ một không gian sinh hoạt vàdiễn xướng cồng chiêng.Kết luận: Cồng chiêng Tây Nguyên có mặt trong mọi nghi lễ quan trọngcủa đời sống con người và cộng đồng các dân tộc, nó trở thành sợi dây gắn kếtvững chắc giữa các thành viên trong gia đình, trong dịng tộc, trong các buônlàng trên mảnh đất Tây Nguyên từ ngàn đời nay. Cồng chiêng cũng là một nhạccụ rất phổ biến trong nền âm nhạc của các tộc người Việt Nam. Nhưng vớingười Tây Nguyên, Cồng chiêng là đại diện, là nguồn sống, là tín ngưỡng tâmlinh. Những âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thơi thúc, hịa quyện với tiếngsuối, tiếng gió và với tiếng lịng sẽ sống mãi cùng với đất trời và con người cácdân tộc Tây Ngun.Cho đến ngày nay nó vẫn tồn tại, hịa nhập cùng cuộcsống của các dân tộc Tây Nguyên, tạo nên một khơng gian văn hóa cồng chiêngđặc sắc, hấp dẫn và nhiều thú vị.IV/ Tài liệu tham khảo.Mạng internet:+ />+ />5+ />%C4%83n+h%C3%B3a+c%E1%BB%93ng+chi%C3%AAng+t%C3%A2y+nguy%C3%AAn.htm