Tiểu luận Văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA VĂN-XÃ HỘI
----™&˜----
BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: “Văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay”
Nhóm: 6
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
Lớp: N02
Giảng viên hướng dẫn: Bùi Trọng Tài
 Thái Nguyên, ngày 26 tháng 02 năm 2012
Mục lục
Phụ lục
A.MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài:
Văn hóa chính trị có vai trò rất to lớn đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Văn hóa chính trị giữ vị trí rất quan trọng trong việc tổ chức xã hội, định hướng điều chỉnh các hành vi và quan hệ xã hội. Đồng thời, cổ vũ, động viên, thúc đẩy hoạt động của cá nhân, giai cấp trong chính trị, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc.
Hiện nay, trên thế giới, xu hướng toàn cầu hóa đang ngày càng càng phổ biến sâu rộng hơn. Nó mở ra cơ hội phát triển cho các nước song cũng tạo ra những thách thức mới cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Việc giữ vững những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đặc biệt là những giá trị văn hóa chính trị có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định nền chính trị. Từ đó sẽ tạo ra động lực cho sự hòa nhập, phát triển, ổn định của nước ta.
 Văn hóa chính trị ở nước ta có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Hiện nay, văn hóa chính trị Việt Nam đang được kế thừa và phát huy dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Điều đó cho phép đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học, truyền thống với hiện đại, dân tộc và quốc tế. Cũng chính từ đó đã tạo nên nét đặc sắc trong văn hóa chính trị ở nước ta.
Thông qua đề tài: “Văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay”, chúng tôi muốn làm rõ hơn những nét tiêu biểu, đặc thù trong văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay. Từ đó có cái nhìn tổng quan về văn hóa chính trị cũng như nền chính trị nước ta hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu:
 Trên cơ sở phân tích, đánh giá các tài liệu, tác giả đưa ra những nét tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt Nam trong thời đại hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu:
 Phân tích và tổng hợp tài liệu:
 Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong đề tài nghiên cứu này
 Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích các tài liệu: sách báo,trên internet,đưa ra những nội dung tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt Nam trong thời kì hiện nay. 
 Từ đó tổng hợp đánh giá đặc điểm của văn hóa chính trị Việt Nam trong thời kì hiện nay.
Kết cấu của đề tài:
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, đề tài có 2 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận
Chương 2. Một số nét tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt Nam
NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận:
Khái niệm văn hóa
Văn hóa chính trị là một bộ phận hữu cơ của văn hóa nói chung. Vì vậy, để hiểu được văn hóa chính trị trước hết cần có một quan niệm thống nhất về văn hóa.
Văn hóa là một khái niệm phức tạp và đa nghĩa, gắn liền con người với đời sống xã hội loài người. Từ lâu văn hóa đã trở thành lĩnh vực nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Hiện nay đã và đang tồn tại rất nhiều các định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Văn hóa theo từ gốc Latinh “culture” lúc đầu chủ yếu nói về quan hệ giữa con người với tự nhiên, có nghĩa là gieo trồng, canh tác, khai hoang. Sau này thuật ngữ trên được mở rộng sang lĩnh vực xã hội, nói về quan hệ giữa con người với con người, có nghĩa là giáo dục, nuôi dưỡng, giáo hóa, rèn luyện, hoàn thiện nhân cách.
Theo E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội”. Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một; nó bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật 
Theo F. Boas định nghĩa “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau”. Theo định nghĩa này, mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và môi trường là quan trọng trong việc hình thành văn hóa của con người.
Hiện nay, có rất nhiều các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài đã vận dụng khái niệm văn hóa của UNESSCO: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dẫn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”.
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Hồ Chí Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra. 
Theo Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”. Theo định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc.
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, nhóm tác giả sẽ đưa ra một định nghĩa chung nhất dựa trên cơ sở những định nghĩa trên: Văn hóa là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trình lao động nhằm phục vụ mục đích cuộc sống con người.
Khái niệm chính trị
Chính trị là một phạm trù phức tạp. Có rất nhiều quan điểm, tư tưởng khác nhau về chính trị. Trong đó, nổi bật lên có các quan niệm như sau:
Với các quan điểm trước Mác như quan điểm của Hê-rô-đốt: chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp của các chỉnh thể quân chủ, quý tộc và dân chủ. Theo Platon thì:chính trị là nghệ thuật cung đình liên kết trực tiếp của người anh hùng và sự thông minh. Sự liên kết đó được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái.
Theo Aristotle thì chính trị là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên – là hình thức giao tiếp cao nhất của con người; con người là động vật chính trị; quyền lực chính trị có thể được phân chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ở phương Đông cổ đại thì ta thấy nổi bật có các quan điểm của Khổng Tử với quan niệm: chính trị là công việc của người quân tử, là làm cho chính đạo chính danh; với Hàn Phi Tử thì ông quan niệm để thực hiện hoạt động chính trị cần thiết phải xây dựng và ban hành pháp luật;
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê nin: Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lời ích giai cấp. Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chưc quyền lực nhà nước, là sự tham gia vào công việc nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung nhiệm vụ của nhà nước. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Đồng thời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới vận mệnh hàng triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật.
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về chính trị đó là: Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân tộc và quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân và công việc nhà nước và xã hội, hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Khái niệm văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu. Ngay từ thời cổ đại, các nhà tư tưởng Hy Lạp, La Mã như Platon, Aristotle,..., ở Trung Quốc như Khổng Tử, Lão Tử, đã chú ý tới mối quan hệ giữa chính trị và văn hóa. Sau này các công trình nghiên cứu của các nhà tư tưởng thời kì khai sáng, cận đại và hiện đại cũng đã đề cập đến văn hóa chính trị ở các khía cạnh và mức độ khác nhau.
Platon (428-347 TCN) và Aristôt (384-322 TCN) khi đưa ra quan niệm coi chính trị là khoa học và nghệ thuật, mặc dù triết lí chính trị - xã hội của các ông còn nhiều hạn chế lịch sử nhưng vẫn chứa đựng hạt nhân hợp lý trong quan niệm về VHCT.
Khổng Tử (551-479 TCN) là một đại diện tiêu biểu cho những tư tưởng gia phương Đông cổ đại. Tư tưởng chính trị về “nhân và lễ”, “chính danh định phận”, tôn trọng người hiền, tư tưởng về giáo dục hàm chứa nhiều giá trị văn hoá sâu sắc, vẫn mang ý nghĩa thời đại đối với văn hóa chính trị phương Đông nói chung và văn hóa chính trị Việt Nam nói riêng.
Môngtexkiơ (1689-1755), trong các học thuyết về nguồn gốc nhà nước, về sự phân quyền, lý luận về chính phủ và Rútxô (1712 -1778) với tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản, tư tưởng về chủ quyền tối thượng của nhân dân cũng đưa ra nhiều tư tưởng lớn về văn hóa chính trị cùng với những giá trị trí tuệ, tài năng, quyền lực, nghĩa vụcủa các chủ thể chính trị.
Tuy nhiên, văn hóa chính trị chỉ xuất hiện với tư cách là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập từ những năm 1950, gắn với công trình nghiên cứu của những nhà chính trị học Mỹ. Trong bài “Các hệ thống chính trị so sánh” đăng trên tạp trí chính trị học số 8-1956, Almond đã đề xuất thuật ngữ “văn hóa chính trị” dùng để phân tích, so sánh các chế độ chính trị. Ông đưa ra hai giải thích về khái niệm vă hóa chính trị. Đó là 1.Văn hóa chính trị không hoàn toàn thống nhất với một hệ thống chính trị, hoặc một xã hội đã cho, là loại hình nhận thức định hướng chính trị có thể, hoặc nói chung thường vượt ra ngoài giới hạn của hệ thống chính trị; 2. Văn hóa chính trị ... Đảng chỉ rõ: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực của nhà nước là thống nhất là của dân, không phân chia nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật". Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hợp quy luật phát triển của lịch sử vì "suy cho cùng chính là nhằm thực hiện dân chủ. Pháp luật của Nhà nước ta luôn luôn là công cụ mạnh mẽ và có hiệu lực đối với việc dân chủ hoá mọi mặt của đời sống xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội...".
Tinh thần dân chủ trong tư duy chính trị của Đảng được thể hiện rất rõ ở tư tưởng lấy “dân làm gốc”, và, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Một nền chính trị nhân văn phải là nền chính trị tôn trọng quyền lợi của đa số nhân dân, thực sự do dân làm chủ, nhà nước là cơ quan được ủy quyền để thực thi quyền lực nhân dân, để thực hiện lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Những bước tiến trong nhận thức lý luận và tư duy chính trị của Đảng được thể hiện rõ trong hàng loạt các văn kiện ban hành trong thời kỳ đổi mới. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã chính thức sử dụng khái niệm "hệ thống chính trị". Hệ thống chính trị của chúng ta được vận hành theo cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ".
Để tăng cường vai trò của Nhà nước và sự nghiêm minh của pháp luật, Nhà nước đã ban hành nhiều luật khác nhau, nhằm làm cho mọi người sống và làm việc theo pháp luật. Chủ trương cải cách bộ máy hành chính, trưng cầu ý kiến rộng rãi của nhân dân, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội chính là những bước tiến đáng chú ý của văn hoá chính trị trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Thứ tư, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Với đường lối và chính sách đối ngoại rộng mở đó đến nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ kinh tế - thương mại với trên 170 quốc gia, nền kinh tế, đã ký kết khoảng 60 hiệp định kinh tế - thương mại song phương, trong đó có toàn bộ các nước, nền kinh tế phát triển, thị trường lớn. Chúng ta ngày càng hoạt động tích cực và hiệu quả, nâng cao vị thế đất nước trong các thể chế hợp tác quốc tế.
Thứ năm, xác định “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Để lãnh đạo đất nước nắm bắt cơ hội, vượt qua khó khăn, đạt được mục tiêu cao cả đã đề ra, Đảng - người lãnh đạo đất nước, phải có một đội ngũ cán bộ có văn hóa chính trị cao, có trình độ và khả năng thực hiện các nội dung chính trị một cách văn hóa. Chính vì thế, Đảng luôn tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững sự đoàn kết và uy tín của Đảng trong nhân dân. Bản chất văn hoá chính trị tiến bộ cũng xa lạ với tệ quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí. Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững sự đoàn kết và uy tín của Đảng, củng cố, và giữ vững niềm tin trong nhân dân. Văn kiện Đại hội VII của Đảng khẳng định: "Đảng ta coi việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng, là công việc thường xuyên bảo đảm cho Đảng ta luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng" .
Tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, coi trọng phản biện xã hội, mở rộng dân chủ trong tất cả các lĩnh vực, xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... đã tạo nên những tiền đề, động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới ở nước ta ngày càng tiến triển mạnh mẽ.
Phát huy những thành tựu đã đạt được, vượt qua những khó khăn, thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, thực hiện tốt an sinh xã hội, giải quyết những tồn đọng, những vấn đề gây bức xúc trong dân hiện nay..., sẽ là những yếu tố quan trọng để nâng cao hơn nữa tính văn hóa chính trị trong sự lãnh đạo của Đảng,để Đảng xứng đáng với tên gọi: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.
2.4. Một số vấn đề phương hướng giáo dục, nâng cao văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay
 Xây dựng văn hóa chính trị trở thành một bộ phận không tác rời của chiến lược xây dựng và phát triển văn hoá ở nước ta, trước hết cần chú trọng đặc biệt tới các nhân tố tư tưởng, đạo đức lối sống và đời sống văn hoá tinh thần là những vấn đề nổi bật và bức xúc hiện nay.
Xây dựng văn hóa chính trị gắn liền mật thiết giữa giáo dục tuyên truyền đường lối quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước với việc nâng cao ảnh hưởng thực tế của đường lối, chính sách ấy trong đời sống xã hội, thực hiện công phu lâu dài việc giáo dục ý thức chính trị, giáo dục đạo đức và tình cảm cách mạng, nâng cao trình độ học vấn và dân trí nối chung để quần chúng tham gia vào hoạt động chính trị một cách chủ động, tích cực và sáng tạo.
Thực hành rộng rãi văn hóa chính trị một cách thiết thực vào lúc này là thực hành dân chủ, là đấu tranh với tệ quan liêu và tham nhũng, đấu tranh với mọi biểu hiện vi phạm dân chủ và quyền làm chủ của dân, vi phạm pháp luật, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nhất là những người có chức có quyền.
Để làm cho văn hoá, trong đó có văn hóa chính trị thấm sâu vào đời sống trước hết phải chủ động giáo dục văn hóa chính trị trong Đảng, trong nhà nước và trong các đoàn thể chính trị xã hội của quần chúng, đặc biệt là trong Đảng, từ các tổ chức Đảng ở cơ sở đến toàn Đảng. Cán bộ đảng viên phải làm gương mẫu cho quần chúng nên việc giáo dục và thực hành văn hóa chính trị trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước phải được chú trọng thường xuyên, phải thật sự có tác dụng nêu gương cho quần chúng, thực sự là nội dung cốt lõi, chủ đạo của văn hóa chính trị trong xã hội. 
Xây dựng văn hóa chính trị phải chú trọng đầy đủ những tiêu chuẩn, những giá trị và chuẩn mực, trước hết là đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, là năng lực trong công tác thực tế, là năng lực vận động quần chúng và đề cao trách nhiệm với dân, sống gần dân, thấu hiểu dân, tận tuỵ phục vụ dân, chống mọi biểu hiện quan chủ, quan cách mạng vốn xa lạ với bản cất văn hóa chính trị thân dân, dân chủ.
Đó là vấn đề chủ yếu trong phương hướng xây dựng văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện được phương hướng nêu trên trong việc xây dựng văn hóa chính trị cần lưu ý những giải pháp sau:
Nâng cao trình độ học vấn, mặt bằng dân trí trong xã hội. Dân trí không phải hướng vào đối tượng dân mà phải đặc biệt chú trọng tới năng lực hiểu biết, năng lực trí tuệ của người lãnh đạo, người quản lý của công chức, quan chức. Nâng cao dân trí, đòng thời phải rất chú trọng nâng cao chất lượng cácn bộ lãnh đạo, nhất là đạo đức năng lực trí tuệ của họ. Cán bộ đảng viên mà ngại khó, lười học tập, rèn luyện phải được xem là thoái hoá hư hỏng, không phù hợp với yêu cầu xã hội học tập trong điều kiện hiện nay.
Mở rộng việc cung cấp thông tin, xã hội hoá và cập nhật hoá thông tin theo tinh thần công khai, dân chủ, đạo đức, pháp luật. Tính khách quan, trung thực của thông tin và truyền bá thông tin là điều không thể thiếu, để có chính trị lành mạnh và văn hóa chính trị dân chủ.
Cùng với thông tin là đẩy mạnh giáo dục pháp luật. Tông trọng pháp luật, tự giác thực hiện pháp luật, đấu tranh cho việc pháp luật được coi trọng và xử lý nghiêm minh theo luật, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật là đòi hỏi cấp bách. Không có những đảm bảo khoa học, đạo đức, pháp luật thì không thể có bất cứ một văn hóa chính trị nào theo nghĩa trung thực, nghiêm túc của nó.
Tôn trọng và thực hành các giá trị, các chuẩn mực dân chủ trong lối sống, hành vi, ứng xử chính trị
Trao dồi đạo đức, thực hành đạo đức theo tư tưởng và gương sáng Hồ Chí Minh. Thực hành đạo đức cách mạng ở tất cả mọi người trong các mối quan hệ với tự mình, với người khác, với công việc, với tổ chức. Phải có đủ bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính thì mới là người hoàn toàn. Cần, kiệm, liêm, chính là đạo đức, là chính trị, là sự cô đọng các giá trị văn hoá đạo đức, văn hoá chính trị.
Đề cao nguyên tắc tính kỷ luật trong công tắc, tính kỷ luật trong công tác, trong sinh hoạt Đảng, trong rèn luyện tư cách đảng viên, trong đấu tranh phê bình. Chú trọng công tác kiểm tra, quản lý cán bộ, giữ mối liên hệ mật thiết với dân, dựa vào dân mà xây dựng Đảng, mà giáo dục cán bộ. Đó là điều đặc biệt cần thiết để xây dựng văn hóa chính trị trong Đảng, nhà nước, hệ thống chính trị và trong xã hội nói chung.
C.KẾT LUẬN
Văn hóa chính trị là một bộ phận của chính trị nước ta. Nó có vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát huy tính tự giác, chủ động, sáng tạo của các chủ thể trong hoạt động chính trị. Chính văn hóa chính trị đã góp phần nâng cao nhận thức, rèn luyện bản lĩnh chính trị; định hướng và điều chỉnh hành vi con người trong quan hệ chính trị - xã hội.
Ở nước ta, văn hóa chính trị được hình thành và phát triển từ rất sớm dựa trên sự kế thừa những truyền thống của dân tộc và nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì thế mà văn hóa chính trị nước ta rất phong phú và đa dạng. Việc tìm hiểu rõ những giá trị tiêu biểu của văn hóa chính trị sẽ góp phần làm rõ đặc điểm văn hóa chính trị nước ta. Qua đó sẽ tạo điều kiện phát huy nhưng ưu điểm và khắc phục những mặt còn hạn chế làm động lực thúc đẩy sự ổn định chính trị, phát triển xã hội. Chính vì vậy nên nhóm tác giả đã tiến hành làm đề tài: “Văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay” góp phần vào việc làm rõ hơn đặc điểm của văn hóa chính trị nước ta.
Trong quá trình làm việc, do nhóm tác giả còn hạn chế về hiểu biết và kiến thức nên không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự đóng góp, chia sẻ của thầy (cô) và các bạn.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Bùi Trọng Tài – Lê Văn Cảnh, “Tập bài giảng Chính trị học đại cương”
2.Bùi Văn Nam Sơn, “Văn hóa và văn hóa chính trị”,
3. Trần Ngọc Thêm, giáo trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam”
4. với “Văn hóa chính trị Việt Nam trong thời kì đổi mới”.