Tiểu luận cồng chiêng tây nguyên | Xemtailieu

Tiểu luận cồng chiêng tây nguyên

  • doc

  • 21

    trang

LÔØI NOÙI ÑAÀU

Mục đích nghiên cứu đề tài :

Nhằm tìm hiểu về những di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam nói

chung và của đồng bào Tây Nguyên nói riêng, chúng em đã chọn đề tài

“cồng chiêng Tây Nguyên” để nghiên cứu. Mục đích tiếp theo là để tiếp

thu những tinh hoa, những cái hay trong âm nhạc cồng chiêng của người

Tây Nguyên đến mức độ nào mà UNESCO phải công nhận là 1 di sản văn

hóa – chỉ ở cồng chiêng Tây Nguyên (Dù ở ĐNÁ có rất nhiều nước có

cồng chiêng nhưng chỉ riêng cồng chiêng Tây Nguyên là được công

nhận).

Trích dẫn về cồng chiêng Tây Nguyên

Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận

là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 15 tháng 11 năm

2005. Sau Nhã nhạc cung đình Huế, đây là di sản thứ hai của Việt Nam được

nhận danh hiệu này. Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải dài

trên 5 tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm

Đồng.

Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa và lịch

sử rất lâu đời. Từ xa xưa, cồng chiêng gắn bó với mọi hoạt động của cộng

đồng cư dân Tây Nguyên. Chính đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên đã

thổi hồn và tiếp thêm sức sống cho cồng chiêng Tây Nguyên để những âm

thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với

tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòng người Tây Nguyên, sống mãi cùng

với đất trời và con người Tây Nguyên. Cồng chiêng Tây Nguyên là bằng

chứng độc đáo, là nét đặc trưng của truyền thống văn hóa các dân tộc

Tây Nguyên

Phạm vi nghiên cứu đề tài :

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng em tập trung nghiên cứu chủ

yếu về “ Nguồn gốc và đặc điểm của Không gian văn hóa cồng chiêng ” ,

bên cạnh đó em cũng làm rõ thêm những mặt mình cần bảo tồn và phát

huy để cho di sản “cồng chiêng Tây Nguyên” không bị mai một và ngày

càng hoàn thiện hơn….

1

Mục lục

Trang

I. NGUỒN GỐC CỒNG CHIÊN TÂY NGUYÊN…………………………….. … 3

II.KHÔNG GIAN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN …………5

1. Những ngày hội cồng chiêng Tây Nguyên : ………………………. 5

2. Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên : …………………….7

3. Những bước chuyển mình của văn hoá Cồng chiêng…………………….10

4. Cồng chiêng Tây Nguyên – Kiệt tác văn hóa của nhân loại…………11

III. ĐỊNH HƯỚNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY…………………………….15

1. Không nên biến cồng chiêng thành chuyên nghiệp và cung đình…….15

2. Một nghệ thuật đang bị đe dọa………………………………………….16

3. Bảo tồn và phát huy………………………………………………………17

2

I. NGUỒN GỐC CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN

Trước những ý kiến băn khoăn về “căn nguyên”, “cội rễ” của văn hóa

cồng chiêng Tây Nguyên, nhạc sĩ Tô Vũ – một trong những chuyên gia ở Việt

Nam có thâm niên cao nhất về lĩnh vực này – đã cho rằng, căn cứ vào nhiều

yếu tố, có thể khẳng định rằng chiêng Tây Nguyên là cái nôi của cồng chiêng

Đông-Nam Á.

Một “Vua chiêng” ở Kông chro, Gia Lai vẫn lưu giữ

những bộ chiêng quý giá do tổ tiên để lại.

Nghiên cứu cồng chiêng từ năm 1978, nhạc sĩ Tô vũ đã phát hiện ra nhiều điều

thú vị. Về cội nguồn, cồng chiêng là “hậu duệ” của đàn đá – trước khi có văn hóa

đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá theo “quy trình tiến hóa” cồng đá,

chiêng đá, chiêng… tre, rồi mới tới cồng đồng, chiêng đồng…

Cồng chiêng Tây Nguyên là cái nôi của cồng chiêng Đông-Nam Á, bởi những

yếu tố sau: Về vết tích hiện vật, những nét chạm khắc biểu hiện người đánh cồng

chiêng (dáng đánh rất giống người Tây Nguyên) có trên trống đồng Đông Sơn

vốn có lịch sử

hơn 4.000 năm. Về lối đánh, “rất nguyên thủy”, người Tây Nguyên vẫn “mỗi

người một cái”, chưa kết thành dàn do một nghệ sĩ biểu diễn như các dân tộc ở

Thái-lan, Malaysia, Lào, Campuchia (theo nguyên lý phát triển từ đơn giản đến

phức tạp; càng đơn giản càng gần ý nghĩa là “vật tổ”); hình dáng cồng chiêng

cũng thế, chưa phát triển theo dạng trống (tức chiêng có đế, vuông hoặc tròn).

Về mục đích, cồng chiêng Tây Nguyên vẫn mang ý nghĩa từ thuở sơ khai của

nó: Dùng để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín ngưỡng – là phương

tiện giao tiếp với siêu nhiên… qua các lễ thổi tai, bỏ mả v.v…, nghĩa là vẫn thuần

chức năng phục vụ đời sống con người. Trong khi ở các vùng Đông -Nam Á

3

khác, cồng chiêng đã “tiến hóa” đến mức thành phương tiện biểu diễn cung đình,

mang chức năng giải trí.

Xét về lịch sử tiến hóa, mỗi sự biến chuyển tính năng nhạc khí (ở thời bấy giờ)

diễn ra trong hàng mấy trăm năm. Và có thể khẳng định, căn cứ trên vết tích

trống đồng (mà những gì quý giá mới được khắc lên đó), cồng chiêng Tây

Nguyên đã có ít nhất 2.000 năm.

Trở lại vấn đề lịch sử. Năm 43 sau Công nguyên, khi cuộc khởi nghĩa Hai Bà

Trưng thất bại, tướng Mã Viện của Nam Hán đã cho tịch thu tất cả đồ đồng (bấy

giờ chỉ có cồng chiêng, được coi là vật thiêng của người Việt) đem đúc trụ chôn

ở vùng biên giới, nhằm tiêu diệt ý chí của người Việt.

Đây là cơ sở giải thích việc thất tán mạnh mẽ loại nhạc khí này trong quá khứ đời

sống tinh thần người Việt, song cũng có thể hiểu rằng tổ tiên người Việt đã đem

cất giấu ở vùng núi (bắt đầu sự “giao thoa” văn hóa cồng chiêng với các tộc

người khác).

Cồng – chiêng

Đồng thời, dựa vào tài liệu khảo cổ về nguồn gốc tộc người và ngữ hệ ở Việt

Nam, vốn từ họ Nam Á và Nam Đảo (thậm chí gần đây còn có luận điểm gây bất

ngờ rằng trống đồng Việt có nguồn gốc từ Trường Sơn), có thể khẳng định rằng

cộng đồng Việt, Tày, các tộc người Tây Nguyên đã từng ở với nhau rất lâu đời, vì

vậy sự “giao thoa” văn hóa cồng chiêng là hiển nhiên.

Suốt lịch sử văn hóa của mình, người Tây Nguyên không chế tác mà mua cồng

chiêng từ người Kinh vùng Quảng Nam, rồi về “nắn” lại thanh âm theo cách của

mình – đó là những hoạt động “giao thương” theo lối hàng đổi hàng có từ hàng

nghìn năm nay. Ngay cả “chiêng Lào” mà người Tây Nguyên sở hữu cũng không

phải được chế tác từ Lào mà chỉ là hàng hóa trao đổi, mua bán từ nơi khác về Tây

Nguyên. Từ đó dẫn đến quan điểm nhất quán rằng cồng chiêng Tây Nguyên là

cồng chiêng việt

4

Lại có 1 ý kiến khác cho rằng :

Mỗi con người Tây nguyên là một nghệ sĩ, nhạc sĩ thực thụ, có thể vừa hát vừa

múa, sử dụng từng nhạc cụ hay tham gia vào dàn nhạc cồng chiêng một cách

thành thạo. Khả năng âm nhạc của người Tây nguyên được phát triển tự nhiên và

phổ biến trong cộng đồng. Ngày trước, nam nữ đến tuổi trưởng thành mà không

biết chơi cồng chiêng còn khó lập gia đình!

“Cái nôi của cồng chiêng rất có thể là Trường Sơn – Tây nguyên” là giả định

của GS Jose Maceda (Philippines) cách đây hơn 20 năm. Đông Sơn đã trở thành

tên gọi cho cả nền văn hóa thời kỳ đồ đồng cách đây khoảng 3.500 năm trong khu

vực Đông Nam Á. Hiện người Mường ở Thanh Hóa, Hòa Bình vẫn còn những dàn

cồng chiêng đến 12 chiếc.

Một giả thiết đã được GS Tô Vũ xác nhận: cồng chiêng rất có thể có nguồn gốc

Việt – Mường, nhưng về sau trong quá trình dài Hán hóa đã bị mai một đi; chỉ còn

lại nhánh “trốn lên núi” (Mường) là lưu giữ được… Một thực tế củng cố thêm giả

thiết này là đồng bào dân tộc Tây nguyên vẫn chưa tự chế tác được nhạc cụ cồng

chiêng mà phải mua của người Kinh, người Lào, Campuchia.

II. KHÔNG GIAN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY

NGUYÊN :

1.

Những ngày hội cồng chiêng Tây Nguyên :

Lễ đón nhận bằng Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên là Kiệt

tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại sẽ được tổ chức trang trọng vào

tối 28/3 tới tại TP Pleiku – Gia Lai. Đây cũng chính là tâm điểm của Liên

hoan Cồng chiêng chào mừng đại hội đại đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên

(28-29/3).

5

Lễ hội cồng chiêng ở Tây Nguyên

Bộ Văn hóa – Thông tin đã chỉ đạo Viện Văn hoá – Thông tin chủ trì tổ chức

Lễ đón nhận sự kiện văn hoá quan trọng này. Theo đó, Cục Văn hoá Thông tin

Cơ sở sẽ chỉ đạo tổ chức các hoạt động liên quan trên địa bàn 5 tỉnh Tây Nguyên;

đồng thời chủ trì tổ chức đêm liên hoan giao lưu văn hoá cồng chiêng mừng

thành công của Đại hội Đại đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên tại công viên Diên

Hồng, thành phố Pleiku. Trung tâm Triển lãm Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam có

trách nhiệm phối hợp với Cục Văn hoá – Thông tin cơ sở tổ chức các hoạt động

triển lãm tại trung tâm văn hoá – thể

thao thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

và các tỉnh Tây Nguyên. Kịch bản

của buổi lễ đón nhận bằng Di sản sẽ

do Viện Văn hoá thông tin đảm

nhiệm.

Cùng với lễ đón nhận bằng vào đêm

28/3, các hoạt động đáng chú ý khác

là Giao lưu văn hoá cồng chiêng,

Triển lãm về đặc trưng văn hoá và

thành tựu đổi mới của Tây Nguyên,

Tuần lễ phim Việt Nam, dựng bia

ghi thư của Bác Hồ gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku năm

1946. Cục Điện Ảnh sẽ chủ trì Tuần phim Việt Nam, với các phim như Đất nước

đứng lên, Hồn chiêng, Tiếng cồng định mệnh…

Diễn ra trên khắp TP. Pleiku trong khoảng một tuần vào trung tuần tháng 3,

liên hoan cồng chiêng sẽ tạo nên một không gian thấm đẫm chất lửa truyền thống

6

Tây Nguyên. Cồng chiêng sẽ được chính các nghệ nhân dân tộc trình diễn với các

giai điệu gốc. 15 đội cồng chiêng của 5 tỉnh Tây Nguyên sẽ diễn tấu các giai điệu

xoay quanh chu kỳ vòng đời của con người, chu kỳ một năm sản xuất… Đội ngũ

nghệ nhân cao tuổi – những người ít ỏi còn lại đang nắm giữ các bí quyết và làn

điệu cồng chiêng truyền thống – sẽ là nhân tố nắm giữ linh hồn của những buổi

trình diễn này.

Liên hoan Cồng chiêng cũng là cơ hội để những chủ nhân đích thực của Không

gian văn hoá này thể hiện niềm tự hào của mình trước cả nhân loại. Không có

nhiều yếu tố cải biên như cồng chiêng ở các lễ hội khác; ở đây, những giá trị gốc,

cổ truyền được tôn vinh.

Tổ chức UNESCO đã công nhận cồng chiêng Tây Nguyên là “Di sản văn hóa

phi vật thể và truyền khẩu nhân loại”. Đây là niềm tự hào không chỉ của riêng

vùng đất Tây Nguyên mà còn là niềm tự hào của nền văn hóa Việt Nam, mở ra

nhiều cơ hội hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, tạo điều kiện để gìn giữ vốn văn

hóa truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.

2. Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên

Ai đã đặt chân lên đất Tây Nguyên đều bị cuốn hút mạnh mẽ bởi những

cuộc trình diễn cồng chiêng. Không chỉ trong tháng “ning nơng”, “mùa con

ong đi lấy mật”, quanh năm ở cao nguyên đất đỏ tràn ngập tiếng cồng chiêng.

Tiếng cồng chiêng theo suốt cuộc đời con người, theo suốt vòng đời cây trồng…

Tiếng cồng chiêng trầm hùng trong tiếng reo hò của cộng đồng khi những

chàng trai đâm trâu để hiến tế thần linh ngày bỏ mả; thổn thức trong lễ cầu sức

khỏe; da diết ước mong trong ngày lễ phát rẫy trỉa lúa; phấn khởi, mừng vui trong

ngày lễ mừng thần lúa. Tiếng cồng chiêng luôn đem đến một cảm xúc rạo rực

khó tả trong mỗi con người, để họ tìm đến với nhau.

Âm thanh cồng chiêng là sợi dây kết nối cá thể với cộng đồng, cộng đồng với

cộng đồng một cách linh thiêng và thế tục, cộng niệm và cộng cảm. Chiêng cồng

đã trở thành biểu tượng cuộc sống các dân tộc Tây Nguyên.

Bắt rễ từ truyền thống văn hóa Ðông Sơn, văn hóa âm nhạc cồng chiêng Tây

Nguyên có lịch sử lâu đời, là phương tiện khẳng định cộng đồng và bản sắc văn

hóa dân tộc của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên. Khác với cồng chiêng của

các nước trong khu vực, cồng chiêng Tây Nguyên chưa bị chuyên nghiệp hóa,

vẫn gắn bó với p’ lei, p’ lơi, buôn, bon, vẹn nguyên dáng vẻ dân gian, thô mộc mà

7

chắc khỏe, tinh tế và sâu lắng nơi núi rừng đại ngàn, cùng với tiếng thác nước ào

ạt chảy ngày đêm, tạo nên một không gian văn hóa đậm chất Tây Nguyên.

Giá trị nổi bật của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là chứa đựng

những sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân loại. Tài nghệ của cư dân Tây

Nguyên là biến một sản phẩm hàng hóa vốn không được chính họ chế tạo thành

một nhạc cụ tuyệt vời.

Người dân chưa biết đến vật lý học, mà lại chỉnh sửa chiêng rất tài tình. Với

đôi tai âm nhạc nhạy cảm, họ sửa chiêng, chỉnh chiêng với trình độ thẩm âm tinh

tế, với hiểu biết cặn kẽ về chế độ rung và lan truyền âm thanh trên mặt chiêng

trong không gian. Ðây là sáng tạo lớn của các dân tộc Tây Nguyên.

Ðể đáp ứng các yêu cầu thể hiện âm thanh khác nhau, đồng bào đã biên chế dàn

chiêng cồng không giống nhau: có thể là 6, 8, thậm chí 14 chiếc.

Ở hầu hết các dân tộc Tây Nguyên, nghệ nhân đánh chiêng cồng phải là nam

giới. Riêng ở ngành Bin, dân tộc Ê Ðê, chỉ nữ giới mới được đánh cồng; người

Mạ thì cả hai giới đều được đánh chiêng, nhưng thường chia làm hai dàn: chiêng

nam, chiêng nữ. Ngoài ra, ở nhiều dân tộc, dàn múa gồm nhiều thiếu nữ trẻ luôn

đồng hành với bản nhạc chiêng. Các điệu múa được coi là thành tố không thể

thiếu khi diễn tấu các bài chiêng cồng.

Đội chiêng xã Hyao, huyện Krông Pa (Gia Lai).

Sinh hoạt văn hóa cồng chiêng của các dân tộc ở Tây Nguyên là sinh hoạt

cộng đồng. Người nghệ nhân Tây Nguyên đánh chiêng theo hai cách chính: dùng

nắm tay đấm hay dùng dùi gõ vào chiêng. Là nhạc cụ nghi lễ, các bài nhạc cồng

chiêng trước hết là đáp ứng yêu cầu của mỗi lễ thức và là một thành tố hữu cơ

của lễ thức đó. Mỗi nghi lễ có ít nhất một bài nhạc riêng cho nó. Văn hóa và âm

nhạc cồng chiêng thể hiện tài năng sáng tạo văn hóa – nghệ thuật ở đỉnh cao của

các dân tộc Tây Nguyên.

8

Và để bảo tồn, phát huy giá trị của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên, một hệ thống công việc cần phải thực hiện là sưu tầm và nghiên cứu di

sản văn hóa và âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên từ các bài chiêng, kỹ xảo chỉnh

chiêng đến nghệ thuật trình diễn chiêng, múa xoang, v.v.

Bảo tồn và phục hồi các sinh hoạt văn hóa, lễ hội gắn với vòng đời người và vòng đời

cây trồng ở các cộng đồng dân tộc thiểu số tại năm tỉnh Tây Nguyên, trên quan điểm kế

thừa có chọn lọc; xây dựng phòng lưu trữ di sản văn hóa cồng chiêng. Làm tốt việc

truyền dạy và quảng bá giá trị của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nhất là

ở một số trường nghệ thuật ở hai tỉnh Gia Lai, Ðác Lắc, Trường đại học Tây Nguyên.

Lễ đâm trâu diễn ra trong âm thanh cồng chiêng

Đánh cồng chiêng cổ vũ cho ngày hội đua

voi ở Bản Đôn (Đăk Lăk)

Các thanh niên Giarai luyện tập nghệ thuật đánh

cồng chiêng

9

Lễ bỏ mả của người Bana

3. Những bước chuyển mình của văn hoá Cồng chiêng

10

Ngày 13-10-2004, Viện Văn hóa – Thông tin cùng các nghệ nhân Tây Nguyên

gấp rút hoạch định chương trình hành động 5 năm nhằm điều tra, sưu tầm,

nghiên cứu bảo tồn di sản văn hóa cồng chiêng. Đây cũng là một bước trong

kế hoạch chuẩn bị hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận cồng chiêng Tây

Nguyên là di sản của nhân loại.

a. Từ nguy cơ mai một của văn hoá Cồng chiêng

Hiện nay, nhiều người trong các buôn làng M’nông không còn biết hết các nghi lễ

truyền thống. Việc tập hợp đủ người đánh chiêng cũng không dễ dàng như xưa

bởi trong một buôn, mọi người lại theo

những tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau.

Trong khi đó, bản thân những bản nhạc

cồng chiêng còn giữ lại đến nay cũng quá

ít ỏi. Với lớp trẻ, nhiều bài cồng chiêng

trở nên đơn điệu, nhàm chán, khó hiểu.

Người ta không thể thực hiện những bài

cồng chiêng cúng lúa trên rẫy giờ đã

trồng toàn cà phê, tiêu. Nhiều gia đình

mang bán những bộ cồng chiêng

quý để lấy vốn sản xuất và giải quyết đời sống.

Nhịp sống hiện đại có sức hút mạnh mẽ với lớp trẻ. Không ít thanh niên con em

dân tộc Ê Đê, M’ nông tuy được giáo dục truyền thống dân tộc, nhưng vẫn bị ảnh

hưởng của văn hóa hiện đại của phương Tây, coi sinh hoạt văn hóa cồng chiêng

của buôn làng mình là lạc hậu và không phù hợp với hiện đại. Thậm chí họ vận

động người già mang bán những bộ cồng chiêng quý để mua những thiết bị âm

thanh điện tử hiện đại.

Trước đây, một số nghệ nhân biết sử dụng cồng chiêng ở các buôn làng tỉnh Đác

Lắc khá nhiều (trung bình mỗi buôn từ 50 – 70 người), nhưng hiện nay, mỗi buôn

chỉ còn chừng dăm bảy người.

b. Đến kế hoạch bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể

Từ trước đến nay, công tác quản lý về văn hóa cồng chiêng chưa được đặt ra một

cách cụ thể. Chúng ta chỉ coi trọng các hoạt động quản lý video, băng nhạc, văn

hoá phẩm… mà bỏ quên công tác quản lý cồng chiêng. Đội ngũ cán bộ quản lý

chuyên trách về công tác này hầu như không có. Bên cạnh đó, các nhà quản lý

cũng chưa tuyên truyền cho nhân dân hiểu được giá trị văn hóa cồng chiêng của

dân tộc mình để cùng gìn giữ, bảo vệ phát huy nó trong nền văn hóa cộng đồng.

11

Trước thực trạng này, ngày 13-10-2004, Viện Văn hóa – Thông tin cùng các nghệ

nhân cồng chiêng Tây Nguyên đã gấp rút hoạch định Chương trình hành động

năm năm tới với phương hướng tập trung vào việc điều tra, sưu tầm, nghiên cứu,

phục hồi, bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng trong không gian văn hóa

Tây Nguyên. Theo đó, khoảng 500.000 USD sẽ được chi cho việc nghiên cứu

bảo tồn di sản này trong năm năm (2005 – 2009).

Theo thống kê, năm 1993, Đác Lắc có 4.675 bộ cồng chiêng, Đác Nông có

hơn 100 bộ cồng chiêng. Năm 2003, Đác Lắc chỉ còn 3.825 bộ và con số này ở

Đắc Nông là 360 bộ.

Ngoài việc đẩy mạnh công tác khảo cứu điền dã, trao đổi với các nghệ nhân, xây

dựng phòng lưu trữ di sản văn hóa cồng chiêng, sẽ còn tổ chức đội ngũ nghiên

cứu có chuyên môn về âm nhạc truyền thống, thành lập xưởng chế tác cồng

chiêng… Bảo tồn, phát huy di sản cồng chiêng Tây Nguyên còn được thể hiện cụ

thể bằng việc đẩy mạnh công tác đào tạo trong các trường nghệ thuật của hai tỉnh

Gia Lai, Đác Lắc, trường ĐH Tây Nguyên về cồng chiêng.

Theo GS-TS Tô Ngọc Thanh – Tổng Thư ký Hội Văn nghệ Dân gian và Phó

Tổng thư ký Hội Di sản: ” Trước mắt chúng tôi sẽ ngăn chặn có hiệu quả sự mai

một, nguy cơ biến mất di sản văn hóa cồng chiêng; sẽ phấn đấu để có một giáo

trình cồng chiêng và không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trong các

trường này”.

4. Cồng chiêng Tây Nguyên – Kiệt tác văn hóa của nhân loại

Ngày 25-11-2005, Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam đã được

UNESCO chính thức công nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của

nhân loại. Sau Nhã nhạc Cung đình Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn

hóa phi vật thể thứ hai của Việt Nam được tôn vinh là di sản của thế giới. Điều

đó khẳng định Việt Nam là một đất nước có bề dày truyền thống văn hóa, có

nhiều nghệ thuật truyền thống cần được bảo tồn, gìn giữ và phát huy.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum,

Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn hóa đặc

sắc này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên: Bana, Xêđăng, Mnông, Cơho,

Rơmăm, Êđê, Giarai… Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người

Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui,

nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ.

12

Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa và lịch sử rất

lâu đời. Về cội nguồn, có nhà nghiên cứu cho rằng, cồng chiêng là “hậu duệ” của

đàn đá. trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá: cồng đá,

chiêng đá… tre, rồi tới thời đại đồ đồng, mới có chiêng đồng… Từ thuở sơ khai,

cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín

ngưỡng – là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên… âm thanh khi ngân nga sâu

lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng

lòng người, sống mãi cùng với đất trời và con người Tây Nguyên. Tất cả các lễ

hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ

mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu.. . hay trong một buổi nghe khan…

đều phải có tiếng cồng. Tiếng chiêng dài hơn đời người, tiếng chiêng nối liền, kết

dính những thế hệ.

Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng đều

ẩn chứa một vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao.

Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Đã

có thời một chiếc chiêng giá trị bằng hai con voi hoặc 20 con trâu. Vào những

ngày hội, hình ảnh những vòng người nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên

những vò rượu cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho Tây

Nguyên một không gian lãng mạn và huyền ảo. Cồng chiêng do vậy góp phần tạo

nên những sử thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn,

vừa hùng tráng.

Cồng chiêng đã đi vào sử thi Tây Nguyên như để khẳng định tính trường tồn

của loại nhạc cụ này: “Hãy đánh những chiêng âm thanh nhất, những chiêng kêu

trầm nhất. Đánh nhè nhẹ cho gió đưa xuống đất. Đánh cho tiếng chiêng vang xa

13

khắp xứ. Đánh cho tiếng chiêng luồn qua sàn lan đi xa. Đánh cho tiếng chiêng

vượt qua nhà vọng lên trời. Đánh cho khỉ trên cây cũng quên bám chặt vào cành

đến phải ngã xuống đất. Đánh cho ma quỷ mê mải nghe đến quên làm hại con

người. Đánh cho chuột sóc quên đào hang, cho rắn nằm ngay đơ, cho thỏ phải

giật mình, cho hươu nai đứng nghe quên ăn cỏ, cho tất cả chỉ còn lắng nghe

tiếng chiêng của Đam San…”.

Tồn tại trên mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ đã hàng ngàn đời nay, nghệ thuật

cồng chiêng ở đây đã phát triển đến một trình độ cao. Cồng chiêng Tây Nguyên

rất đa dạng, phong phú.

Hiện nay, tại hầu hết các buôn làng Tây Nguyên đều có những đội cồng chiêng

phục vụ đồng bào trong sinh hoạt cộng đồng, trong dịp hội hè. Vào ngày lễ tết,

hình ảnh quen thuộc ”bên ngọn lửa thiêng, những vòng người say sưa múa hát

trong tiếng cồng chiêng vang động núi rừng” lại xuất hiện trên khắp các buôn

làng. Các nghệ nhân dân gian diễn tấu cồng chiêng kết hợp với nhau rất hài hòa,

tạo nên những bản nhạc với các tiết tấu, hòa thanh rất phong phú, mang sắc thái

riêng với muôn vàn cung bậc. Mỗi dân tộc đều có những bản nhạc cồng chiêng

riêng để diễn tả vẻ đẹp thiên nhiên, khát vọng của con người… Người Giarai có

các bài chiêng Juan, Trum vang… Người Bana có các bài chiêng: Xa Trăng,

Sakapo, Atâu, Tơrơi… Âm thanh của cồng chiêng còn là chất men lôi cuốn gái

trai vào những điệu múa hào hứng của cả cộng đồng trong những ngày hội của

buôn làng. Đây là sinh hoạt văn hóa dân gian nổi bật nhất ở nhiều dân tộc Tây

Nguyên.

14

Âm nhạc của cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện trình độ điêu luyện của người

chơi trong việc áp dụng những kỹ năng đánh chiêng và kỹ năng chế tác. Từ việc

chỉnh chiêng đến biên chế thành dàn nhạc, cách chơi, cách trình diễn, những

người dân dẫu không qua trường lớp đào tạo vẫn thể hiện được những cách chơi

điêu luyện tuyệt vời. Với người Tây Nguyên, cồng chiêng và văn hóa cồng

chiêng là tài sản vô giá. Âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên không những là một

giá trị nghệ thuật đã từ lâu được khẳng định trong đời sống xã hội mà còn là kết

tinh của hồn thiêng sông núi qua bao thế hệ. Cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ

có ý nghĩa về mặt vật chất cũng như những giá trị về nghệ thuật đơn thuần mà nó

còn là “tiếng nói” của con người và của thần linh theo quan niệm “vạn vật hữu

linh”.

Mỗi một dàn cồng chiêng là tiếng nói tâm linh, tâm hồn của người Tây

Nguyên, để diễn tả những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống lao động và sinh

hoạt hàng ngày của họ. Các tộc người ở Tây Nguyên sử dụng cồng chiêng theo

cách thức riêng để chơi những bản nhạc của riêng dân tộc mình. Trải qua bao

năm tháng, cồng chiêng đã trở thành nét văn hoá đặc trưng, đầy sức quyến rũ.

Cồng chiêng chính là cuộc sống của người Tây Nguyên. Nghe cồng chiêng thì

thấy được cả không gian săn bắn, không gian làm rẫy, không gian lễ hội… Tây

Nguyên.

Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền lại có những đặc trưng riêng của cồng chiêng.

Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ, hoặc dùng theo dàn, theo bộ từ 2 đến 12

chiếc, cũng có bộ 18 đến 20 chiếc như bộ chiêng của người Giarai. Dàn cồng

chiêng Tây Nguyên được tổ chức như một dàn nhạc có thể diễn tấu những bản

nhạc đa âm với các hình thức hòa điệu khác nhau. Điều đặc biệt trong dàn nhạc

15

này mỗi người chỉ đánh một chiếc cồng, hoặc chiêng (cồng là loại có núm,

chiêng không có núm).

Trong lễ công bố Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác văn hóa phi vật

thể của nhân loại, ông Koichiro Matsuura – Tổng Giám đốc UNESCO đã phát

biểu: “Tôi đã được thưởng thức loại hình âm nhạc cồng chiêng rất riêng của Việt

Nam và cũng được thấy những nhạc cụ rất độc đáo trong dàn nhạc cồng chiêng

của các dân tộc Tây Nguyên. Đây là nét văn hóa truyền thống rất riêng của Việt

Nam, rất tuyệt vời và đặc sắc. Việc công nhân Danh hiệu Kiệt tác di sản văn hóa

phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại đối với Văn hóa Cồng chiêng Tây

Nguyên là rất xứng đáng”.

III. ĐỊNH HƯỚNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY

1. Không nên biến cồng chiêng thành chuyên nghiệp và cung đình

“Cồng chiêng vẫn ở trong tay người dân, tức là vẫn của cộng đồng, là tài

sản của toàn dân chứ không bó hẹp của tầng lớp quý tộc như các nước khác”.

Nhiều quốc gia Đông Nam Á có cồng chiêng, nhưng chỉ có Cồng chiêng Tây Nguyên

(CCTN) được UNESCO công nhận, điều này chứng minh giá trị văn hoá phi vật thể của

loại nhạc cụ này trong dòng chảy văn hoá nhân loại.

Dân góp lợn mừng mùa lúa mới trong Festival cồng chiêng quốc tế 2009

Cồng chiêng rất phổ biến ở Đông Nam Á, thậm chí nó là một nét văn hoá có

tính chất cơ tầng của khu vực này. Nhưng nhiều nước đã biến văn hoá cồng

chiêng của mình thành chuyên nghiệp và cung đình, như Indonesia, Thái Lan,

16

Malaixia, Mianma, Lào. Còn riêng ở VN, cồng chiêng vẫn ở trong tay người dân,

tức là vẫn của cộng đồng, là tài sản của toàn dân chứ không bó hẹp của tầng lớp

quý tộc như các nước khác. Thêm nữa, nghệ thuật cồng chiêng gắn chặt với đời

sống con người. Người ta có thể ví “cuộc đời dài như tiếng chiêng”. Rồi bất cứ

hiện tượng hệ trọng nào đối với đời sống đều có sự góp mặt của chiêng cồng.

2. Một nghệ thuật đang bị đe dọa

Giữa những năm 1970, ước tính tỉnh Đắc Lắc có khoảng 1 vạn bộ cồng chiêng,

trong đó người Êđê chiếm gần 7.000 bộ. Mỗi gia đình hầu hết đều có cồng chiêng.

Nhà khá giả có tới hàng chục bộ. Sau hơn một thập kỷ “chảy máu”, đến năm 1993,

toàn tỉnh còn hơn 4.675 bộ, đến 2003 còn 3.825 bộ = 27.428 chiếc chiêng.

Như vậy trong 10 năm gần đây, Đắc Lắc mất 850 bộ cồng chiêng, nhiều bộ đã qua

các lò đúc của người Kinh hóa thân thành đỉnh đồng, chân hương cùng các vật

dụng khác. Thời phong kiến, nguyên liệu khan hiếm, cồng chiêng từng được đúc

bằng tiền. Để làm được một bộ chiêng, phải nung chảy hàng chục cân tiền! Hiện

người Gia Rai vẫn lưu giữ được nhiều bộ chiêng như vậy, họ gọi chúng là chiêng

Bảo Đại.

Nhà nghiên cứu Phạm Cao Đạt (Kontum) còn phát hiện ra hiện tượng “chảy

máu ngược”. Từ chuyện tặng nhau cồng

chiêng, rồi tặng tiền để đồng bào mua,

có huyện đã ra hẳn nghị quyết trích

ngân sách cho mỗi làng dân tộc một bộ

cồng chiêng. Và họ cử người Kinh đi

mua thứ chiêng bày la liệt dọc quốc lộ

1A qua Quảng Nam – Đà Nẵng. Trong

quá trình vận chuyển lẫn lộn bộ nọ với

bộ kia rồi cứ đếm đủ mỗi làng 11 chiếc

là cấp phát. Cao độ sai hết, bộ chiêng

chỉ có giá trị… đồng nát. Chưa đầy hai

năm, họ đã mua về 31 bộ như thế và

báo cáo rằng đã thực hiện nghị quyết

nghiêm chỉnh: 100% làng đã có chiêng

mới!

Vẫn Phạm Cao Đạt cảnh báo: “Việc

tách cồng chiêng ra khỏi môi trường sinh hoạt của nó cần hết sức thận trọng. Biến

nghệ nhân phải thành diễn viên, thậm chí còn dắt tay chỉ việc cho họ, sân khấu hóa

17

tuốt tuột. Cái quí nhất là sự cộng cảm của sân khấu dân gian không còn. Sinh hoạt

cồng chiêng kiểu đó thật sự vô hồn, không còn ngõ nào để nghệ nhân ngẫu hứng

sáng tạo cả…”.

Sở Văn hóa – thông tin Lâm Đồng dùng một khái niệm khác để chỉ việc này:

“Một khi cái thiêng bị giải, đồng nghĩa với cơ hội để chiêng cất lời không còn

nguyên vẹn nữa, chiêng trở về với bản thể: thuần túy là nhạc cụ tự thân vang, hoặc

có khi là thứ đồng nát rẻ tiền”. Nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan lại có một góc

nhìn khác: “Vì tính nghệ thuật độc lập nên ngày hôm nay cồng chiêng Tây nguyên

đã không chỉ lệ thuộc vào không gian văn hóa tín ngưỡng như trước đây, mà đã đủ

khả năng để bước lên không gian của nghệ thuật có bục diễn”.

Năm 1974, một dàn chiêng lạ từ huyện Măng Giang (Gia Lai) ra Hà Nội trình

tấu theo thang âm bình quân như Tây. Thì ra thanh niên dân tộc đã gò lại chiêng

cho có núm hết… để chơi nhạc mới. Cách đánh cũng được cải tiến, chỉ hai người

chơi một dàn chiêng treo. Đây chính là loại chiêng thanh niên thịnh hành vào cuối

những năm 1970 và bị các nhà nghiên cứu kịch liệt phản đối. Thời điểm ấy, các

điệu xoang cũng được biến đổi cho nhanh mạnh, rạo rực hơn…

3. Bảo tồn và phát huy

Bảo tồn, phát huy các giá trị của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

là công việc lớn, vừa cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài… Bộ Văn hóa – Thông tin

sẽ có một chương trình tổng thể và một số công việc phải thực hiện nhằm giữ gìn

và phát huy giá trị di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.

Tiếp sau Nhã nhạc cung đình Huế, ngày 25/11/2005, Không gian văn hóa cồng

chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác di sản truyền miệng và

phi vật thể của nhân loại. Ðây là niềm vui hết sức lớn lao nhưng đồng thời cũng là

một trách nhiệm mà tổ chức UNESCO đã trao cho chúng ta: Phải bảo tồn và phát

huy giá trị của Kiệt tác di sản truyền miệng và phi vật thể của nhân loại này.

Với tư cách nước chủ nhà chúng ta phải có một chương trình tổng thể với

những bước đi phù hợp điều kiện và hoàn cảnh của nước ta và của Tây Nguyên.

Ði liền theo đó là một hệ thống giải pháp cụ thể để thực hiện chương trình này.

Với trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, Bộ Văn hóa

– Thông tin dự kiến một số công việc cần phải thực hiện nhằm giữ gìn và phát huy

giá trị di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.

18

Tiếp tục công việc sưu tầm, ghi chép những bài chiêng, những sinh hoạt văn

hóa, âm nhạc gắn với cồng chiêng, các tài liệu về cồng chiêng và văn hóa cồng

chiêng Tây Nguyên để lưu giữ phục vụ cho công tác nghiên cứu, bảo tồn và phát

huy giá trị tài sản văn hóa vô cùng đặc sắc và quý giá của Không gian văn hóa

cồng chiêng Tây Nguyên.

– Ðẩy mạnh công tác tìm kiếm, tập hợp các nguồn tài liệu đã được nghiên cứu và

công bố từ trước đến nay cả ở trong nước và ngoài nước liên quan cồng chiêng và

văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Các nguồn tài liệu này hiện đang tản mát, phân

tán ở các kho lưu trữ, thư viện, tủ sách tư nhân trong và ngoài nước.

– Phục hồi và giữ gìn các sinh hoạt văn hóa, các lễ hội; tổ chức biểu diễn, giới

thiệu rộng rãi trong các cộng đồng dân cư, trên các phương tiện thông tin đại

chúng.

– Tổ chức nghiên cứu khoa học về cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên một cách hệ thống và toàn diện ở năm tỉnh Tây Nguyên và vùng phụ cận.

– Phục hồi môi trường diễn xướng cồng chiêng và sinh hoạt văn hóa cồng chiêng,

trên quan điểm kế thừa có chọn lọc, tạo điều kiện thuận lợi để các cộng đồng dân

cư khôi phục các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng lễ hội gắn với cồng chiêng theo

truyền thống của mỗi cộng đồng dân cư và có sự tham gia hướng dẫn và hợp tác

chặt chẽ của các cơ quan quản lý Nhà nước về văn hóa, nghệ thuật.

– Từng bước xây dựng phòng lưu trữ di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

được đặt tại Trung tâm Dữ liệu Di sản văn hóa, Viện Văn hóa – Thông tin và tại

bảo tàng các tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Ðác Lắc, Ðác Nông, Lâm Ðồng. Tại đây sẽ

cất giữ các tài liệu, hồ sơ, băng ghi âm, ghi hình, ảnh tài liệu, ảnh hiện trạng, v.v.

liên quan cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.

– Tổ chức đội ngũ các nhà nghiên cứu có chuyên môn về âm nhạc truyền thống, về

19

văn hóa, lịch sử Tây Nguyên. Chú trọng đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ, các nhà nghiên cứu

là người dân tộc thiểu số nhằm thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học về âm

nhạc truyền thống, văn hóa, lịch sử Tây Nguyên. Các cộng đồng p’lei, p’lơi, buôn,

bon, v.v. mở các lớp truyền dạy kinh nghiệm đánh chiêng, chỉnh chiêng cho thanh

thiếu niên, tạo cơ hội cho các nghệ nhân truyền nghề cho các thế hệ kế tiếp cả về

phương pháp, kiến thức, kinh nghiệm.

– Thành lập các khoa hoặc bộ môn đào tạo trong các trường nghệ thuật của hai tỉnh

Gia Lai, Ðác Lắc, Trường đại học Tây Nguyên về cồng chiêng và Không gian văn

hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Tổ chức việc biên soạn để sớm có giáo trình về

cồng chiêng và không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên giảng dạy trong nhà

trường.

Tăng cường công tác tuyên truyền qua các phương tiện thông tin phát thanh,

truyền hình, báo chí, ấn phẩm văn hóa, website…, để mọi người hiểu được Tây

Nguyên đang lưu giữ một tài sản văn hóa phi vật thể vô giá. Biên soạn và xuất bản

các văn hóa phẩm về Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (tờ gấp, sách

nghiên cứu, sách ảnh, đĩa CD, VCD, DVD, v.v.) để giới thiệu với mọi người, nhất

là khách du lịch trong và ngoài nước hiểu và yêu quý giá trị mang tầm nhân loại

của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.

Kêu gọi sự quan tâm nghiên cứu, giới thiệu, quảng bá; tranh thủ sự đầu tư, sự

hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài cả về kinh phí, phương

tiện, tư liệu… để thực hiện các công việc trên.

20