Tiểu luận về văn hóa chăm – Tài liệu text

Mục lục bài viết

Tiểu luận về văn hóa chăm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.49 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
I.

LỜI NÓI ĐẦU.

Đất nước Việt Nam – điểm đến đu lịch của thiên niên kỷ – đó là một lời chào của
đất nước Việt Nam chúng ta. Trải dài từ ải Name Quan đến mũi Cà Mau xa xôi.
Đất nước Việt Nam thống nhất lãnh thổ từ Bắc đến Nam chạy dài suốt biển Đông
cùng dãy núi Trường Sơn hung vĩ. Đất nước cong con hình chữ S, gánh lấy sứ
mệnh nối liền dải đất miền Trung đầy nắng và gió. Nơi đây đã từng tồn tại một nền
văn hóa vô cùng rực rỡ là nền văn hóa nơi đến của cư dân chămpa.
Chămpa nhắc đến nó chúng ta có thể hình dung ra được những giá trị văn hóa vô
cùng độc đáo còn lại cho đến ngày nay mà không ở đâu trên đất nước Việt Name
có được. là những di sản văn hóa của thế giới. Nền văn hóa của cư dân Chămpa đã
tồn tai một thời rực rỡ trong lịch sử dân tộc Việt Nam để lại những thành tựu vô
cùng quý giá.
Một vương quốc nằm ở miền đất Name Trung Bộ – nơi đây thực sự hội tụ đủ các
yếu tố cho sụ phát triển của một nền văn hóa. Với vị trí thuận lợi, cư dân đã định
cư lâu đời ở đây. Đã xây dựng cho mình một phức hợp đủ các loại hình. Trải qua
biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc. Vương quốc Chămpa vẫn tồn tại
trong một thời gian dài gần 10 thế kỷ. Bằng chính sự lao động không ệt mỏi và tài
nawg sáng tạo tuyệt vời, người Chăm đã xây dựng nền văn minh của chính họ
bằng những giá trị văn hóa độc đáo trải dài từ suốt dải đất miền Trung đầy nẵng và
gió cho đến vùng đất phía Nam trù phú của tổ quốc

NỘI DUNG
I.

Khái quát về người Chăm và đất nước Chămpa.

Người Chăm là một tộc người thuộc chủng Name Á. Ngôn ngữ cuả họ thuộc
ngữ hệ Malai-Poolinedi. Cùng với người Việt ở Bắc Bộ, các nhóm dân tộc
thuộc ngữ hệ Môn-Khơme và Malai-Polinêdi ở Name Bộ, người Chăm là một
trong những nguồn cội của các dân tộc Việt Name ngày nay.trong thời cổ đại và
trung đại, người Chăm đã có một nền văn hoá riêng rực rỡ, không thua kém bất
cứ nền văn hóa nào ở Đông Name châu Á.
Vương quốc Chămpa là vương quốc(Mandala) của các tiểu vương quốc tồn tại
gần 15 thế kỷ ( từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ XV), phan bố ở miền Trung Việt
Name từ núi đến biển, gián cách nhau bằng các đèo, từ đèo Ngang đến đèo Cả Đại Lãnh…có độc lập và liên lập, có một tổng thể văn hóa chung mà cũng có
sắc thái văn hóa vùng. Đó là 4 vùng lớn của đồng bằng nhỏ ven biển: amaravati
(địa phận các tình Quảng Bình – Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng Name – Đà
Nẵng) ; Vijaya(Quảng Ngãi, Bình Định); Kauthara(Nha Tra – Khánh Hòa) và
Panduranga( Phang Rang, Phan Thiết).
Vương quốc Chămpa qua những ghi chép trong thư tịch cổ, bia kí và những di
tích khảo cổ trên và trong long đất trùng hợp với địa bàn phân bố của văn hóa
Sa Huỳnh. Niên đại khởi đầu của vương quốc Chămpa theo thư tịch Trung Hoa
cổ là cuối thế kỷ thứ II(năm 192, Khu Liên đã lập nước Lâm Ấp ở vùng đất
Quảng Name ngày nay. Đó là nước Chămpa của ngời Chăm với đô thành sư
tử(Sximhapura – nay là Kaf Triệu, Duy Xuyên). Có thể người Hán đã hiểu đô
thành su tử thành Rừng Voi (Tượng Lâm). Ngoài ra, bia Võ Cạnh ở Nha Trang
có niên đại thuộc thế kỷ thứ II sau công nguyên cũng đã nói đến một quốc gia
do Srimara thành lập. niên đại này trùng với niên đại của khu mộ chum Gò
Đình (Đại Lãnh – Đại Lộc – Quàng Name), Lý Sơn( Quảng Ngãi).
Sự trùng hợp về không gian và thời gian, của một số loại hình hiện vật, một số
ngành nghề…cùng với suy luận logic đã cho thấy văn hóa Chămpa này nảy sinh
từ văn hóa Sa Huỳnh, người Chăm cổ là con cháu của người Sa Huỳnh cổ.

II.
1.

Đăc trưng văn hóa Chămpa.
Văn hóa nghệ thuật.

Văn hóa Ấn Độ, Campuchia và Java đều có ảnh hưởng đến văn hóa Chăm Pa.
Từ thế kỷ thứ 4 vương quốc Phù Nam ở Campuchia và miền Nam Việt Nam
ngày nay đã truyền bá văn minh Ấn Độvào xã hội Chăm. Tiếng Phạn trở thành
ngôn ngữ học thuật, và Ấn giáo, đặc biệt là Si-va giáo, trở thành quốc giáo. Từ
thế kỷ thứ 10, các thương nhân Ả Rập đã mang tôn giáo và văn hóa đạo
Hồi vào khu vực. Chăm Pa có vai trò trung chuyển quan trọng trên con đường
hồ tiêu từ vịnh Pec-xich tới miền Nam Trung quốc và sau này là con đường
thương mại trên biển của người Ả Rập, xuất phát từ bán đảo Đông Dương – nơi
xuất khẩu trầm hương. Mặc dù giữa Chăm Pa và đế quốc Khmer luôn có chiến
tranh, nhưng thương mại và văn hóa vẫn được giao lưu về cả hai phía. Hoàng
gia của hai vương quốc cũng thường xuyên lấy lẫn nhau. Chăm Pa còn có quan
hệ thương mại và văn hóa với các đế quốc hùng mạnh trên biển
như Srivijaya và sau này với Majapahit trên bán đảo Mã Lai.
2.

Tôn giáo, tín ngưỡng.

Trước khi bị vua Lê Thánh Tông chinh phục năm 1471, tôn giáo chính của
người Chăm là Ấn độ giáo, và nền văn hóa Chăm cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc
của văn minh Ấn Độ. Ấn độ giáo ở Chăm Pa chủ yếu là Si-va giáo, tức là đạo
thờ thần Shiva, và có ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo bản địa như thờ nữ
thần Đất Yan Po Nagar. Biểu tượng chính của tôn giáo Si-va của người Chăm
là linga, mukhalinga, jatalinga, linga chia tầng và kosa.


Linga (hay còn gọi là lingam) là một cột trụ có hình dương vật đại diện cho
Shiva. Các vua Chăm thường xuyên dựng và cúng các linga bằng đá để thờ
ở trung tâm các đền tháp của hoàng gia. Tên mà vua Chăm đặt cho một linga
sẽ bao gồm tên của nhà vua và đuôi “-esvara,” tức là Shiva.
Mukhalinga là một linga mà trên đó có vẽ hoặc chạm hình ảnh Shiva dưới
dạng hình người hay hình khuôn mặt.
Jatalinga là một linga mà trên đó chạm phong cách điển hình của Shiva là
kiểu tóc búi.
Linga phân tầng là một cột linga chia làm ba phần đại diện cho ba thể
(trimurti) của thượng đế trong Ấn giáo: phần dưới cùng, là một khối hình lập
phương, tượng trưng cho Brahma; phần ở giữa, là một hình lăng trụ tám mặt,
đại diện cho Vishnu; và phần trên cùng, có hình tròn, đại diện cho Shiva.
Kosa là một khối kim loại hình trụ được sử dụng để che phủ cho linga. Việc
hiến tế một kosa để trang trí cho linga là một nét đặc trung độc đáo của đạo.

Si-va của người Chăm. Các vua Chăm thường đặt tên cho các kosa đặc biệt
cũng theo cách họ tự đặt tên cho các linga.
Việc Ấn giáo là một tôn giáo chiếm ưu thế của người Chăm bị gián đoạn từ
thế kỷ 9đến thế kỷ 10 khi triều đại Indrapura (Đồng Dương ở tỉnh Quảng
Nam ngày nay) theo Phật giáo Đại thừa. Phong cách nghệ thuật Phật giáo
Chăm Pa thời Đồng Dương được công nhận là một trong những phong cách
độc đáo.
Trong thế kỷ thứ 10 và các thế kỷ sau, Ấn Độ giáo lại trở thành tôn giáo
chính của Chăm Pa. Một số nơi vẫn còn lưu giữ những công trình tôn giáo

và cũng là các công trình kiến trúc và nghệ thuật của thời kỳ này như Mỹ
Sơn, Khương Mỹ, Trà Kiệu, Chánh Lộ và Tháp Mẫm.
Hồi giáo bắt đầu xâm nhập vào Chăm Pa từ sau thế kỷ thứ 10, nhưng chỉ sau
năm 1471 thì ảnh hưởng của Hồi giáo mới rõ nét. Vào thế kỷ thứ 17 thì
hoàng gia Chăm đã theo đạo Hồi và cũng từ đó phần lớn người Chăm bắt
đầu theo đạo này, và khi vùng đất này bị sáp nhập vào Việt Nam thì phần lớn
người Chăm ở đây đã theo đạo Hồi. Phần lớn người Chăm đều là người Hồi
giáo và cũng giống như người Java ở Indonesia, họ còn chịu nhiều ảnh
hưởng của Ấn giáo. Các văn bản của Indonesia còn ghi lại câu chuyện công
chúa Darawati, một công chúa Chăm đã ảnh hưởng đến chồng là
Kertawijaya, người cai trị đời thứ bảy của Majapahit, tượng tự như câu
chuyện với Parameshwara, người đã cải đạo Hồi cho hoàng gia Majapahit.
Ngôi mộ của Putri Champa (công chúa Chăm) vẫn còn thấy ở Trowulan, nơi
xưa kia là thủ đô của Majapahit.

3.

Kiến trúc điêu khắc.

Kiến trúc Chăm Pa được phân tích qua các tháp Chăm thờ các vị thần Ấn Độ
giáo và các vị vua Chăm được hóa thần còn sót lại cũng như dấu tích của các
tòa thành cổ, tu viện phật giáo thời Indrapura. Về phong cách kiến trúc điêu
khắc các tháp được các nhà nghiên cứu thường chia ra làm nhiều thời kỳ, mỗi
một thời kỳ có những thay đổi khác nhau, dấu dấn riêng biệt của người Chăm
là kỹ thuật làm gạch kết dính để xây tháp và chạm trổ trên đá.

Cùng với nền điêu khắc của người Khmer và người Java, nền điêu khắc Chăm
Pa là một trong ba nền điêu khắc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ đạt tới tầm cỡ thế

giới. Tuy ảnh hưởng nhiều từ nền điêu khắc Ấn Độ, Java và Khmer nhưng điêu
khăc Chăm Pa vẫn có những tính độc đáo riêng. Xu thế hướng tới tượng tròn
của hầu như tất cả các hình chạm khắc dưới dạng phù điêu, trong điêu khắc
Chăm Pa rất ít có khung cảnh chung mà nhấn mạnh vào từng hình tượng, ví dụ
như bức phù điêu tiên nữ Apsara đang múa được tìm thấy ở Trà Kiệu thể hiện
bàn tay to, cánh tay cong. Chính vì thế nghệ thuật điêu khắc của Chăm Pa
mang tính ấn tượng nhiều hơn là tả thực, tính ấn tượng có thể nói là đặc điểm
Văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng vào Chăm Pa từ những thời kỳ đầu, dẫn tới các
trước tác về luật pháp, chính trị xã hội đều có mặt ở Chăm Pa, được các vua
chúa Chăm áp dụng và ưa thích.
4. chữ viết, bia ký.

Chữ bắc Phạn (Sanskrit) đã được người Chăm tiếp thu từ những thế kỷ đầu
công nguyên, các chữ viết trên bia Võ Cạnh ở thế kỷ 3 với cách viết rất gần với
kiểu viết của các bia ký vùng Amaravati ở Nam Ấn Độ, tuy nhiên chữ viết của
Chăm Pa trong hơn 10 thế kỷ tồn tại của mình cũng liên tục thay đổi tương ứng
với những thời kỳ ảnh hưởng từ các vùng khác nhau ở Ấn Độ, từ thế kỷ 6 đến
thế kỷ 8, chữ Phạn ở Chăm Pa có dạng tự vuông của vùng bắc Ấn, nhưng từ
thế kỷ 9 trở đi chữ Phạn ở Chăm Pa lại có dạng tự tròn của vùng nam Ấn, có
thể nhận định Chăm Pa là quốc gia đầu tiên có chữ viết sớm nhấtĐông Nam Á.
Xuất phát từ dạng tự của chữ Phạn, người Chăm đã bỏ các phụ ghi âm vốn
không có trong tiếng Chăm và một số ký hiệu mới được bổ sung thành một
dạng chữ Phạn-Champa, theo các nhà nghiên cứu tiếng Chăm có 65 ký hiệu và
24 chân ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo (Akhar Thrah) của Ấn Độquan
trọng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm Pa.
Theo thống kê của các học giả người Pháp vào năm 1923, số bia ký Chăm đã
được biết là 170, tất cả các bia ký Chăm đều được khắc lên đá thành những
tấm bia to và đẹp và một số bia ký khác được khắc lên tường của các tháp
Chăm. Các văn bia cổ Chăm Pa là những văn bản gần như duy nhất thể hiện ý

tưởng của các vị vua và triều đình, trong số 123 bia ký có thể hiểu được nội
dung thì 92 bia nói về Siva giáo, 5 bia về thần Brahma, 3 bia về thần Visnu, 7
bia về đức Phật và 21 bia không rõ về về tính tôn giáo.
Văn học, ghi chép.
Do chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Ấn Độ cho nên ý nghĩa văn chương
được thể hiện trong các bia ký, các tác giả bia ký cố gắng dùng lời lẽ văn hoa,
nhiều điển tích và ẩn dụ của văn học Ấn Độ để thể hiện ý tưởng của mình, vì
thế mà văn bia Chăm Pa là một mảng quan trọng nhất của văn học Chăm Pa,
các bia ký Chăm Pa bằng chữ Phạn được viết chủ yếu theo những thể thơ của
Ấn Độ, văn học Ấn Độ qua hình thức truyền khẩu trong dân gian chắc cũng có
mặt ở Chăm Pa, điều này được thế hiện qua việc người Chăm dựng đền thờ Rsi
Valmiki, người được coi là tác giả của sử thi Ramayana cũng như các bức phù
điêu thể hiện các nhân vật có trong sử thi Ramayana như chàng Rama,
nàng Sita. Ngoài bộ sử thi Ramayana, các bộ sử thi khác của Ấn Độ cũng được
phổ biến ở Chăm Pa như bộ Mahabharata và thậm chí là truyện ngụ ngôn Ấn
Độ qua bộ Bhagavata.
5.

Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung
Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 – khoảng năm 1413 được thể hiện trong
cuốn sách sau này của ông là Ying-yai Sheng-lan – Doanh Nhai Thắng Lãm, thì
văn bản ghi chép trong xã hội Chăm Pa thời kỳ này được miêu tả:

Về việc viết chữ, họ không có giấy hay bút, họ dùng [hoặc] da dê kéo mỏng
hay vỏ cây hun khói đen, và họ gấp nó lại thành hình một quyển kinh sách, với
phấn trắng, họ viết chữ để ghi lại thành tài liệu lữu trữ.
6.

Âm nhạc, ca múa.

Các cô gái Chăm trong đội vũ công Phan Rang.
Âm nhạc và ca múa có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của
người Chăm, ở các tín ngưỡng như lễ năm mới Rija Nagar, lễ Kate vào tháng 7
Chăm lịch, lễ cầu đảo, lễ mở cửa tháp. Việc dùng các hình thức nhạc cụ tùy

thuộc vào tính chất các buổi lễ và các hình thức sinh hoạt khác nhau.
Trống Baranâng và trống gineng là loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của
người Chăm. Trong nhạc cụ hơi, chiếc kèn Saranai có vị trí đặc biệt. Múa là
loại hình nghệ thuật gắn bó với người Chăm như hình với bóng rất phong phú
và độc đáo, người Chăm có các điệu múa khác nhau như: múa sinh hoạt, múa
tôn giáo, múa tập thể, múa độc diễn, múa đạo cụ và múa bóng.
7.

Tổ chức xã hội.

Cho đến nay, các công trình nghiên cứu dân tộc học và điền dã cũng như tổng
quan các nghiên cứu về xã hội nguời Chăm đều tập trung vào người Chăm hiện
đại. Đến nay chưa có một công trình nghiên cứu lịch sử nào, nhất là các công
trình dựa trên khảo cứu văn bia hay văn tịch cổ của người Chăm cho ra các kết
luận khách quan có chứng cứ về xã hội Chăm Pa cổ, tuy nhiên từ những sử
liệu, bia ký rời rạc chúng ta có thể điểm được một số yếu tố trong tổ chức xã
hội Chăm Pa.
Luật pháp.
Các bia ký và các tác phẩm điêu khắc không thể hiện cho thấy bất kỳ một thiết
chế luật pháp nào, tuy nhiên qua ghi chép của Mã Đoan tới đây vào đầu thế kỷ
15 có thể cho chúng ta thấy một phần nào về luật pháp của Chăm Pa thời kỳ
đó:
8.





Về các tội bị trừng phạtxứ sở này:
Đối với các tội nhẹ, họ dùng việc đánh vào lưng bằng một sợi mây.
Đối với các tội nặng, họ cắt mũi.
Đối với tội cướp, họ chặt tay.
Đối với tội ngoại tình, đàn ông và đàn bà bị khắc lên mặt sao cho
thành vết sẹo.

Hệ thống đẳng cấp.
Một số nghiên cứu dựa trên nền văn hóa Ấn hóa của người Chăm đều trình bày
xã hội dưới dạng các đẳng cấp (caste) trong kinh Vệ Đà trước khi đi vào khảo
cứu các di tích văn hóa nghệ thuật Chăm Pa còn lại. Theo đó, xã hội Vệ Đà có
bốn đẳng cấp, đứng đầu là đẳng cấp giáo sĩ Brahman chuyên về thờ cúng, tiếp
theo là đẳng cấp Ksatria tức chiến binh có nhiệm vụ bảo vệ các đẳng cấp kia.
Các học giả hiện đại theo xu hướng nghiên cứu thực chứng đã tỏ ra dè dặt hơn
và không đề cập gì từ phương diện nghiên cứu sử học, nhất là từ các tài liệu
văn bia về cơ cấu xã hội của Chăm Pa cổ. Các sự kiện lịch sử, như việc Lưu
9.

Kế Tông, một người Việt chứ không phải người Chăm làm vua Chăm Pa cho
dù chỉ có ba năm (983-986) rồi bị người Chăm đoạt lại vương vị cũng chứng
tỏ cơ cấu xã hội Chăm Pa cổ phức tạp hơn trong kinh Vệ Đà nhiều. Tóm lại,
việc xem xã hội Chăm Pa cổ là xã hội Vệ Đà với bốn đẳng cấp như ở Ấn Độ cổ

(hay năm đẳng cấp với đẳng cấp thứ năm là ngoại nhân) cần được nhìn nhận
rất thận trọng vì chưa có công trình nghiên cứu nào từ cứ liệu chạm khắc Chăm
cổ chứng minh.
Chế độ mẫu hệ.
Nhiều học giả trong nước trên cơ sở nghiên cứu chế độ mẫu hệ vẫn còn tồn tại
của người Chăm hiện nay và trên cơ sở nghiên cứu cụ thể các cặp linga-yoni,
đặc biệt là linga phân tầng, cả linga phân làm ba tầng thể trimutri (ba thể
của Thượng Đế) và hai tầng (linga và yoni – âm và dương) được đặt trên bệ đá
hình vuông có khe để nước chảy thoát ra chính là yoni được đặt bên dưới linga,
thì cho rằng ở xã hội Chăm cổ vai trò của người phụ nữ trong xã hội cũng rất
to lớn. Tuy nhiên, cũng giống như ở trên, đấy mới chỉ là một suy luận chứ chưa
có các tài liệu văn bia chứng minh và chưa có công trình nghiên cứu lịch sử
dựa trên các văn khắc Chăm cổ nào đề cập đến việc này.
10.

11.

Kinh tế.

Trong khi có nhiều công trình nghiên cứu về đời sống, hoạt động kinh tế và cơ
cấu, tổ chức và các mặt khác nhau của người Chăm hiện đại thì chưa có những
công trình nghiên cứu như vậy cho vương quốc Chăm Pa cổ. Lý do cũng thật
dễ nhận thấy vì những gì thuộc về thượng tầng kiến trúc là những thứ khó còn
lại với thời gian và sử liệu về một vương quốc có thời đã dựng nền những đền
tháp rực rỡ chạy dài suốt ven biển miền Trung Việt nam ngày nay cũng chỉ còn
qua các phế tích.
Qua các công trình nghiên cứu lịch sử, các tác giả cho rằng nền kinh tế Chăm
Pa xưa chủ yếu dựa vào các hoạt động nông nghiệp, sản xuất đồ thủ
công và thương mại. Các dầu vết còn lại ở miền Trung Việt Nam của những hệ
thống thủy lợi phức tạp và những giống lúa có chất lượng cao đặc trưng riêng

của miền Trung được xem là các bằng chứng của một nền kinh tế nông nghiệp
trồng lúa nước đã phát triển cao.
Vương quốc Chăm Pa xưa có được vị trí thuận lợi cho sự phát triển thương
mại đường biển. Các cảng biển của vương quốc là những điểm trung chuyển
giao lưu hàng hóa quốc tế cũng như để xuất khẩu các sản phẩm chủ yếu từ khai

thác rừng ở miền thượng của các đồng bằng ven biển và Tây Nguyên. Từ thế
kỷ thứ 10, các cảng của Chăm Pa đã được biết đến như là những thương cảng
quan trọng trên Biển Đông, nằm trên hành trình thương mại đường biển giữa
phương Đông và phương Tây vẫn được gọi là “Con đường tơ lụa trên
biển”. Các sản phẩm xuất cảng của Chăm Pa là sản phẩm của sản xuất đồ thủ
công như các đồ gốm sứ, đất nung và cả các sản phẩm khai thác miền rừng như
sừng tê, ngà voi, và đặc biệt là trầm hương, và cả của hoạt động khai thác
tổ yến trên các đảo ngoài khơi.
Về phương tiện thanh toán trong giao dịch thương mại, Theo ghi chép của Mã
Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào
đầu thế kỷ 15 – khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của
ông là Ying-yai Sheng-lan – Doanh Nhai Thắng Lãm, thì giao dịch thời kỳ này
được miêu tả:
Trong giao dịch mua bán, họ hiện dùng vàng nhạt màu, non tuổi, có độ bẩy
mười phần trăm, hoặc bạc.
12.

Dân tộc dân cư.

Người Chăm trong thời vương quốc Chăm Pa lịch sử bao gồm hai bộ tộc chính
là bộ tộc Dừa (Narikelavamsa) và Cau (Kramukavamsa). Bộ tộc Dừa sống ở
Amaravati và Vijaya trong khi bộ tộc Cau sống ở Kauthara và Pandaranga. Hai
bộ tộc có những cách sinh hoạt và trang phục khác nhau và có nhiều lợi ích

xung đột dẫn đến tranh chấp thậm chí chiến tranh. Nhưng trong lịch sử vương
quốc Chăm Pa các mối xung đột này thường được giải quyết để duy trì sự thống
nhất của đất nước thông qua hôn nhân.
Bên cạnh người Chăm, chủ nhân vương quốc Chăm Pa xưa còn có cả các tộc
người thiểu số gốc Nam Đảo và Mon-Khmer và ở phía Bắc Chăm Pa còn có
cả người Việt.
13.

Di sản ngày nay.

Rất nhiều tháp cổ của người Chăm vẫn còn ở miền Trung Việt Nam. Một điển
hình về kiến trúc là thánh địa Mỹ Sơn gần Hội An. Thánh địa Mỹ Sơn bị bom
Mỹ hủy hoại nặng nề trong chiến tranh nhưng đã được phục chế lại sau chiến
tranh từ thập niên 1980 với những đóng góp to lớn của kiến trúc sư Ba
Lan Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997). Năm 1999, thánh địa Mỹ Sơn
đượcUNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.

Ngoài ra còn có các di tích tháp Chăm nổi tiếng ở miền Trung vẫn được cộng
đồng người Chăm hiện nay sử dụng để thờ tự như:
Tháp Po Nagar (Khánh Hòa)
• Tháp Po Klaung Garai (Ninh Thuận)
• Tháp Po Rome (Ninh Thuận)
• Tháp Po Sha Inư (Bình Thuận)
Các hiện vật điêu khắc Chăm phong phú nhất có tại Bảo tàng Chăm Đà
Nẵng (trước đây là “Musée Henri Parmentier”) ở thành phố biển Đà Nẵng.
Viện bảo tàng được thành lập từ năm 1915 bởi học giả người Pháp và đến nay
vẫn được xem là một trong những bảo tàng lớn ở Đông Nam Á. Các hiện vật
Chăm cũng có mặt tại các viện bảo tàng khác như:

KẾT LUẬN

Cuộc sống luôn có sự giao lưu tiếp xúc với nhau để đảm bảo cho sự sống và
làm phong phú thêm cho tinh thần nhân loại. Quá trình giao lưu là quá trình
diễn ra trong một thời gian dài, đồng thời nó diễn ra bất cứ ở đâu trên trái đất
này nếu ở đó có sự tồn tại của con người. Nó diễn ra mọi lúc mọi nơi kể cả con
đường chiến tranh, cương bức hay tự nguyện và đôi lúc là sự ngẫu nhiên tình
cờ. Dù cho phương thức nào đi chăng nữa nó cũng là một phần tất yếu của
cuộc sống.
Với việc nghiên cứu quá trình giao lưu văn hóa của người Chămpa. Chúng ta
biết được nhiều hơn về nguồn gốc, xuất xứ của nền văn hóa này, cùng với

những yếu tố ngoại lai du nhập vào, những cải biến, sáng tạo, chọn lọc cho phù
hợp với yếu tố văn hóa bản địa. Dó là sự du nhập nền tôn giáo lớn dựa trên tôn
giáo tín ngưỡng Ấn Đô, balamon giáo, phật giáo, rồi Islam giáo đến từ đất
nước xa xôi Địa Trung Hải là Ả Rập.Tù chữ viết kết hợp với chư Chăm cổ và
tiếng Phạn tạo ra ngôn ngữ chữ viết cho riêng mình. Văn học dân gian cùng
với sự tiếp thu văn học, sử thi Ấn Độ làm phong phú thêm kho tang văn hóa
dân tộc Chămpa rồi sự tiếp thu kiến trúc điêu khác Ấn Độ, Trung Quốc, Khơ
me cho ra những đền tháp độc đáo về kiến trúc, về chất liệu rát riêng, không
đâu có được. Sự kết hợp những yếu tố đó thật nhuần nhuyễn, tạo ra những
công trình kiến trúc thật tuyệt vời và cực kì tinh xảo, cho đến ngày nay vẫn còn
là những bí ẩn cần được khám phá và nghiên cứu thêm.
Ngày nay thực trạng và di sản của văn minh Chămpa đang xuống cấp trầm
trọng vì vậy nó cần được cấp chính quyền quan tâm nghiên cứu và tôn tạo giữ
gìn và ra sức phát huy những truyền thống văn hóa quý báu đó. Là di sản dân

tộc có một không hai, là chứng tích của một nền văn hóa vô cùng rực rỡ của cư
dân Chămpa. Trải qua thăng trầm lịch sử và biến động của thiên tai khắc nghiệt
nó vaanx đứng sững tồn tại chó đến ngày nay. Văn hóa Chămpa là một di sản
văn hóa vô giá không chỉ của đân tộc Việt Nam mà là của cả nhân loại.

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
I.LỜI NÓI ĐẦU.
NỘI DUNG
I.
II.
1.
2.
3.

Khái quát về người Chăm và đất nước Chămpa.
Đăc trưng văn hóa Chămpa.
Văn hóa nghệ thuật.
Tôn giáo, tín ngưỡng.
Kiến trúc điêu khắc.

4.
5.
6.
7.

Chữ viết, bia ký.
Âm nhạc, ca múa.

Âm nhạc, ca múa.
Tổ chức xã hội.

8.
9.
10.

Luật pháp.
Hệ thống đẳng cấp
Chế độ mẫu hệ.

11.
12.
13.

Kinh tế.
Dân tộc dân cư.
Di sản ngày nay.

KẾT LUẬN

Người Chăm là một tộc người thuộc chủng Name Á. Ngôn ngữ cuả họ thuộcngữ hệ Malai-Poolinedi. Cùng với người Việt ở Bắc Bộ, các nhóm dân tộcthuộc ngữ hệ Môn-Khơme và Malai-Polinêdi ở Name Bộ, người Chăm là mộttrong những nguồn cội của các dân tộc Việt Name ngày nay.trong thời cổ đại vàtrung đại, người Chăm đã có một nền văn hoá riêng rực rỡ, không thua kém bấtcứ nền văn hóa nào ở Đông Name châu Á.Vương quốc Chămpa là vương quốc(Mandala) của các tiểu vương quốc tồn tạigần 15 thế kỷ ( từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ XV), phan bố ở miền Trung ViệtName từ núi đến biển, gián cách nhau bằng các đèo, từ đèo Ngang đến đèo Cả Đại Lãnh…có độc lập và liên lập, có một tổng thể văn hóa chung mà cũng cósắc thái văn hóa vùng. Đó là 4 vùng lớn của đồng bằng nhỏ ven biển: amaravati(địa phận các tình Quảng Bình – Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng Name – ĐàNẵng) ; Vijaya(Quảng Ngãi, Bình Định); Kauthara(Nha Tra – Khánh Hòa) vàPanduranga( Phang Rang, Phan Thiết).Vương quốc Chămpa qua những ghi chép trong thư tịch cổ, bia kí và những ditích khảo cổ trên và trong long đất trùng hợp với địa bàn phân bố của văn hóaSa Huỳnh. Niên đại khởi đầu của vương quốc Chămpa theo thư tịch Trung Hoacổ là cuối thế kỷ thứ II(năm 192, Khu Liên đã lập nước Lâm Ấp ở vùng đấtQuảng Name ngày nay. Đó là nước Chămpa của ngời Chăm với đô thành sưtử(Sximhapura – nay là Kaf Triệu, Duy Xuyên). Có thể người Hán đã hiểu đôthành su tử thành Rừng Voi (Tượng Lâm). Ngoài ra, bia Võ Cạnh ở Nha Trangcó niên đại thuộc thế kỷ thứ II sau công nguyên cũng đã nói đến một quốc giado Srimara thành lập. niên đại này trùng với niên đại của khu mộ chum GòĐình (Đại Lãnh – Đại Lộc – Quàng Name), Lý Sơn( Quảng Ngãi).Sự trùng hợp về không gian và thời gian, của một số loại hình hiện vật, một sốngành nghề…cùng với suy luận logic đã cho thấy văn hóa Chămpa này nảy sinhtừ văn hóa Sa Huỳnh, người Chăm cổ là con cháu của người Sa Huỳnh cổ.II.1.Đăc trưng văn hóa Chămpa.Văn hóa nghệ thuật.Văn hóa Ấn Độ, Campuchia và Java đều có ảnh hưởng đến văn hóa Chăm Pa.Từ thế kỷ thứ 4 vương quốc Phù Nam ở Campuchia và miền Nam Việt Namngày nay đã truyền bá văn minh Ấn Độvào xã hội Chăm. Tiếng Phạn trở thànhngôn ngữ học thuật, và Ấn giáo, đặc biệt là Si-va giáo, trở thành quốc giáo. Từthế kỷ thứ 10, các thương nhân Ả Rập đã mang tôn giáo và văn hóa đạoHồi vào khu vực. Chăm Pa có vai trò trung chuyển quan trọng trên con đườnghồ tiêu từ vịnh Pec-xich tới miền Nam Trung quốc và sau này là con đườngthương mại trên biển của người Ả Rập, xuất phát từ bán đảo Đông Dương – nơixuất khẩu trầm hương. Mặc dù giữa Chăm Pa và đế quốc Khmer luôn có chiếntranh, nhưng thương mại và văn hóa vẫn được giao lưu về cả hai phía. Hoànggia của hai vương quốc cũng thường xuyên lấy lẫn nhau. Chăm Pa còn có quanhệ thương mại và văn hóa với các đế quốc hùng mạnh trên biểnnhư Srivijaya và sau này với Majapahit trên bán đảo Mã Lai.2.Tôn giáo, tín ngưỡng.Trước khi bị vua Lê Thánh Tông chinh phục năm 1471, tôn giáo chính củangười Chăm là Ấn độ giáo, và nền văn hóa Chăm cũng chịu ảnh hưởng sâu sắccủa văn minh Ấn Độ. Ấn độ giáo ở Chăm Pa chủ yếu là Si-va giáo, tức là đạothờ thần Shiva, và có ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo bản địa như thờ nữthần Đất Yan Po Nagar. Biểu tượng chính của tôn giáo Si-va của người Chămlà linga, mukhalinga, jatalinga, linga chia tầng và kosa.Linga (hay còn gọi là lingam) là một cột trụ có hình dương vật đại diện choShiva. Các vua Chăm thường xuyên dựng và cúng các linga bằng đá để thờở trung tâm các đền tháp của hoàng gia. Tên mà vua Chăm đặt cho một lingasẽ bao gồm tên của nhà vua và đuôi “-esvara,” tức là Shiva.Mukhalinga là một linga mà trên đó có vẽ hoặc chạm hình ảnh Shiva dướidạng hình người hay hình khuôn mặt.Jatalinga là một linga mà trên đó chạm phong cách điển hình của Shiva làkiểu tóc búi.Linga phân tầng là một cột linga chia làm ba phần đại diện cho ba thể(trimurti) của thượng đế trong Ấn giáo: phần dưới cùng, là một khối hình lậpphương, tượng trưng cho Brahma; phần ở giữa, là một hình lăng trụ tám mặt,đại diện cho Vishnu; và phần trên cùng, có hình tròn, đại diện cho Shiva.Kosa là một khối kim loại hình trụ được sử dụng để che phủ cho linga. Việchiến tế một kosa để trang trí cho linga là một nét đặc trung độc đáo của đạo.Si-va của người Chăm. Các vua Chăm thường đặt tên cho các kosa đặc biệtcũng theo cách họ tự đặt tên cho các linga.Việc Ấn giáo là một tôn giáo chiếm ưu thế của người Chăm bị gián đoạn từthế kỷ 9đến thế kỷ 10 khi triều đại Indrapura (Đồng Dương ở tỉnh QuảngNam ngày nay) theo Phật giáo Đại thừa. Phong cách nghệ thuật Phật giáoChăm Pa thời Đồng Dương được công nhận là một trong những phong cáchđộc đáo.Trong thế kỷ thứ 10 và các thế kỷ sau, Ấn Độ giáo lại trở thành tôn giáochính của Chăm Pa. Một số nơi vẫn còn lưu giữ những công trình tôn giáovà cũng là các công trình kiến trúc và nghệ thuật của thời kỳ này như MỹSơn, Khương Mỹ, Trà Kiệu, Chánh Lộ và Tháp Mẫm.Hồi giáo bắt đầu xâm nhập vào Chăm Pa từ sau thế kỷ thứ 10, nhưng chỉ saunăm 1471 thì ảnh hưởng của Hồi giáo mới rõ nét. Vào thế kỷ thứ 17 thìhoàng gia Chăm đã theo đạo Hồi và cũng từ đó phần lớn người Chăm bắtđầu theo đạo này, và khi vùng đất này bị sáp nhập vào Việt Nam thì phần lớnngười Chăm ở đây đã theo đạo Hồi. Phần lớn người Chăm đều là người Hồigiáo và cũng giống như người Java ở Indonesia, họ còn chịu nhiều ảnhhưởng của Ấn giáo. Các văn bản của Indonesia còn ghi lại câu chuyện côngchúa Darawati, một công chúa Chăm đã ảnh hưởng đến chồng làKertawijaya, người cai trị đời thứ bảy của Majapahit, tượng tự như câuchuyện với Parameshwara, người đã cải đạo Hồi cho hoàng gia Majapahit.Ngôi mộ của Putri Champa (công chúa Chăm) vẫn còn thấy ở Trowulan, nơixưa kia là thủ đô của Majapahit.3.Kiến trúc điêu khắc.Kiến trúc Chăm Pa được phân tích qua các tháp Chăm thờ các vị thần Ấn Độgiáo và các vị vua Chăm được hóa thần còn sót lại cũng như dấu tích của cáctòa thành cổ, tu viện phật giáo thời Indrapura. Về phong cách kiến trúc điêukhắc các tháp được các nhà nghiên cứu thường chia ra làm nhiều thời kỳ, mỗimột thời kỳ có những thay đổi khác nhau, dấu dấn riêng biệt của người Chămlà kỹ thuật làm gạch kết dính để xây tháp và chạm trổ trên đá.Cùng với nền điêu khắc của người Khmer và người Java, nền điêu khắc ChămPa là một trong ba nền điêu khắc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ đạt tới tầm cỡ thếgiới. Tuy ảnh hưởng nhiều từ nền điêu khắc Ấn Độ, Java và Khmer nhưng điêukhăc Chăm Pa vẫn có những tính độc đáo riêng. Xu thế hướng tới tượng tròncủa hầu như tất cả các hình chạm khắc dưới dạng phù điêu, trong điêu khắcChăm Pa rất ít có khung cảnh chung mà nhấn mạnh vào từng hình tượng, ví dụnhư bức phù điêu tiên nữ Apsara đang múa được tìm thấy ở Trà Kiệu thể hiệnbàn tay to, cánh tay cong. Chính vì thế nghệ thuật điêu khắc của Chăm Pamang tính ấn tượng nhiều hơn là tả thực, tính ấn tượng có thể nói là đặc điểmVăn hóa Ấn Độ ảnh hưởng vào Chăm Pa từ những thời kỳ đầu, dẫn tới cáctrước tác về luật pháp, chính trị xã hội đều có mặt ở Chăm Pa, được các vuachúa Chăm áp dụng và ưa thích.4. chữ viết, bia ký.Chữ bắc Phạn (Sanskrit) đã được người Chăm tiếp thu từ những thế kỷ đầucông nguyên, các chữ viết trên bia Võ Cạnh ở thế kỷ 3 với cách viết rất gần vớikiểu viết của các bia ký vùng Amaravati ở Nam Ấn Độ, tuy nhiên chữ viết củaChăm Pa trong hơn 10 thế kỷ tồn tại của mình cũng liên tục thay đổi tương ứngvới những thời kỳ ảnh hưởng từ các vùng khác nhau ở Ấn Độ, từ thế kỷ 6 đếnthế kỷ 8, chữ Phạn ở Chăm Pa có dạng tự vuông của vùng bắc Ấn, nhưng từthế kỷ 9 trở đi chữ Phạn ở Chăm Pa lại có dạng tự tròn của vùng nam Ấn, cóthể nhận định Chăm Pa là quốc gia đầu tiên có chữ viết sớm nhấtĐông Nam Á.Xuất phát từ dạng tự của chữ Phạn, người Chăm đã bỏ các phụ ghi âm vốnkhông có trong tiếng Chăm và một số ký hiệu mới được bổ sung thành mộtdạng chữ Phạn-Champa, theo các nhà nghiên cứu tiếng Chăm có 65 ký hiệu và24 chân ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo (Akhar Thrah) của Ấn Độquantrọng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm Pa.Theo thống kê của các học giả người Pháp vào năm 1923, số bia ký Chăm đãđược biết là 170, tất cả các bia ký Chăm đều được khắc lên đá thành nhữngtấm bia to và đẹp và một số bia ký khác được khắc lên tường của các thápChăm. Các văn bia cổ Chăm Pa là những văn bản gần như duy nhất thể hiện ýtưởng của các vị vua và triều đình, trong số 123 bia ký có thể hiểu được nộidung thì 92 bia nói về Siva giáo, 5 bia về thần Brahma, 3 bia về thần Visnu, 7bia về đức Phật và 21 bia không rõ về về tính tôn giáo.Văn học, ghi chép.Do chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Ấn Độ cho nên ý nghĩa văn chươngđược thể hiện trong các bia ký, các tác giả bia ký cố gắng dùng lời lẽ văn hoa,nhiều điển tích và ẩn dụ của văn học Ấn Độ để thể hiện ý tưởng của mình, vìthế mà văn bia Chăm Pa là một mảng quan trọng nhất của văn học Chăm Pa,các bia ký Chăm Pa bằng chữ Phạn được viết chủ yếu theo những thể thơ củaẤn Độ, văn học Ấn Độ qua hình thức truyền khẩu trong dân gian chắc cũng cómặt ở Chăm Pa, điều này được thế hiện qua việc người Chăm dựng đền thờ RsiValmiki, người được coi là tác giả của sử thi Ramayana cũng như các bức phùđiêu thể hiện các nhân vật có trong sử thi Ramayana như chàng Rama,nàng Sita. Ngoài bộ sử thi Ramayana, các bộ sử thi khác của Ấn Độ cũng đượcphổ biến ở Chăm Pa như bộ Mahabharata và thậm chí là truyện ngụ ngôn ẤnĐộ qua bộ Bhagavata.5.Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, TrungQuốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 – khoảng năm 1413 được thể hiện trongcuốn sách sau này của ông là Ying-yai Sheng-lan – Doanh Nhai Thắng Lãm, thìvăn bản ghi chép trong xã hội Chăm Pa thời kỳ này được miêu tả:Về việc viết chữ, họ không có giấy hay bút, họ dùng [hoặc] da dê kéo mỏnghay vỏ cây hun khói đen, và họ gấp nó lại thành hình một quyển kinh sách, vớiphấn trắng, họ viết chữ để ghi lại thành tài liệu lữu trữ.6.Âm nhạc, ca múa.Các cô gái Chăm trong đội vũ công Phan Rang.Âm nhạc và ca múa có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần củangười Chăm, ở các tín ngưỡng như lễ năm mới Rija Nagar, lễ Kate vào tháng 7Chăm lịch, lễ cầu đảo, lễ mở cửa tháp. Việc dùng các hình thức nhạc cụ tùythuộc vào tính chất các buổi lễ và các hình thức sinh hoạt khác nhau.Trống Baranâng và trống gineng là loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ củangười Chăm. Trong nhạc cụ hơi, chiếc kèn Saranai có vị trí đặc biệt. Múa làloại hình nghệ thuật gắn bó với người Chăm như hình với bóng rất phong phúvà độc đáo, người Chăm có các điệu múa khác nhau như: múa sinh hoạt, múatôn giáo, múa tập thể, múa độc diễn, múa đạo cụ và múa bóng.7.Tổ chức xã hội.Cho đến nay, các công trình nghiên cứu dân tộc học và điền dã cũng như tổngquan các nghiên cứu về xã hội nguời Chăm đều tập trung vào người Chăm hiệnđại. Đến nay chưa có một công trình nghiên cứu lịch sử nào, nhất là các côngtrình dựa trên khảo cứu văn bia hay văn tịch cổ của người Chăm cho ra các kếtluận khách quan có chứng cứ về xã hội Chăm Pa cổ, tuy nhiên từ những sửliệu, bia ký rời rạc chúng ta có thể điểm được một số yếu tố trong tổ chức xãhội Chăm Pa.Luật pháp.Các bia ký và các tác phẩm điêu khắc không thể hiện cho thấy bất kỳ một thiếtchế luật pháp nào, tuy nhiên qua ghi chép của Mã Đoan tới đây vào đầu thế kỷ15 có thể cho chúng ta thấy một phần nào về luật pháp của Chăm Pa thời kỳđó:8.Về các tội bị trừng phạtxứ sở này:Đối với các tội nhẹ, họ dùng việc đánh vào lưng bằng một sợi mây.Đối với các tội nặng, họ cắt mũi.Đối với tội cướp, họ chặt tay.Đối với tội ngoại tình, đàn ông và đàn bà bị khắc lên mặt sao chothành vết sẹo.Hệ thống đẳng cấp.Một số nghiên cứu dựa trên nền văn hóa Ấn hóa của người Chăm đều trình bàyxã hội dưới dạng các đẳng cấp (caste) trong kinh Vệ Đà trước khi đi vào khảocứu các di tích văn hóa nghệ thuật Chăm Pa còn lại. Theo đó, xã hội Vệ Đà cóbốn đẳng cấp, đứng đầu là đẳng cấp giáo sĩ Brahman chuyên về thờ cúng, tiếptheo là đẳng cấp Ksatria tức chiến binh có nhiệm vụ bảo vệ các đẳng cấp kia.Các học giả hiện đại theo xu hướng nghiên cứu thực chứng đã tỏ ra dè dặt hơnvà không đề cập gì từ phương diện nghiên cứu sử học, nhất là từ các tài liệuvăn bia về cơ cấu xã hội của Chăm Pa cổ. Các sự kiện lịch sử, như việc Lưu9.Kế Tông, một người Việt chứ không phải người Chăm làm vua Chăm Pa chodù chỉ có ba năm (983-986) rồi bị người Chăm đoạt lại vương vị cũng chứngtỏ cơ cấu xã hội Chăm Pa cổ phức tạp hơn trong kinh Vệ Đà nhiều. Tóm lại,việc xem xã hội Chăm Pa cổ là xã hội Vệ Đà với bốn đẳng cấp như ở Ấn Độ cổ(hay năm đẳng cấp với đẳng cấp thứ năm là ngoại nhân) cần được nhìn nhậnrất thận trọng vì chưa có công trình nghiên cứu nào từ cứ liệu chạm khắc Chămcổ chứng minh.Chế độ mẫu hệ.Nhiều học giả trong nước trên cơ sở nghiên cứu chế độ mẫu hệ vẫn còn tồn tạicủa người Chăm hiện nay và trên cơ sở nghiên cứu cụ thể các cặp linga-yoni,đặc biệt là linga phân tầng, cả linga phân làm ba tầng thể trimutri (ba thểcủa Thượng Đế) và hai tầng (linga và yoni – âm và dương) được đặt trên bệ đáhình vuông có khe để nước chảy thoát ra chính là yoni được đặt bên dưới linga,thì cho rằng ở xã hội Chăm cổ vai trò của người phụ nữ trong xã hội cũng rấtto lớn. Tuy nhiên, cũng giống như ở trên, đấy mới chỉ là một suy luận chứ chưacó các tài liệu văn bia chứng minh và chưa có công trình nghiên cứu lịch sửdựa trên các văn khắc Chăm cổ nào đề cập đến việc này.10.11.Kinh tế.Trong khi có nhiều công trình nghiên cứu về đời sống, hoạt động kinh tế và cơcấu, tổ chức và các mặt khác nhau của người Chăm hiện đại thì chưa có nhữngcông trình nghiên cứu như vậy cho vương quốc Chăm Pa cổ. Lý do cũng thậtdễ nhận thấy vì những gì thuộc về thượng tầng kiến trúc là những thứ khó cònlại với thời gian và sử liệu về một vương quốc có thời đã dựng nền những đềntháp rực rỡ chạy dài suốt ven biển miền Trung Việt nam ngày nay cũng chỉ cònqua các phế tích.Qua các công trình nghiên cứu lịch sử, các tác giả cho rằng nền kinh tế ChămPa xưa chủ yếu dựa vào các hoạt động nông nghiệp, sản xuất đồ thủcông và thương mại. Các dầu vết còn lại ở miền Trung Việt Nam của những hệthống thủy lợi phức tạp và những giống lúa có chất lượng cao đặc trưng riêngcủa miền Trung được xem là các bằng chứng của một nền kinh tế nông nghiệptrồng lúa nước đã phát triển cao.Vương quốc Chăm Pa xưa có được vị trí thuận lợi cho sự phát triển thươngmại đường biển. Các cảng biển của vương quốc là những điểm trung chuyểngiao lưu hàng hóa quốc tế cũng như để xuất khẩu các sản phẩm chủ yếu từ khaithác rừng ở miền thượng của các đồng bằng ven biển và Tây Nguyên. Từ thếkỷ thứ 10, các cảng của Chăm Pa đã được biết đến như là những thương cảngquan trọng trên Biển Đông, nằm trên hành trình thương mại đường biển giữaphương Đông và phương Tây vẫn được gọi là “Con đường tơ lụa trênbiển”. Các sản phẩm xuất cảng của Chăm Pa là sản phẩm của sản xuất đồ thủcông như các đồ gốm sứ, đất nung và cả các sản phẩm khai thác miền rừng nhưsừng tê, ngà voi, và đặc biệt là trầm hương, và cả của hoạt động khai tháctổ yến trên các đảo ngoài khơi.Về phương tiện thanh toán trong giao dịch thương mại, Theo ghi chép của MãĐoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vàođầu thế kỷ 15 – khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này củaông là Ying-yai Sheng-lan – Doanh Nhai Thắng Lãm, thì giao dịch thời kỳ nàyđược miêu tả:Trong giao dịch mua bán, họ hiện dùng vàng nhạt màu, non tuổi, có độ bẩymười phần trăm, hoặc bạc.12.Dân tộc dân cư.Người Chăm trong thời vương quốc Chăm Pa lịch sử bao gồm hai bộ tộc chínhlà bộ tộc Dừa (Narikelavamsa) và Cau (Kramukavamsa). Bộ tộc Dừa sống ởAmaravati và Vijaya trong khi bộ tộc Cau sống ở Kauthara và Pandaranga. Haibộ tộc có những cách sinh hoạt và trang phục khác nhau và có nhiều lợi íchxung đột dẫn đến tranh chấp thậm chí chiến tranh. Nhưng trong lịch sử vươngquốc Chăm Pa các mối xung đột này thường được giải quyết để duy trì sự thốngnhất của đất nước thông qua hôn nhân.Bên cạnh người Chăm, chủ nhân vương quốc Chăm Pa xưa còn có cả các tộcngười thiểu số gốc Nam Đảo và Mon-Khmer và ở phía Bắc Chăm Pa còn cócả người Việt.13.Di sản ngày nay.Rất nhiều tháp cổ của người Chăm vẫn còn ở miền Trung Việt Nam. Một điểnhình về kiến trúc là thánh địa Mỹ Sơn gần Hội An. Thánh địa Mỹ Sơn bị bomMỹ hủy hoại nặng nề trong chiến tranh nhưng đã được phục chế lại sau chiếntranh từ thập niên 1980 với những đóng góp to lớn của kiến trúc sư BaLan Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997). Năm 1999, thánh địa Mỹ SơnđượcUNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.Ngoài ra còn có các di tích tháp Chăm nổi tiếng ở miền Trung vẫn được cộngđồng người Chăm hiện nay sử dụng để thờ tự như:Tháp Po Nagar (Khánh Hòa)• Tháp Po Klaung Garai (Ninh Thuận)• Tháp Po Rome (Ninh Thuận)• Tháp Po Sha Inư (Bình Thuận)Các hiện vật điêu khắc Chăm phong phú nhất có tại Bảo tàng Chăm ĐàNẵng (trước đây là “Musée Henri Parmentier”) ở thành phố biển Đà Nẵng.Viện bảo tàng được thành lập từ năm 1915 bởi học giả người Pháp và đến nayvẫn được xem là một trong những bảo tàng lớn ở Đông Nam Á. Các hiện vậtChăm cũng có mặt tại các viện bảo tàng khác như:KẾT LUẬNCuộc sống luôn có sự giao lưu tiếp xúc với nhau để đảm bảo cho sự sống vàlàm phong phú thêm cho tinh thần nhân loại. Quá trình giao lưu là quá trìnhdiễn ra trong một thời gian dài, đồng thời nó diễn ra bất cứ ở đâu trên trái đấtnày nếu ở đó có sự tồn tại của con người. Nó diễn ra mọi lúc mọi nơi kể cả conđường chiến tranh, cương bức hay tự nguyện và đôi lúc là sự ngẫu nhiên tìnhcờ. Dù cho phương thức nào đi chăng nữa nó cũng là một phần tất yếu củacuộc sống.Với việc nghiên cứu quá trình giao lưu văn hóa của người Chămpa. Chúng tabiết được nhiều hơn về nguồn gốc, xuất xứ của nền văn hóa này, cùng vớinhững yếu tố ngoại lai du nhập vào, những cải biến, sáng tạo, chọn lọc cho phùhợp với yếu tố văn hóa bản địa. Dó là sự du nhập nền tôn giáo lớn dựa trên tôngiáo tín ngưỡng Ấn Đô, balamon giáo, phật giáo, rồi Islam giáo đến từ đấtnước xa xôi Địa Trung Hải là Ả Rập.Tù chữ viết kết hợp với chư Chăm cổ vàtiếng Phạn tạo ra ngôn ngữ chữ viết cho riêng mình. Văn học dân gian cùngvới sự tiếp thu văn học, sử thi Ấn Độ làm phong phú thêm kho tang văn hóadân tộc Chămpa rồi sự tiếp thu kiến trúc điêu khác Ấn Độ, Trung Quốc, Khơme cho ra những đền tháp độc đáo về kiến trúc, về chất liệu rát riêng, khôngđâu có được. Sự kết hợp những yếu tố đó thật nhuần nhuyễn, tạo ra nhữngcông trình kiến trúc thật tuyệt vời và cực kì tinh xảo, cho đến ngày nay vẫn cònlà những bí ẩn cần được khám phá và nghiên cứu thêm.Ngày nay thực trạng và di sản của văn minh Chămpa đang xuống cấp trầmtrọng vì vậy nó cần được cấp chính quyền quan tâm nghiên cứu và tôn tạo giữgìn và ra sức phát huy những truyền thống văn hóa quý báu đó. Là di sản dântộc có một không hai, là chứng tích của một nền văn hóa vô cùng rực rỡ của cưdân Chămpa. Trải qua thăng trầm lịch sử và biến động của thiên tai khắc nghiệtnó vaanx đứng sững tồn tại chó đến ngày nay. Văn hóa Chămpa là một di sảnvăn hóa vô giá không chỉ của đân tộc Việt Nam mà là của cả nhân loại.MỤC LỤCMỞ ĐẦUI.LỜI NÓI ĐẦU.NỘI DUNGI.II.1.2.3.Khái quát về người Chăm và đất nước Chămpa.Đăc trưng văn hóa Chămpa.Văn hóa nghệ thuật.Tôn giáo, tín ngưỡng.Kiến trúc điêu khắc.4.5.6.7.Chữ viết, bia ký.Âm nhạc, ca múa.Âm nhạc, ca múa.Tổ chức xã hội.8.9.10.Luật pháp.Hệ thống đẳng cấpChế độ mẫu hệ.11.12.13.Kinh tế.Dân tộc dân cư.Di sản ngày nay.KẾT LUẬN