Tìm hiểu về đời sống văn hóa là gì? [Cập nhật 2023] – ACC GROUP

Đời sống văn hoá là cụm từ mới được sử dụng rộng rãi ở nước ta vào những năm 80, 90 của thế kỷ XX. Tiền thân của cụm từ này là cụm từ đời sống mới, tiêu đề của bài viết dưới dạng hỏi – đáp, công bố năm 1947, tác giả Tân Sinh, một bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bối cảnh ra đời cụm từ này là dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vùng lên làm cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, đánh đổ thực dân Pháp và tầng lớp thống trị phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (mồng 2 tháng 9 năm 1945). Sau đó, chính quyền nhân dân non trẻ bắt tay vào sự nghiệp kiến quốc và kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Nhiệm vụ cấp bách đối với văn hoá lúc đó là diệt giặt dốt, cổ động toàn dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống giặc đói, cổ vũ tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm, xây dựng đạo đức cách mạng và sửa đổi nề nếp sinh hoạt trong đời sống của mỗi người, mỗi nhà và mỗi cộng đồng làng bản, đơn vị công tác. Đây là công việc mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, chưa từng có trong các giai đoạn lịch sử trước đó nên được gọi là xây dựng đời sống mới. Đoạn văn mở đầu bài viết xác định mục đích, nội dung của đời sống mới gồm:

Một là, thái độ ứng xử với cái cũ, cái mới trong đời sống của nhân dân một cách hợp tình, hợp lý: “Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết. Không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng nhiều phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm… Cái gì mới mà hay, thì phải làm…“[1].

Hai là, gắn văn hóa với lao động sản xuất: “Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn”.

Ba là, gắn văn hóa với xây dựng đời sống tinh thần, làm cho dân ta “tinh thần được vui mạnh hơn”.

Bốn là, xây dựng đạo đức mới: “Thực hành đạo đức cách mạng: Cần – Kiệm – Liêm – Chính”.

Năm là, xây dựng nếp sống mới: “Việc trước tiên là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc”.

Trong điều kiện trình độ dân trí của nhân dân ta còn thấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay từ “văn hóa” bằng từ “mới” để mọi người dễ hiểu việc xây dựng đời sống văn hóa. Có thể nói “Đời sống mới” là bài báo đầu tiên ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đặt cơ sở lý luận cho việc xây dựng đời sống văn hóa. Cho đến những năm 1980, trong định hướng xây dựng đời sống, nếp sống văn hóa, đảng và nhà nước vẫn dùng từ “mới” để hiểu đó là sự kết tinh của văn hóa, tri thức, tổ chức, những giá trị mới trong xây dựng lối sống, văn hóa, và mọi người. Chẳng hạn, ngày 15-1-1975, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 214/CT-TW về đẩy mạnh nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, giỗ, hội. Bốn văn kiện lớn của Đảng (1976): “Ra sức xây dựng nền văn hóa mới, từng bước xây dựng nước ta thành một xã hội văn hóa cao” [2] . Năm 1980, Ban chỉ đạo nếp sống mới ở các cấp được thành lập để chỉ đạo phong trào xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hóa mới.Thuật ngữ “đời sống văn hóa” xuất hiện trong bốn văn kiện chính của đảng, trong đó viết: “Tổ chức tốt đời sống văn hóa (tác giả nhấn mạnh) ở các vùng kinh tế mới, nông trường, lâm trường, công trường ở vùng dân tộc, miền núi và hải đảo.[ 1] Tại Đại hội V của Đảng (1982), Đảng ta xác định rõ hơn nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa, nhất là đời sống văn hóa cơ sở và coi đó là một chủ trương quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng đời sống văn hóa. nhân dân: “Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa đi vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Làm tốt công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đảm bảo đến từng khu vực nhà máy, công trường, lâm trường, từng đơn vị bộ đội, công an nhân dân, cơ quan chính quyền, trường học, bệnh viện, cổng làng, hợp tác xã. phường, xã, làng nhỏ có nếp sống văn hóa” [2]. nhu cầu tình cảm, tinh thần của quần chúng nhân dân ở cơ sở, cũng như nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của họ. Đời sống của các tầng lớp nhân dân. Từ đó, quan niệm về đời sống văn hóa ngày càng rõ nét. sách “Chương trình văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam” đã giải thích: “Đời sống văn hóa là những ứng xử đời sống phản ánh trình độ văn hóa, bao gồm hoạt động xã hội, hoạt động tập thể và hoạt động cá nhân. Mục đích của văn hóa là hướng thiện con người”[ 3]. Năm 2000, Giáo trình lý luận văn hóa và chính sách văn hóa của Đảng đã đưa ra khái niệm: “Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm các yếu tố văn hóa tĩnh (sản phẩm văn hóa, văn hóa vật chất, thiết chế văn hóa) và các yếu tố văn hóa động (con người và các hình thức sinh hoạt văn hóa) [4] . Năm 2007, cương lĩnh văn hóa và lý luận văn hóa của Đảng đã chỉ ra rằng đời sống văn hóa bao gồm bốn thành tố: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể; là một bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm tổng hòa các hoạt động văn hóa vật chất và tinh thần; tác động lẫn nhau trong đời sống tinh thần và xã hội tạo nên các quan hệ văn hóa cộng đồng và trực tiếp hình thành nhân cách, lối sống của con người” [5].

Trong điều kiện trình độ dân trí của nhân dân ta còn thấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay từ “văn hóa” bằng từ “mới” để mọi người dễ hiểu việc xây dựng đời sống văn hóa. Có thể nói “Đời sống mới” là bài báo đầu tiên ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đặt cơ sở lý luận cho việc xây dựng đời sống văn hóa. Cho đến những năm 1980, trong định hướng xây dựng đời sống, nếp sống văn hóa, đảng và nhà nước vẫn dùng từ “mới” để hiểu đó là sự kết tinh của văn hóa, tri thức, tổ chức, những giá trị mới trong xây dựng lối sống, văn hóa, và mọi người. Chẳng hạn, ngày 15-1-1975, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 214/CT-TW về đẩy mạnh nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, giỗ, hội. Bốn văn kiện lớn của Đảng (1976): “Ra sức xây dựng nền văn hóa mới, từng bước xây dựng nước ta thành một xã hội văn hóa cao” [2] . Năm 1980, Ban chỉ đạo nếp sống mới ở các cấp được thành lập để chỉ đạo phong trào xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hóa mới.Thuật ngữ “đời sống văn hóa” xuất hiện trong bốn văn kiện chính của đảng, trong đó viết: “Tổ chức tốt đời sống văn hóa (tác giả nhấn mạnh) ở các vùng kinh tế mới, nông trường, lâm trường, công trường ở vùng dân tộc, miền núi và hải đảo.[ 1] Tại Đại hội V của Đảng (1982), Đảng ta xác định rõ hơn nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa, nhất là đời sống văn hóa cơ sở và coi đó là một chủ trương quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng đời sống văn hóa. nhân dân: “Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa đi vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Làm tốt công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đảm bảo đến từng khu vực nhà máy, công trường, lâm trường, từng đơn vị bộ đội, công an nhân dân, cơ quan chính quyền, trường học, bệnh viện, cổng làng, hợp tác xã. phường, xã, làng nhỏ có nếp sống văn hóa” [2]. nhu cầu tình cảm, tinh thần của quần chúng nhân dân ở cơ sở, cũng như nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của họ. Đời sống của các tầng lớp nhân dân. Từ đó, quan niệm về đời sống văn hóa ngày càng rõ nét. sách “Chương trình văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam” đã giải thích: “Đời sống văn hóa là những ứng xử đời sống phản ánh trình độ văn hóa, bao gồm hoạt động xã hội, hoạt động tập thể và hoạt động cá nhân. Mục đích của văn hóa là hướng thiện con người”[ 3]. Năm 2000, Giáo trình lý luận văn hóa và chính sách văn hóa của Đảng đã đưa ra khái niệm: “Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm các yếu tố văn hóa tĩnh (sản phẩm văn hóa, văn hóa vật chất, thiết chế văn hóa) và các yếu tố văn hóa động (con người và các hình thức sinh hoạt văn hóa) [4] . Năm 2007, cương lĩnh văn hóa và lý luận văn hóa của Đảng đã chỉ ra rằng đời sống văn hóa bao gồm bốn thành tố: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể; là một bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm tổng hòa các hoạt động văn hóa vật chất và tinh thần; tác động lẫn nhau trong đời sống tinh thần và xã hội tạo nên các quan hệ văn hóa cộng đồng và trực tiếp hình thành nhân cách, lối sống của con người” [5].

Con người sinh ra và trưởng thành, muốn cho đời sống cá nhân được phong phú, lành mạnh thì tất yếu người đó có quan hệ đến:

– Đời sống vật chất: đảm bảo yếu tố cho người đó sinh tồn.

– Đời sống tinh thần: nhằm thỏa mãn nhu cầu ý thức về tình cảm, lý trí, nghị lực, tư tưởng của người đó.

– Đời sống xã hội: xã hội hình thành nhân cách con người. Bản thân mỗi người đều muốn sống với cộng đồng, thông qua cộng đồng để chứng minh, khẳng định phẩm chất, năng lực của mình và hoàn thiện bản thân.

Đời sống văn hóa có thể hiểu đó là tất cả những hoạt động của con người tác động vào đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống xã hội để hướng con người vươn lên theo qui luật của cái đúng, cái đẹp, cái tốt, của chuẩn mực giá trị chân, thiện, mĩ, đào thải những biểu hiện tiêu cực tha hoá con người. Đời sống văn hóa là quá trình diễn ra sự trao đổi thông qua các hoạt động văn hóa nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. Đó là quá trình các yếu tố văn hóa mà con người tiếp thu được tác động vào đời sống vật chất để con người biến đổi môi trường tự nhiên tạo lập môi trường nhân văn, làm ra được nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội; tác động vào đời sống tinh thần để con người thỏa mãn nhu cầu chủ quan đáp ứng các yêu cầu về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống; tác động vào đời sống xã hội để xây dựng một hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội; tác động vào chính bản thân đời sống cá nhân, điều chỉnh hành vi ứng xử của cá nhân và cho cá nhân phương thức lựa chọn hướng đi tốt nhất cho chính cuộc đời mình.

Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính kế thừa. Kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước tạo ra sự ổn định và tiền đề khẳng định những giá trị mới.

Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính đổi mới, bởi lẽ con người luôn luôn có khát vọng vươn lên cái tốt đẹp, chỉ có mạnh dạn sáng tạo, mạnh dạn cải đổi mới mong đáp ứng nhu cầu càng cao về vật chất và tinh thần của con người.

Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng: Đời sống văn hóa là hiện thực sinh động các hoạt động của con người trong môi trường sống để duy trì, đồng thời tái tạo các sản phẩm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định nhằm không ngừng tác động, biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng sống của chính con người.

Cụm từ môi trường văn hoá lần đầu xuất hiện trong văn kiện Đại hội VIII (1996) của Đảng: “Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh (tác giả nhấn mạnh) cho sự phát triển xã hội”[1]. Trước đó giới nghiên cứu văn hoá Việt Nam cũng đã tiếp nhận lý luận về môi trường văn hoá của các học giả nghiên cứu văn hoá dưới thời Liên Xô cũ. Năm 1981, cuốn sách

Cơ sở lý luận văn hoá Mác – Lênin do A.I. Ác-môn-đốp chủ biên, dịch từ tiếng Nga và được Nhà xuất bản Văn hoá xuất bản đưa ra quan niệm: “Môi trường văn hoá là một tổng thể ổn định những yếu tố vật thể và nhân cách, nhờ đó các cá thể tác động lẫn nhau. Chúng ảnh hưởng tới hoạt động khai thác và sáng tạo giá trị văn hoá, tới nhu cầu tinh thần, hứng thú và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hoá không chỉ là tổng hợp những yếu tố văn hoá vật thể mà còn có những con người hiện diện văn hoá“[1].

Quan niệm trên chỉ cho rõ hai thành tố quan trọng của môi trường văn hoá:

  1. Những yếu tố vật thể (vật thể tự nhiên và vật thể nhân tạo).
  2. Nhân cách (có thể hiểu là hành vi văn hoá biểu hiện ở cộng đồng người và cá thể người).

Hai thành tố này ảnh hưởng đến quá trình sáng tạo, hưởng thụ, phổ biến các giá trị văn hoá và ý chí vươn lên của con người hướng tới chuẩn mực giá trị nhất định.

Ở một góc nhìn khác, tác giả Đỗ Huy cho rằng “Môi trường văn hoá chính là môi trường nhân hóa” và từ góc nhìn giá trị học nhấn mạnh vai trò của con người: “Môi trường văn hoá chính là sự vận động của các quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình“[2].

Từ định hướng trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng và từ thực tiễn sinh động của các phong trào văn hóa những năm đầu 90 (thế kỷ XX): phong trào xây dựng gia đình văn hóa; làng, bản, ấp văn hóa; khu dân cư tiên tiến; môi trường văn hóa trong quân đội…, Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998) đã đề ra 10 nhiệm vụ cơ bản xây dựng nền văn hóa Việt Nam, xếp nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa ở vị trí thứ hai sau nhiệm vụ xây dựng con người. Nghị quyết đặt ra mục tiêu của việc xây dựng môi trường văn hóa là: “Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội…), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi…) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân“. Đồng thời Nghị quyết trên cũng chỉ ra những vấn đề quan tâm cụ thể của xây dựng môi trường văn hóa là: “Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội.

Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa, nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn minh.

Thu hẹp dần khoảng cách đời sống văn hóa giữa các trung tâm đô thị và nông thôn, giữa những vùng kinh tế phát triển với các vùng sâu, vùng xa, vùng núi, biên giới, hải đảo, giữa các tầng lớp nhân dân.

Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào quần chúng hoạt động văn hóa, nghệ thuật“.

Với đề ra Nghị quyết Trung ương 5, tư duy về xây dựng môi trường văn hóa của chúng ta đã tiến thêm một bước. Nội dung xây dựng môi trường văn hóa bao gồm các nội dung chủ yếu sau:– Xây dựng đời sống văn hóa đơn vị cơ sở– Xây dựng gia đình, cộng đồng văn hóa– Xây dựng nếp sống văn minh– Xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa.– Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức, phong trào văn hóa, văn nghệ.Nội dung trên chưa làm rõ yếu tố nhân cách và môi trường tự nhiên trong xây dựng môi trường văn hóa. Những bất cập này được bổ sung bởi nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh được đặt ra trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững (2014). Đảng ta đã tiếp thu học thuyết phát triển bền vững của UNESCO, gồm ba trụ cột cơ bản: kinh tế bền vững, xã hội bền vững và môi trường bền vững, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển con người trên phạm vi toàn cầu. Nghị quyết Trung ương 9 nêu rõ tư tưởng chỉ đạo “xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, đề cao vai trò của gia đình, cộng đồng”, đồng thời nhấn mạnh vấn đề nhân cách văn hóa, bảo vệ môi trường tự nhiên trong nội dung xây dựng môi trường văn hóa: “Mọi nơi, cộng đồng, cơ quan, đơn vị Mọi tổ chức, đoàn thể phải là môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện nhân cách, lối sống của con người. Kết hợp xây dựng môi trường văn hóa với bảo vệ môi trường sinh thái. Tích hợp nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân tích cực giáo dục xã hội.Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, vun đắp nhân cách văn hóa, giáo dục lối sống của con người. Tiếp nối các giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và nhân rộng mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, nề nếp, ông bà mẫu mực, cha mẹ hiếu thảo với con cháu, vợ chồng hòa thuận, anh em đoàn kết, thân ái. Xây dựng mỗi trường học thực sự là trung tâm văn hóa, giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống cho con người; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ”.Do đó, thông qua việc phân loại các tài liệu của đảng về các vấn đề văn hóa và môi trường, có thể thấy tư duy của đảng về các vấn đề văn hóa và môi trường ngày càng rõ ràng hơn. Nội hàm môi trường văn hóa rộng hơn đời sống văn hóa. Đời sống văn hóa là những điều kiện và hành vi văn hóa do con người tạo ra trong những hoàn cảnh sống cụ thể khác nhau nhằm thỏa mãn khát vọng hưởng thụ và sáng tạo văn hóa. Môi trường văn hóa đề cao vai trò tích cực của con người với tư cách là sản phẩm của văn hóa và là chủ thể sáng tạo văn hóa trong mối quan hệ giữa ứng xử, tự nhiên và môi trường xã hội. Ổn định, phát triển, hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ và không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Xây dựng đời sống văn hóa là trung tâm, nhiệm vụ quan trọng của chiến lược xây dựng môi trường văn hóa. Môi trường văn hóa bao gồm văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể, môi trường tự nhiên và các thành tố khác, đặc biệt là con người trong nền văn hóa.Tóm lại, môi trường văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất là sự tồn tại của các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể do con người sáng tạo ra; sự tồn tại của các yếu tố vật chất tự nhiên xung quanh con người trở thành nơi và điều kiện tồn tại của con người; tồn tại trong và tác động qua lại, dẫn dắt con người theo các chuẩn mực giá trị xã hội

5/5 – (3778 bình chọn)

✅ Dịch vụ thành lập công ty
⭕ ACC cung cấp dịch vụ thành lập công ty/ thành lập doanh nghiệp trọn vẹn chuyên nghiệp đến quý khách hàng toàn quốc

✅ Đăng ký giấy phép kinh doanh
⭐ Thủ tục bắt buộc phải thực hiện để cá nhân, tổ chức được phép tiến hành hoạt động kinh doanh của mình

✅ Dịch vụ ly hôn
⭕ Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn ly hôn, chúng tôi tin tưởng rằng có thể hỗ trợ và giúp đỡ bạn

✅ Dịch vụ kế toán
⭐ Với trình độ chuyên môn rất cao về kế toán và thuế sẽ đảm bảo thực hiện báo cáo đúng quy định pháp luật

✅ Dịch vụ kiểm toán
⭕ Đảm bảo cung cấp chất lượng dịch vụ tốt và đưa ra những giải pháp cho doanh nghiệp để tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác

✅ Dịch vụ làm hộ chiếu
⭕ Giúp bạn rút ngắn thời gian nhận hộ chiếu, hỗ trợ khách hàng các dịch vụ liên quan và cam kết bảo mật thông tin

Với đề ra Nghị quyết Trung ương 5, tư duy về xây dựng môi trường văn hóa của chúng ta đã tiến thêm một bước. Nội dung xây dựng môi trường văn hóa bao gồm các nội dung chủ yếu sau:– Xây dựng đời sống văn hóa đơn vị cơ sở– Xây dựng gia đình, cộng đồng văn hóa– Xây dựng nếp sống văn minh– Xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa.– Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức, phong trào văn hóa, văn nghệ.Nội dung trên chưa làm rõ yếu tố nhân cách và môi trường tự nhiên trong xây dựng môi trường văn hóa. Những bất cập này được bổ sung bởi nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh được đặt ra trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững (2014). Đảng ta đã tiếp thu học thuyết phát triển bền vững của UNESCO, gồm ba trụ cột cơ bản: kinh tế bền vững, xã hội bền vững và môi trường bền vững, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển con người trên phạm vi toàn cầu. Nghị quyết Trung ương 9 nêu rõ tư tưởng chỉ đạo “xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, đề cao vai trò của gia đình, cộng đồng”, đồng thời nhấn mạnh vấn đề nhân cách văn hóa, bảo vệ môi trường tự nhiên trong nội dung xây dựng môi trường văn hóa: “Mọi nơi, cộng đồng, cơ quan, đơn vị Mọi tổ chức, đoàn thể phải là môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện nhân cách, lối sống của con người. Kết hợp xây dựng môi trường văn hóa với bảo vệ môi trường sinh thái. Tích hợp nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân tích cực giáo dục xã hội.Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, vun đắp nhân cách văn hóa, giáo dục lối sống của con người. Tiếp nối các giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và nhân rộng mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, nề nếp, ông bà mẫu mực, cha mẹ hiếu thảo với con cháu, vợ chồng hòa thuận, anh em đoàn kết, thân ái. Xây dựng mỗi trường học thực sự là trung tâm văn hóa, giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống cho con người; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ”.Do đó, thông qua việc phân loại các tài liệu của đảng về các vấn đề văn hóa và môi trường, có thể thấy tư duy của đảng về các vấn đề văn hóa và môi trường ngày càng rõ ràng hơn. Nội hàm môi trường văn hóa rộng hơn đời sống văn hóa. Đời sống văn hóa là những điều kiện và hành vi văn hóa do con người tạo ra trong những hoàn cảnh sống cụ thể khác nhau nhằm thỏa mãn khát vọng hưởng thụ và sáng tạo văn hóa. Môi trường văn hóa đề cao vai trò tích cực của con người với tư cách là sản phẩm của văn hóa và là chủ thể sáng tạo văn hóa trong mối quan hệ giữa ứng xử, tự nhiên và môi trường xã hội. Ổn định, phát triển, hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ và không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Xây dựng đời sống văn hóa là trung tâm, nhiệm vụ quan trọng của chiến lược xây dựng môi trường văn hóa. Môi trường văn hóa bao gồm văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể, môi trường tự nhiên và các thành tố khác, đặc biệt là con người trong nền văn hóa.Tóm lại, môi trường văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất là sự tồn tại của các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể do con người sáng tạo ra; sự tồn tại của các yếu tố vật chất tự nhiên xung quanh con người trở thành nơi và điều kiện tồn tại của con người; tồn tại trong và tác động qua lại, dẫn dắt con người theo các chuẩn mực giá trị xã hội