Top 10 Nét Văn Hóa Đặc Trưng Của Người Myanmar – Vé Máy Bay Eva Airlines

Người dân các khu du lịch Myanmar tin rằng thanaka là loại mỹ phẩm truyền thống tuyệt vời nhất giúp họ chống nắng, giảm thiểu nếp nhăn, chống nhờn và giúp da mịn màng hơn.  . Thanaka không dành cho một lứa tuổi, một người đàn ông hay một người phụ nữ. Đi đến đâu bạn cũng có thể bắt gặp nhiều hình thù khác nhau từ phấn thanaka trên khuôn mặt của mỗi người. Đây thực chất là một loại kem chiết xuất từ ​​thanaka, cây táo voi, một loại cây siêu phổ biến ở Trung Myanmar, Nam và Đông Nam Á. Cây chậm phát triển chiều cao, có thể mọc trên đất khô cằn, trong môi trường không có nhiều nước. Trong khi ở các quốc gia khác, người ta sử dụng vỏ, lá, rễ, hoa và quả cho mục đích y tế thì người Myanmar lại sử dụng Tthanaka như một loại mỹ phẩm hàng ngày.Gỗ Thanaka được sử dụng để làm các sản phẩm thủ công như lược, hộp và tất nhiên, để làm phấn thanaka.

Cây gỗ Thanaka  Sau khi thu hoạch, chúng được cắt thành những đoạn dài vừa phải. Người Miến Điện sẽ xay những khúc gỗ này thành những phiến đá đó bằng một chất thấm nước gọi là kyauk pyin để lấy bột ra. Bột Thanaka với khả năng làm mát và làm sạch. Loại bột mềm mịn được phụ nữ Miến Điện thoa lên mặt và những vùng tiếp xúc với ánh nắng mặt trời như một cách để chống nắng. Bột Thanaka có lịch sử tương đối lâu đời, xuất hiện trong thơ ca thế giới vào thế kỷ 14. Nhiều tài liệu cho thấy bột Thanaka đã được phụ nữ Myanmar sử dụng từ 2000 năm nay như một loại mỹ phẩm. Đặc biệt thích hợp cho da, làm mát da, chống nắng, kích thích sản sinh collagen cũng như sợi elastin (protein) dưới da, làm đầy các mô da.Bột Thanaka khi thoa ngoài da còn góp phần tẩy tế bào chết, kháng viêm giúp kháng và trị mụn,

Cũng giống như người Việt Nam, người Myanmar cũng có phong tục ăn trầu  . Văn hóa ăn trầu là một nét văn hóa thú vị. Cũng có nguồn gốc từ nông nghiệp, nhưng Myanmar không được hiện đại hóa nhiều như các nước Đông Nam Á láng giềng, vì vậy, tục ăn trầu dân dã xuất hiện ở khắp mọi nơi trên đất nước này, từ nông thôn đến thành thị, thế hệ già hay lớp trẻ… đều thấy tục ăn trầu là một thói quen đã ngấm vào cuộc sống bình thường của họ một cách vô hình. Không phân biệt tuổi tác, đàn ông, đàn bà, già trẻ, gái trai .. Đều là trầu cau. Vì vậy, khi đến xứ sở này, bạn không tranh mà bắt gặp hình ảnh người dân nơi đây ăn trầu.Họ nhổ trầu để nhai bất cứ khi nào rảnh rỗi, cô gái bán trầu nhai trầu, một ông già đan trầu khi làm ruộng, họ nhai trầu, đánh cờ, nhai trầu, thậm chí là hạn đỏ. nhẹ. cũng có miếng trầu để nhai. Bí quyết ăn trầu của họ cũng khác nhau, Tùy thuộc vào thói quen của mỗi người. Có người ăn trầu thì nuốt nước trầu, có người không thì nhổ đi.

Khi du lịch  Myanmar,  nếu bạn nhìn thấy nó trên đường phố hay thậm chí trong những khách sạn cao cấp với những bãi biển nước trầu đỏ thì cũng đừng ngạc nhiên. Ai đó vô tình nhổ ra một đống nước trầu giữa đường là chuyện bình thường. Có lẽ điều đó không phù hợp lắm cho việc sinh nở. Chuyện ăn trầu ở đây được coi là tục lệ hút thuốc lá, họ nhai trầu để tiêu khiển, đàn ông Myanmar thích ăn trầu hơn là hút thuốc. Do tục ăn trầu nên ăn trầu cũng là một hình thức mua bán của người dân nơi đây. Khi đến đây bạn sẽ thấy rất nhiều cửa hàng bán trầu cau, trầu cau, trầu cau hay trầu bà ở khắp mọi nơi.Thông thường, người dân nơi đây thường tụ tập ở những quán trầu trên vỉa hè, uống nước, nhai trầu, thỉnh thoảng hát hò, tán gẫu với nhau.

phương pháp đặt tên

Người Miến Điện không đặt tên theo họ mà đặt theo ngày sinh trong tuần, mỗi ngày trong tuần tượng trưng cho một linh vật  là Phượng, Hổ, Nghê, Voi, Thỏ, Chuột, và Snake. Cách xưng hô gắn liền với tên, tức là thêm mạo từ vào chỗ trống trước tên của một người, để chỉ giới tính, tuổi tác, địa vị và địa vị. Về cách đặt tên, người dân nơi đây không đặt tên theo dòng họ, họ đặt tên theo ngày sinh trong tuần, mỗi ngày trong tuần tượng trưng cho một linh vật. Do đó, cách xưng hô gắn với kiểu tên, tức là thêm mạo từ vào trước tên người ta, để chỉ nam nữ, tuổi tác, địa vị.

Thanh niên là nam giới và trẻ nhỏ có mào tự phong (nghĩa là em trai) để thể hiện sự khiêm tốn. Đối với người bằng hoặc lớn tuổi thì thay “mao” bằng “gua”, đối với cấp trên thì thay “mao” bằng “u” nghĩa là bác, bác bỏ. phụ nữ thêm “daw”, có nghĩa là chị, cô, bà. Theo như được biết, người Myanmar không dùng quá 100 từ để đặt tên, dùng những từ này kết hợp với nhau để dễ gọi nên ở Myanmar số lượng người trùng tên rất đông. Và để phân biệt sự khác nhau, người ta thường thêm vào trước hoặc sau tên cơ quan, nghề nghiệp, chức vụ …

Nhạc truyền thống Myanmar

Cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới,  nền văn hóa nghệ thuật truyền thống của Myanmar  sở hữu những nét đặc sắc ấn tượng. Dàn nhạc truyền thống của Myanmar không chỉ đồ sộ về nhạc cụ mà còn thu hút khách du lịch bằng những nét độc đáo. Dàn nhạc truyền thống của Myanmar (gọi là Saing Waing) bao gồm nhiều nhạc cụ kết hợp với nhau bao gồm 1 bộ trống, 1 bộ cồng chiêng (Kyi Waing), chuông tre (Pattala), chũm chọe và các nhạc cụ khác. nhạc cụ hơi và dây… Bộ trống được gọi là Pat Waing, một bộ trống lớn của Myanmar với 21 dòng, và bộ trống nhỏ cũng có chín dòng.

Các nhạc cụ tương đối bao gồm hnè hoặc oboe và sáo, trong đó, hnè là loại nhạc cụ có âm thanh rất cao. Dàn cồng chiêng trong dàn nhạc truyền thống Myanmar cũng có chín dòng. đôi khi, thay vì cồng, người Myanmar cũng sử dụng cồng tứ giác. Đó là một bộ chiêng treo trên sườn hình chữ nhật với một vài chiếc chiêng tròn. Không chỉ vậy,  Myanmar  còn có một số nhạc cụ dân tộc tiêu biểu khác khá ấn tượng như Sidaw (trống) dùng trong các dịp quan trọng, ozi (trống hình cái lọ) và dobat (trống cơm). được sử dụng trong các lễ hội làng, bonshay (trống dài) và bongyi (trống cái) được sử dụng trong lễ hội mùa màng và xuống đồng.