Tư duy và tưởng tưởng Bản word thuyết trình – Tài liệu text
Mục lục bài viết
Tư duy và tưởng tưởng Bản word thuyết trình
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.14 KB, 10 trang )
1. Tư duy
1.1 Khái niệm
Tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối
liên hệ, quan hệ có tính chất quy luật của những sự vật hiện tợng trong hiện thực khách
quan mà trớc đó ta cha biết.
1.2 Bản chất xã hội của tư duy
Tư duy được tiến hành trong bộ óc của từng người cụ thể , nhưng tư duy có bản chất xã
hội và được thể hiện qua các mặt sau:
Hành động tư duy đều dựa trên cơ sở kinh nghiệm mà các thế hệ trước đã tích lũy,
tức là dựa vào kết quả hoạt động nhận thức mà xã hội loài người đã đạt được từ
trước tới nay.
Tư duy dựa vào vốn từ ngữ mà các thế hệ trước sáng tạo ra với tư cách là một
phương tiện biểu đạt, khái quát và giữ gìn kết quả hoạt động nhận thức của loài
người.
Bản chất quá trình tư duy được thúc đẩy do nhu cầu của xã hội, ý nghĩa là ý nghĩ
của con người được hướng vào việc giải quyết các nhiệm vụ nóng hổi nhất của giai
đoạn lịch sử đương đại.
Tư duy mang tính tập thể: tức tư duy phải sử dụng các tài liều thu được trong các
lĩnh vực tri thức liện quan, nếu không sẽ không giải quyết được các nhiệm vụ đặt
ra.
Tư duy mang tính tích cực: Tư duy của mỗi người được hình thành và phát triển
trong quá trình hoạt động nhận thức tích cực của bản thân họ, giải quyết nhiệm vụ
cấp thiết, nóng hổi nhất của giai đoạn lịch sử đương đại.
Phân tích 1 ví dụ
Sau đây ta sẻ thử phân tích 1 ví dụ để thấy được bản chất xã hội của tư duy:
Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu về sự ra đời của máy vi tính một sản phẩm của tư duy mà
ta không thể không biết tới. Qua ví dụ này ta sẽ thấy rõ hơn về bản chất xã hội của tư duy,
những cái mới mà trước đó con người chưa biết tới.
Đây là một trong những chiếc siêu máy tinh đầu tiên trên thế giới và chiếc máy tính xách
tay đầu tiên.Để tạo ra những chiếc máy tinh như bây giời mà ta đang sử dụng, không phải
là chuyện ngày một ngày hai, không phải chỉ được tạo ra sau vài giờ, không phải chỉ cần
một người là đủ.Mà là cả một giai đoạn lịch sử, rất nhiều tài liệu, kiến thức và kinh
nghiệm của bao nhiêu người đi trước…Từ chiếc máy tính đầu tiên trên thế giới (thập niên
50 của thế kỉ XX) kích thước tới 250m vuông, nhưng tốc độ chỉ đạt vài ngàn phép tính
trên một giây; tới chiếc máy tính để bàn nhỏ gọn như hình bên rồi chiếc máy tính xách tay
rất tiện gọn.
Máy tính điện tử ra đời vào năm 1946 tại hoa kì từ đó đã phát triển rất mạnh và đến nay
đã trải qua 5 thế hệ máy tính. Thế hệ 1 (thập niên 50) dùng bòng điện tử chân không, tiêu
thụ năng lượng rất lớn. Kích thước máy rất lớn (khoảng 250 m vuông ) nhưng tốc độ xử
lý lại rất chậm chỉ đạt khoảng vài ngàn phép tính trên giây mà giá cả thì cắt cổ. Thế hệ 2
(thập niên 60) các bóng điện tử đã được thay bằng các bóng làm bằng chất bán dẫn nên
năng lượng tiêu thụ giảm, kích thước nhỏ hơn nhưng vẫn rất lớn ( 50 m vuông ), tốc độ xử
lý đạt khoảng vài chục ngàn phép tính trên giây (có thể đọc hay không cũng được, nói qua
một chút thôi). Thế hệ 5 là thế hệ máy tính hiện nay, được tập trung phát triển về nhiều
mặt nhằm nâng cao tốc độ xử lý va tạo thêm nhiều tính năng cho máy. Các máy tính hiện
nay có thể xử lý hàng chục tỷ phép tính trên giây.
– Tư duy sử dụng kinh nghiệm của những người đi trước:
Tư duy tạo ra những chiếc máy tính này là dựa vào kinh nghiệm của các thế hệ đị trước,
cái cũ sẽ để lại kinh nghiệm cho cái mới. Kinh nghiệm mà trước đó những người đã từng
nghiên cứu và chế tạo máy vi tinh để lại. Đó là tư duy phải dựa vào kinh nghiệm.
-Tư duy là do nhu cầu xã hội thúc đẩy:
Khi mà số lượng công việc ngày càng nhiều, con người quá bận rộn, máy tính ra đời giúp
con người tính toán nhanh hơn.
Sau này còn là nhu cầu giúp con người giải trí sau những giờ làm việc mệt mỏi_nhu cầu
giải trí. Nhu cầu giao tiếp,tình cảm do khoảng cách địa lí, máy tính đã đưa con người lại
gần nhau (internet).
Máy tính ra đời là để giải quyết nhu cầu của con người hay tư duy tạo ra máy tính là do
nhu cầu xã hội.
-Tư duy sử dụng ngôn ngữ của các thế hệ trước để lại:
Và tất nhiên tư duy phải sử dụng ngôn ngữ mà các thế hệ trước tạo ra. Những người tạo ra
những chiếc máy vi tính này nếu muốn người sau biết cách sản xuất nó họ phải lưu lại
bằng ngôn ngữ: chữ viết hoặc âm thanh cái mà họ đã tư duy ra. Cũng như các thế hệ trước
đó đã để lại cho họ. Nếu không một nhà nghiên cứu nào để lại những gì mình tìm tư duy
được thì chắc rằng máy vi tính sẽ không bao giờ ra đời.
-Tư duy mang tính tập thể:
Việc tạo ra chiếc máy tính bảng tuyệt vời như hình dưới không chỉ quy định bởi các công
việc liên quan đến lĩnh vực sản xuất máy tính mà còn là sự kết hợp của rất nhiều các
ngành nghề lĩnh vực liên quan, đó là thành quả tư duy của những người làm trong các lĩnh
vực khác về thiết kế thời trang, phần mềm, vật lý học, tin học, điện tử, kĩ thuật đồ họa, lập
trình…
Tức là dựa trên kết quả tư duy của tập thể.
-Tư duy mang tính tích cực:
Thử hỏi các bạn: sự ra đời của máy vi tính có mang tính tích cực không? Rất tích cực,
việc tạo ra máy tính công nghệ cao đã giúp con người giải quyết các công việc nhanh hơn
và hiệu quả hơn.Không những thế, đó còn là phương tiện giải trí hữu hiệu và bổ ích cho
con người sau những giờ làm việc mệt mỏi.Và đã mang lại một thời kì mới trong văn
minh nhân loại, thời kì của công nghệ.
Tính tích cực của những tư duy sáng tạo như thế này chắc chắn không phải bàn cãi. Chính
vì tư duy là để giải quyết các nhiệm vụ của con người
Trên đây chỉ là một trong vô số những ví dụ như thế, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra
ngay qua những việc nhỏ nhặt xung quanh ta: thử hỏi, tại sao chúng ta, những người trẻ
tuổi thường hay nói hay trách móc những cụ già, ông bà ta ở nhà, hay là thậm chí cả bố
mẹ ta lạc hậu. Vì sao thế?
Vì chúng ta và họ sống trong hai giai đoạn lịch sử khác nhau.Vì sao họ không biết sử
dụng điện thoại di động? Vì sao họ không biết tới internet? Vì xã hội mà họ sống trước đó
không có những thứ mà chúng ta đang dùng. Đơn giản, Việt Nam chỉ mới đổi mới được
hơn 20 năm nay và tàn dư của xã hội cũ vẫn còn đâu đó trong xã hội này.
1.3 Đặc điểm của tư duy
a. Tính có vấn đề của tư duy.
– Vấn đề là những tình huống, hoàn cảnh chứa đựng một mục đích, một vấn đề mới mà
những hiểu biết cũ, những phương pháp hành động cũ tuy còn cần thiết song không đủ
sức giải quyết.
– Tư duy chỉ xuất hiện khi gặp những hoàn cảnh, tình huống có vấn đề. Muốn giải quyết
vấn đề đó con người phải tìm cách thức giải quyết mới. Tức là con người phải tư duy.
Ví dụ:
Giả sử để giải một bài toán, trước hết học sinh phải nhận thức được yêu cầu, nhiệm
vụ của bài toán, sau đó nhớ lại các quy tắc, công thức, định lí có liên quan về mối quan hệ
giữa cái đã cho và cái cần tìm, phải chứng minh để giải được bài toán. Khi đó tư duy xuất
hiện.
Có phải tư duy luôn luôn xuất hiện?
Không phải bất cứ hoàn cảnh nào tư duy cũng xuất hiện. Vấn đề chỉ trở nên “tình
huống có vấn đề” khi chủ thể nhận thức được tình huống có vấn đề, nhận thức được mâu
thuẫn chứa đựng trong vấn đề, chủ thể phải có nhu cầu giải quyết và phải có những tri
thức liên quan đến vấn đề. Chỉ trên cơ sở đó tư duy mới xuất hiện.
Ví dụ:
Nếu đặt câu hỏi “giai cấp là gì ?” Với học sinh lớp 1 thì sẽ không làm học sinh phải suy
nghĩ. Nếu cho bài toán : 2(x+1) = ? thì với học sinh lớp 2 tư duy sẽ không xuất hiện.
b. Tính gián tiếp của tư duy.
– Tư duy con người không nhận thức thế giới một cách trực tiếp mà có khả năng nhận
thức nó một cách gián tiếp. Tính gián tiếp của tư duy được thể hiện trước hết ở việc con
người sử dụng ngôn ngữ để tư duy. Nhờ có ngôn ngữ mà con người sử dụng các kết quả
nhận thức (quy tắc, khái niệm, công thức, quy luật…) và kinh nghiệm của bản thân vào
quá trình tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát…)để nhận thức được cái bên
trong, bản chất của sự vật hiện tượng.
Ví du:
Để giải một bài toán thì trước hết học sinh phải biết được yêu cầu, nhiệm vụ của
bài toán, nhớ lại các công thức, định lí…có liên quan để giải bài toán. Ta thấy rõ rằng
trong quá trình giải bài toán đó con người đã dùng ngôn ngữ mà thể hiện là các quy tắc,
định lí… ngoài ra còn có cả kinh nghiệm của bản thân chủ thể thông qua nhiều lần giải
toán trước đó.
– Tính gián tiếp của tư duy còn được thể hiện ở chỗ, trong quá trình tư duy con người sử
dụng những công cụ, phương tiện (như đồng hồ, nhiệt kế, máy móc…) để nhận thức đối
tượng mà không thể trực tiếp tri giác chúng.
Ví dụ:
Để biết được nhiệt độ sôi của nước ta dùng nhiệt kế để đo. Để đo người ta dùng
các thiết bị đo đặc biệt để đo chứ không thể qua cảm nhận giác quan thông thường mà
biết được.
– Nhờ có tính gián tiếp mà tư duy của con người đã mở rộng không giới hạn khả năng
nhận thức của con người, con người không chỉ phản ánh những gì diễn ra trong hiện tại
mà còn phản ánh được cả quá khứ và tương lai.
Ví dụ:
Dựa trên những dữ liệu thiên văn, khí hậu con người thu thập được mà con người
dự báo được bão. Ví dụ: Các phát minh do con người tạo ra như nhiệt kế, tivi… giúp
chúng ta hiểu biết về những hiện tượng thiên nhiên, thực tế nhưng chúng ta không tri
giác trực tiếp. Ví dụ: Dựa vào những thành tựu và tri thức các nhà khoa học lưu lại mà
chúng ta tính toán được nhiều về vũ trụ, mà kết quả là chúng ta phát hiện thêm nhiều
thiên hà mới mà chúng ta chưa một lần đặt chân đến. – Tư duy được biểu hiện trong ngôn
ngữ.
c. Tính trừu tượng và khái quát của tư duy.
– Khác với nhận thức cảm tính, tư duy không phản ánh sự vật, hiện tượng một cách cụ thể
và riêng lẻ. Tư duy có khả năng trừu xuất khỏi sự vật, hiện tượng những thuộc tính,
những dấu hiệu cá biệt, cụ thể, chỉ giữ lại những thuộc tính bản chất chung cho nhiều sự
vật hiện tượng, trên cơ sở đó mà khái quát những sự vật hiện tượng riêng lẻ, nhưng có
những thuộc tính chung thành một nhóm, một loại, một phạm trù. Nói cách khác tư duy
mang tính trừu tượng và khái quát.
+ Trừu tượng là dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc tính, những mối liên
hệ, quan hệ thứ yếu không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết cho tư duy.
+ Khái quát là dùng tri óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau thành một nhóm,
một loại, một phạm trù theo những thuộc tính, liên hệ, quan hệ chung nhất định.
=>Trừu tượng và khái quát có mối liên hệ mật thiết với nhau ở mức độ cao. Không có
trừu tượng thì không thể tiến hành khái quát, nhưng trừu tượng mà không khái quát thì
hạn chế quá trình nhận thức.
Ví dụ:
+ Nói về khái niệm “cái cốc”, con người trừu xuất những thuộc tính không quan
trọng như chất liệu, màu sắc, kiểu dáng mà chỉ giữ lại những thuộc tính cần thiết như hình
trụ, dùng để đựng nước uống. Đó là trừu tượng.
+ Khái quát gộp tất cả những đồ vật có những thuộc tính cơ bản nói trên dù làm
bằng nhôm, sứ, thủy tinh…có màu xanh hay vàng…tất cả điều xếp vào một nhóm “cái
cốc”.
– Nhờ có đặc điểm này mà con người không chỉ giải quyết được những nhiệm vụ hiện tại
mà còn có thể giải quyết được những nhiệm vụ của tương lai, trong khi giải quyết nhiệm
vụ cụ thể vẫn có thể sắp xếp nó vào một nhóm, một loại, một phạm trù để có những quy
tắc, những phương pháp giải quyết tương tự.
Ví dụ:
Khi tính diện tích hình chữ nhật ta có công thức: S = (a x b).Công thức này được áp dụng
cho nhiều trường hợp tương tự với nhiều con số khác nhau.
d. Tư duy quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ.
– Tư duy mang tính có vấn đề, tính gián tiếp, tính trừu tượng và khái quát là do nó gắn
chặt với ngôn ngữ. Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu không có
ngôn ngữ thì quá trình tư duy của con người không thể diễn ra được, đồng thời các sản
phẩm của tư duy (khái niệm, phán đoán…)cũng không được chủ thể và người khác tiếp
nhận.
Ví dụ: Nếu không có ngôn ngữ thì những công thức toán học sẽ không có và không thể
hiện được những hiểu biết về tự nhiên.
Ví dụ: khi tiến hành lập trình PASCAL, người ta dùng ngôn ngữ để ghi lại để có một
chương trình lập trình hoàn chỉnh. Nếu không có ngôn ngữ để ghi lại thì cả chủ thể lẫn
người học đều không thể tiếp nhận được trọn vẹn tri thức.
– Ngôn ngữ cố định lại kết quả của tư duy, là phương tiện biểu đạt kết quả tư duy, do đó
có thể khách quan hóa kết quả tư duy cho người khác và cho bản thân chủ thể tư duy.
Ngược lại, nếu không có tư duy thì ngôn ngữ chỉ là những chuỗi âm thanh vô nghĩa. Tuy
nhiên, ngôn ngữ không phải là tư duy mà chỉ là phương tiện của tư duy.
– Ngôn ngữ của chúng ta ngày nay là kết quả của quá trình phát triển tư duy lâu dài trong
lịch sử phát triển của nhân loại, do đó ngôn ngữ luôn thể hiện kết quả tư duy của con
người.
Ví dụ: Công thức tính diện tích hình vuông S = (a x a) là kết quả của quá trình con người
tìm hiểu tính toán. Nếu không có tư duy thì rõ ràng công thức này vô nghĩa.
e. Tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính
– Nhận thức cảm tính bao gồm cảm giác và tri giác, trong đó:
+ Cảm giác là một quá trình tâm lí phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật
hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
+ Tri giác là quá trình tâm lí phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài
của sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
– Tư duy phải dựa vào nhận thức cảm tính, dựa trên những tài liệu cảm tính, trên kinh
nghiệm, trên cơ sở trực quan sinh động. Tư duy thường bắt đầu từ nhận thức cảm tính,
trên cơ sở nhận thức cảm tính mà nảy sinh tình huống có vấn đề. Nhận thức cảm tính là
một khâu của mối liên hệ trực tiếp giữa tư duy với hiện thực, là cơ sở của những khái quát
kinh nghiệm dưới dạng những khái niệm, quy luật… là chất liệu của những khái quát hiện
thực theo một nhóm, một lớp, một phạm trù mang tính quy luật trong quá trình tư duy.
– X.L.Rubinstein – nhà tâm lí học Xô viết đã viết: “nội dung cảm tính bao giờ cũng có
trong tư duy trừu tượng, tựa hồ như làm thành chỗ dựa của tư duy”.
– Lênin từng nói: “không có cảm giác thì không có quá trình nhận thức nào cả”.
Vi dụ: Khi có một vụ tai nạn giao thông xảy ra mà ta thấy. Thì trong đầu ta sẽ đặt ra hàng
loạt các câu hỏi như: Tại sao lại xảy ra tai nạn ? Ai là người có lỗi ?…như vậy là từ những
nhận thức cảm tính như : nhìn, nghe…quá trình tư duy bắt đầu xuất hiện.
– Ngược lại, tư duy và những kết quả của nó ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối khả năng phản
ánh của nhận thức cảm tính: làm cho khả năng cảm giác của con người tinh vi, nhạy bén
hơn, làm cho tri giác của con người mang tính lựa chọn, tính ý nghĩa. Chính vì lẽ đó,
Ph.Angghen đã viết: “nhập vào với mắt của chúng ta chẳng những có các cảm giác khác
mà còn có cả hoạt động tư duy của ta nữa”.
1.4 Các giai đoạn của tư duy
– Nhận thức vấn đề
Đó là giai đoạn con người xác định được nhiệm vụ của tư duy. Thực chất là tìm ra,
xác định được những vấn đề, những nhiệm vụ cha được giải quyết và cần phải giải quyết.
ở một bài toán đó là việc tìm ra bài toán yêu cầu gì bắt chúng ta phải tìm cái gì.
Hoàn cảnh có vấn đề chứa đựng các mâu thuẫn khác nhau (giữa cái đã biết với cái
không biết, giữa cái đã có với cái không có v.v.). Con người càng có nhiều kinh nghiệm
trong lĩnh vực nào đó, càng dễ nhìn ra và nhìn đầy đủ những mâu thuẫn đó, càng dễ dàng
xác định những vấn đề đòi hỏi họ giải quyết.
– Xuất hiện các liên tưởng
Là giai đoạn mà chủ thể huy động các tri thức, kinh nghiệm có liên quan đến
nhiệm vụ của tư duy.
– Sàng lọc liên tưởng và hình thành giả thuyết
Đây là giai đoạn gạt bỏ những liên tởng không cần thiết và chỉ giữ lại những liên tởng cần thiết trên cơ sở đó hình thành giả thuyết, tức là cách giải quyết có thể có đối với
nhiệm vụ của tư duy.
– Kiểm tra giả thuyết
Sự đa dạng của các giả thuyết không phải là mục đích tự thân, nên phải kiểm tra
xem giả thuyết nào tơng ứng với các điều kiện và các vấn đề đặt ra. Sẽ có 2 hớng: 1/ Nếu
giả thuyết đúng, chính xác thì sẽ dẫn đến việc giải quyết vấn đề; 2/ Nếu sai thì sẽ bác bỏ
giả thuyết, quá trình tư duy lại diễn ra từ đầu. Việc kiểm tra giả thuyết có thể diễn ra trong
đầu hay trong hoạt động thực tiễn. Trong quá trình kiểm tra này có thể lại phát hiện ra
những nhiệm vụ mới, do đó lại bắt đầu một quá trình tư duy mới.
– Giải quyết các nhiệm vụ tư duy
Đây là khâu cuối cùng của hoạt động tư duy. Khi giả thuyết đã được xác định và
chính xác hóa thì nó được thực hiện tức là đi đến câu trả lời cuối cùng cho vấn đề đã được
đặt ra.
1.5 Các thao tác tư duy
Tư duy là một quá trình cá nhân thực hiện các thao tác trí tuệ nhất định để giải quyết vấn
đề hay nhiệm vụ được đặt ra. Những thao tác đó còn được gọi là quy luật nội tại của tư
duy
a, Phân tích tổng hợp
Là quá trình con người dùng trí óc phân chia đối tượng nhận thức thành những bộ
phận, thành phần tách ra trong đối tượng nhận thức các yếu tố, các thuộc tính, các mối
quan hệ nhất định, trong đó có thuộc tính quan trọng nhất, cơ bản nhất nổi lên hàng đầu
cần phải quan tâm đối với người đang tư duy.
b, So sánh
Là quá trình con người dùng trí óc để xác định sự giống nhau, khác nhau, sự đồng
nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các sự vật hiện tượng,
Thông qua quá trình so sánh, rút ra từ trong mỗi sự vật hiện tượng những cái chung, cái
riêng, cái khác biệt.
c, Trừu tượng hóa
Là quá trình con người dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc tính, những
mối liên hệ, quan hệ chủ yếu không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố nào cần thiết, cơ
bản để tư duy.
d, Khái quát hóa
Là quá trình con người dùng trí óc để thống nhất nhiều đối tượng khác nhau nhưng
có chung những thuộc tính, những liên hệ, quan hệ nhất định thành 1 nhóm hay 1 loại.
1.6 Ý nghĩa những đặc điểm của tư duy đối với công tác giáo dục (Kết luận sư phạm)
– Phải coi trọng việc phát triển tư duy cho sinh viên
– Muốn thúc đẩy sinh viên tư duy thì phải đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề
– Phát triển tư duy phải tiến hành song song và thông qua truyền thụ tri thức
– Phát triển tư duy phải gắn với trau dồi ngôn ngữ cho sinh viên
– Phát triển tư duy phải gắn với rèn luyện cảm giác, tri giác, tính nhạy cảm, năng lực quan
sát, trí nhớ của sinh viên
2. Tưởng tượng
2.1 Khái niệm
Tưởng tượng là một quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa có trong kinh
nghiệm bằng cách xây dựng nên những hình ảnh mới ( biểu tượng ) mới trên cơ sở những
hình ảnh ( biểu tượng ) đã có.
2.2 Bản chất của tưởng tượng
– Về nội dung: phản ánh cái mới, chưa có trong kinh nghiệm của cá nhân hoặc xã hội
– Về phương thức phản ánh: tạo ra những hình ảnh mới (biểu tượng mới) trên cơ sở những
biểu tượng đã biết nhờ các phương thức hành động (chắp ghép liên howpk, nhấn mạnh,
điển hình hóa, loại suy)
– Về phương diện kết quả phản ánh: sản phẩm là các biểu tượng của tưởng tượng -> hình
ảnh mới do con người tạo ra trên cơ sở những biểu tượng của trí nhớ
2.3 Đặc điểm của tưởng tượng
– Tưởng tượng chỉ nảy sinh trước những tình huống có vấn đề, tức là những đòi hỏi mới,
thực tiễn chưa từng gặp, trước những nhu cầu khám phá, phát hiện, làm sáng tỏ cái mới
nhưng chỉ khi tính bất định (không xác định rõ ràng) của hoàn cảnh quá lớn (nếu rõ ràng
rành mạch thì diễn ra quá trình tư duy). Giá trị của tưởng tượng chính là ở chỗ tìm được
lối thoát trong hoàn cảnh có vấn đề, ngay cả khi không đủ điều kiện để tư duy; nó cho
phép “nhảy cóc” qua một vài giai đoạn nào đó của tư duy mà vẫn hình dung ra được kết
quả cuối cùng. Song đây cũng chính là chỗ yếu trong giải quyết vấn đề của tưởng tượng
(thiếu chuẩn xác, chặt chẽ).
Ví dụ: khi đọc tác phẩm “Sống như anh” chúng ta chưa đến nơi anh Trỗi ở, chưa được
tiếp xúc với anh, không được chứng kiến 9 phút cuối cùng bất tử của anh nhưng ta vẫn
hình dung được hình dáng, tâm trạng, khí phách, cùng với những tình tiết trong câu
chuyện.
– Tưởng tượng là một quá trình nhận thức được bắt đầu và thực hiện chủ yếu bằng hình
ảnh, nhưng vẫn mang tính gián tiếp và khái quát cao so với trí nhớ. Biểu tượng của tưởng
tượng là một hình ảnh mới được xây dựng từ những biểu tượng của trí nhớ, nó là biểu
tượng của biểu tượng.
Ví dụ: Họa sĩ Nga Xuricop nhìn thấy 1 con quạ đen trền nền tuyết trắng tưởng tượng ngay
đến hình tượng của phu nhân Morodova (nhân vật thối tha của chế độ Nga hoàng).
– Tưởng tượng liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính, nó sử dụng những biểu tượng của
trí nhớ do nhận thức cảm tính thu lượm cung cấp.
Ví dụ: khi học lịch sử cổ đại học sinh phải tưởng tượng ra cuộc sống của người nguyên
thủy.
2.4 Vài trò của tưởng tượng
– Tưởng tượng có liên quan mật thiết với mọi hoạt động của con người. Nhờ có tưởng
tượng con người mới hình dung trước được kết quả của lao động, nó giúp con người định
hướng mọi hoạt động, thúc đẩy hoạt động,…
Ví dụ: Jack Nicklaus, một tay gôn chuyên nghiệp và nổi tiếng thế giới đã từng tiết lộ bí
mật thành công của mình, trước tiên ông tưởng tượng ra hình ảnh quả bóng đang nằm ở vị
trí nơi ông muốn nó kết thúc, sau đó ông tưởng tượng ra đường đi của nó và cả cái cách
nó tiếp đất như thế nào? Cuối cùng ông làm y như thế và đã thành công.
– Tưởng tượng cần thiết cho hoạt động nhận thức trong các quá trình của nhận thức đều có
sự tham gia hỗ trợ của tưởng tượng.
– Tưởng tượng còn có vai trò trong học tập, ảnh hưởng tới sự sáng tạo của nhà văn, họa sĩ,
điêu khắc,…
Ví dụ: Nếu giáo viên nói rằng: khoảng cách từ trái đất đến mặt trời bằng 149.500.000 km
thì học sinh rất khó hình dung mặc dù đó là con số cụ thể. Nhưng nếu giáo viên mô tả
thông qua so sánh: chuyến xe lửa chuyển động đều với vận tốc 50km/h thì phải đi hết 340
năm mới hết quảng đường đó. Thì học sinh sẽ dễ hình dung hơn.
2.5 Các loại tưởng tượng
2.5.1 Tưởng tượng tích cực
– Là tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm đáp ứng những nhu cầu. Kích thích tính
tích tực thực tế của con người.
– Gồm 2 loại
+ Tưởng tượng tái tạo: tạo ra những hình ảnh chỉ đối với cá nhân người tưởng
tượng và dựa trên sự mô tả của người khác
Ví dụ: Học sinh tưởng tưởng ra những điều cô giáo mô tả trong sách giao khoa
Tưởng tưởng tái tạo mang tính chủ thể cao, hay có sự cắt xén thêm bớt là tùy thuộc
vào vốn kinh nghiệm cá nhân. Do vậy muốn có sự tưởng tượng tái tạo tốt cần có kinh
nghiệm chính xác, phong phú, đầy đủ.
Tưởng tượng tái tạo có ý nghĩa trong quá trình nhận thức của con người. Nó giúp
cho con người nắm được những tri thức, kinh nghiệm về các sự vật hiện tượng mà con
người không thể tiếp cận được; chẳng hạn như trong ngành khảo cổ học.
+ Tưởng tượng sáng tạo: là quá trình xây dựng hình ảnh mới trong khi chưa có
kinh nghiệm của cá nhân, cũng như chưa có trong kinh nghiệm của xã hội.
Ví dụ: sáng tạo ra tàu bay, tàu vũ trụ,…
Sản phẩm của tưởng tượng sáng tạo được thực hiện hóa trong những sản phẩm vật
chất độc đáo và có giá trị.
Tưởng tượng sáng tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố: lập trường, quan điểm sống, sự
hiểu biết sâu rộng về các vấn đề trong thế giới tự nhiên và xã hội; đồng thời có sự tham
gia của tính ngẫu hứng. Muốn có tưởng tượng sáng tạo tốt cần có tưởng tượng tái tạo tốt.
Bởi vì muốn tạo ra một hình ảnh mới về một lĩnh vực nào đó thì con người trước hết cần
phải có tri thức về lĩnh vực đó. Tưởng tượng tái tạo sâu sắc chính xác và có hệ thống sẽ
tạo điều kiện cho tưởng tượng sáng tạo phong phú độc đáo.
2.5.2 Tưởng tượng tiêu cực
– Tưởng tượng tạo ra những hình ảnh không thể được thực hiện trong cuộc sống, vạch ra
những chương trình hành vi không thực hiện, tưởng tượng chỉ để mà tưởng tượng, để thay
thế cho hành động
– Tưởng tượng tiêu cực có thể xảy ra một cách có chủ định nhưng không gắn liền với ý
chí thể hiện những hình ảnh tượng tượng trong cuộc sống. Đó là sự mơ mộng
Ví dụ: Một người có vóc dáng không cân đối nhưng luôn mơ trở thành một người mẫu nổi
tiếng
– Có thể xảy ra một cách không chủ định (thường khi con người trong trạng thái không
hoạt động)
Ví dụ: Khi ngủ ta nằm mơ trở thành trẻ con
2.5.3 Ước mơ
– Là những loại tưởng tượng được hướng về tương lại, biểu hiện mong muốn, ước ao của
con người, không hướng vào hoạt động hiện tại
– Có 2 loại ước mơ:
+ Ước mơ có lợi: thúc đẩy cá nhân vươn lên, biến ước mơ thành hiện thực
Ví dụ: Một sinh viên mơ ước được điểm cao
+ Ước mơ có hại: làm cá nhân thất vọng, chán nản
Ví dụ: Mơ ước trở thành người giàu có bằng mọi cách
2.5.4 Lý tưởng
– Là loại tưởng tượng được hướng về tương lai là một hình ảnh chói lọi, rực sáng, cụ thể,
hấp dẫn của cái tương lai mong muốn. Nó là một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy con người
vươn tới tương lai.
2.6 Các cách sáng tạo mới trong tưởng tượng
2.6.1 Thay đổi kích thước, số lượng của sự vật hay thành phần của sự vật
Thay đổi kích thước số lượng để làm giảm đi hình dáng của nó so với ban đầu
Ví dụ: Người không lồ, người tí hon, cây tre trăm đốt
2.6.2 Chắp ghép, kết dính
Lấy thuộc tính của sự vật hiện tượng này chắp ghép vào những thuộc tính của sự vật hiện
tượng khác.
Ví dụ: Nàng tiên cá (mình người, đuôi cá)
2.6.3 Nhấn mạnh (Cường điệu hóa)
Phương pháp nhấn mạnh (cường điệu hóa) hàng đầu 1 thuộc tính của sự vật hiện tượng
nào đó
Ví dụ: Nhát như thỏ đế
2.6.4 Liên hợp
Tạo ra hình ảnh mới dựa trên cách liên hợp các bộ phận của nhiều sự vật với nhau. Các bộ
phận tạo nên hình ảnh mới đều bị cải biến và sắp xếp trong những tương quan mới.
Thường được sử dụng trong sáng tạo nghệ thuật và sáng tạo kĩ thuật.
Ví dụ: Tạo ra thủy phi cơ vừa có khả năng bay trên không, vừa có khả năng lặn dưới nước
2.6.5 Điển hình hóa
Tạo hình ảnh mới bằng cách xây dựng thuộc tính, đặc điểm điển hình của nhân cách đại
diện cho 1 giai cấp, 1 lớp người,…
Ví dụ: Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” nhà văn Tô Hoài đã xây dựng nhân vật Mỵ là
điển hình người phụ nữ miền núi bị áp bức bóc lột
2.6.6 Phương pháp loại suy (tương tự)
Tạo ra hình ảnh mới từ những sự vật hiện tượng đã có trong cuộc sống, trên cơ sở mô
phỏng, bắt chước những chi tiết bộ phận của những sự vật có thực.
Ví dụ: Con người chế tạo ra công cụ lao động từ những thao tác lao động của bàn tay
3. Sự giống, khác nhau giữa tư duy và tưởng tượng
3.1 Giống nhau
– Đều là quá trình nhận thức lý tính
– Đều phản ánh một cách gián tiếp
– Đều xuất hiện khi gặp hoàn cảnh có vấn đề
– Đều liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ và nhận thức cảm tính
3.2 Khác nhau
Tư duy
Tưởng tượng
– Phản ánh cái mới đối với cá nhân
– Phản ánh cái mới đối với cả cá nhân và xã
– Phản ánh bằng con đường suy lý, logic
hội
với những thao tác cụ thể
– Phản ánh bằng con đường chắp ghép phối
– Sản phẩm là những khái niệm, phán đoán, hợp, nhào nặn để tạo nên hình ảnh mới
suy lý
– Sản phẩm là các biểu tượng của tưởng
– Tính bất định của hoàn cảnh có vấn đề
tượng
thấp hơn (so với tưởng tượng)
– Tính bất định của hoàn cảnh có vấn đề là
cao hơn
3.3 Mối quan hệ giữa tư duy và tưởng tượng
– Ảnh hưởng của tư duy đối với tưởng tượng
Trong quá trình tưởng tượng nhất thiết phải có sự tham gia của tư duy bởi vì tư duy
tạo ý đồ cho tưởng tượng
Tư duy đảm bảo tính hợp lý, tính logic cho quá trình tưởng tượng, làm giảm bớt đi
sự bay bổng có tính chất thoát ly thực tế
– Ảnh hưởng của tưởng tượng đối với tư duy
Tưởng tượng làm cụ thể hóa nội dung trừu tượng và triết lý cảu tư duy
Tưởng tượng vạch hướng đi cho tư duy, thúc đẩy tư duy trong việc tìm ra cái mới
một người là đủ.Mà là cả một giai đoạn lịch sử, rất nhiều tài liệu, kiến thức và kinhnghiệm của bao nhiêu người đi trước…Từ chiếc máy tính đầu tiên trên thế giới (thập niên50 của thế kỉ XX) kích thước tới 250m vuông, nhưng tốc độ chỉ đạt vài ngàn phép tínhtrên một giây; tới chiếc máy tính để bàn nhỏ gọn như hình bên rồi chiếc máy tính xách tayrất tiện gọn.Máy tính điện tử ra đời vào năm 1946 tại hoa kì từ đó đã phát triển rất mạnh và đến nayđã trải qua 5 thế hệ máy tính. Thế hệ 1 (thập niên 50) dùng bòng điện tử chân không, tiêuthụ năng lượng rất lớn. Kích thước máy rất lớn (khoảng 250 m vuông ) nhưng tốc độ xửlý lại rất chậm chỉ đạt khoảng vài ngàn phép tính trên giây mà giá cả thì cắt cổ. Thế hệ 2(thập niên 60) các bóng điện tử đã được thay bằng các bóng làm bằng chất bán dẫn nênnăng lượng tiêu thụ giảm, kích thước nhỏ hơn nhưng vẫn rất lớn ( 50 m vuông ), tốc độ xửlý đạt khoảng vài chục ngàn phép tính trên giây (có thể đọc hay không cũng được, nói quamột chút thôi). Thế hệ 5 là thế hệ máy tính hiện nay, được tập trung phát triển về nhiềumặt nhằm nâng cao tốc độ xử lý va tạo thêm nhiều tính năng cho máy. Các máy tính hiệnnay có thể xử lý hàng chục tỷ phép tính trên giây.- Tư duy sử dụng kinh nghiệm của những người đi trước:Tư duy tạo ra những chiếc máy tính này là dựa vào kinh nghiệm của các thế hệ đị trước,cái cũ sẽ để lại kinh nghiệm cho cái mới. Kinh nghiệm mà trước đó những người đã từngnghiên cứu và chế tạo máy vi tinh để lại. Đó là tư duy phải dựa vào kinh nghiệm.-Tư duy là do nhu cầu xã hội thúc đẩy:Khi mà số lượng công việc ngày càng nhiều, con người quá bận rộn, máy tính ra đời giúpcon người tính toán nhanh hơn.Sau này còn là nhu cầu giúp con người giải trí sau những giờ làm việc mệt mỏi_nhu cầugiải trí. Nhu cầu giao tiếp,tình cảm do khoảng cách địa lí, máy tính đã đưa con người lạigần nhau (internet).Máy tính ra đời là để giải quyết nhu cầu của con người hay tư duy tạo ra máy tính là donhu cầu xã hội.-Tư duy sử dụng ngôn ngữ của các thế hệ trước để lại:Và tất nhiên tư duy phải sử dụng ngôn ngữ mà các thế hệ trước tạo ra. Những người tạo ranhững chiếc máy vi tính này nếu muốn người sau biết cách sản xuất nó họ phải lưu lạibằng ngôn ngữ: chữ viết hoặc âm thanh cái mà họ đã tư duy ra. Cũng như các thế hệ trướcđó đã để lại cho họ. Nếu không một nhà nghiên cứu nào để lại những gì mình tìm tư duyđược thì chắc rằng máy vi tính sẽ không bao giờ ra đời.-Tư duy mang tính tập thể:Việc tạo ra chiếc máy tính bảng tuyệt vời như hình dưới không chỉ quy định bởi các côngviệc liên quan đến lĩnh vực sản xuất máy tính mà còn là sự kết hợp của rất nhiều cácngành nghề lĩnh vực liên quan, đó là thành quả tư duy của những người làm trong các lĩnhvực khác về thiết kế thời trang, phần mềm, vật lý học, tin học, điện tử, kĩ thuật đồ họa, lậptrình…Tức là dựa trên kết quả tư duy của tập thể.-Tư duy mang tính tích cực:Thử hỏi các bạn: sự ra đời của máy vi tính có mang tính tích cực không? Rất tích cực,việc tạo ra máy tính công nghệ cao đã giúp con người giải quyết các công việc nhanh hơnvà hiệu quả hơn.Không những thế, đó còn là phương tiện giải trí hữu hiệu và bổ ích chocon người sau những giờ làm việc mệt mỏi.Và đã mang lại một thời kì mới trong vănminh nhân loại, thời kì của công nghệ.Tính tích cực của những tư duy sáng tạo như thế này chắc chắn không phải bàn cãi. Chínhvì tư duy là để giải quyết các nhiệm vụ của con ngườiTrên đây chỉ là một trong vô số những ví dụ như thế, chúng ta có thể dễ dàng nhận rangay qua những việc nhỏ nhặt xung quanh ta: thử hỏi, tại sao chúng ta, những người trẻtuổi thường hay nói hay trách móc những cụ già, ông bà ta ở nhà, hay là thậm chí cả bốmẹ ta lạc hậu. Vì sao thế?Vì chúng ta và họ sống trong hai giai đoạn lịch sử khác nhau.Vì sao họ không biết sửdụng điện thoại di động? Vì sao họ không biết tới internet? Vì xã hội mà họ sống trước đókhông có những thứ mà chúng ta đang dùng. Đơn giản, Việt Nam chỉ mới đổi mới đượchơn 20 năm nay và tàn dư của xã hội cũ vẫn còn đâu đó trong xã hội này.1.3 Đặc điểm của tư duya. Tính có vấn đề của tư duy.- Vấn đề là những tình huống, hoàn cảnh chứa đựng một mục đích, một vấn đề mới mànhững hiểu biết cũ, những phương pháp hành động cũ tuy còn cần thiết song không đủsức giải quyết.- Tư duy chỉ xuất hiện khi gặp những hoàn cảnh, tình huống có vấn đề. Muốn giải quyếtvấn đề đó con người phải tìm cách thức giải quyết mới. Tức là con người phải tư duy.Ví dụ:Giả sử để giải một bài toán, trước hết học sinh phải nhận thức được yêu cầu, nhiệmvụ của bài toán, sau đó nhớ lại các quy tắc, công thức, định lí có liên quan về mối quan hệgiữa cái đã cho và cái cần tìm, phải chứng minh để giải được bài toán. Khi đó tư duy xuấthiện.Có phải tư duy luôn luôn xuất hiện?Không phải bất cứ hoàn cảnh nào tư duy cũng xuất hiện. Vấn đề chỉ trở nên “tìnhhuống có vấn đề” khi chủ thể nhận thức được tình huống có vấn đề, nhận thức được mâuthuẫn chứa đựng trong vấn đề, chủ thể phải có nhu cầu giải quyết và phải có những trithức liên quan đến vấn đề. Chỉ trên cơ sở đó tư duy mới xuất hiện.Ví dụ:Nếu đặt câu hỏi “giai cấp là gì ?” Với học sinh lớp 1 thì sẽ không làm học sinh phải suynghĩ. Nếu cho bài toán : 2(x+1) = ? thì với học sinh lớp 2 tư duy sẽ không xuất hiện.b. Tính gián tiếp của tư duy.- Tư duy con người không nhận thức thế giới một cách trực tiếp mà có khả năng nhậnthức nó một cách gián tiếp. Tính gián tiếp của tư duy được thể hiện trước hết ở việc conngười sử dụng ngôn ngữ để tư duy. Nhờ có ngôn ngữ mà con người sử dụng các kết quảnhận thức (quy tắc, khái niệm, công thức, quy luật…) và kinh nghiệm của bản thân vàoquá trình tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát…)để nhận thức được cái bêntrong, bản chất của sự vật hiện tượng.Ví du:Để giải một bài toán thì trước hết học sinh phải biết được yêu cầu, nhiệm vụ củabài toán, nhớ lại các công thức, định lí…có liên quan để giải bài toán. Ta thấy rõ rằngtrong quá trình giải bài toán đó con người đã dùng ngôn ngữ mà thể hiện là các quy tắc,định lí… ngoài ra còn có cả kinh nghiệm của bản thân chủ thể thông qua nhiều lần giảitoán trước đó.- Tính gián tiếp của tư duy còn được thể hiện ở chỗ, trong quá trình tư duy con người sửdụng những công cụ, phương tiện (như đồng hồ, nhiệt kế, máy móc…) để nhận thức đốitượng mà không thể trực tiếp tri giác chúng.Ví dụ:Để biết được nhiệt độ sôi của nước ta dùng nhiệt kế để đo. Để đo người ta dùngcác thiết bị đo đặc biệt để đo chứ không thể qua cảm nhận giác quan thông thường màbiết được.- Nhờ có tính gián tiếp mà tư duy của con người đã mở rộng không giới hạn khả năngnhận thức của con người, con người không chỉ phản ánh những gì diễn ra trong hiện tạimà còn phản ánh được cả quá khứ và tương lai.Ví dụ:Dựa trên những dữ liệu thiên văn, khí hậu con người thu thập được mà con ngườidự báo được bão. Ví dụ: Các phát minh do con người tạo ra như nhiệt kế, tivi… giúpchúng ta hiểu biết về những hiện tượng thiên nhiên, thực tế nhưng chúng ta không trigiác trực tiếp. Ví dụ: Dựa vào những thành tựu và tri thức các nhà khoa học lưu lại màchúng ta tính toán được nhiều về vũ trụ, mà kết quả là chúng ta phát hiện thêm nhiềuthiên hà mới mà chúng ta chưa một lần đặt chân đến. – Tư duy được biểu hiện trong ngônngữ.c. Tính trừu tượng và khái quát của tư duy.- Khác với nhận thức cảm tính, tư duy không phản ánh sự vật, hiện tượng một cách cụ thểvà riêng lẻ. Tư duy có khả năng trừu xuất khỏi sự vật, hiện tượng những thuộc tính,những dấu hiệu cá biệt, cụ thể, chỉ giữ lại những thuộc tính bản chất chung cho nhiều sựvật hiện tượng, trên cơ sở đó mà khái quát những sự vật hiện tượng riêng lẻ, nhưng cónhững thuộc tính chung thành một nhóm, một loại, một phạm trù. Nói cách khác tư duymang tính trừu tượng và khái quát.+ Trừu tượng là dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc tính, những mối liênhệ, quan hệ thứ yếu không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết cho tư duy.+ Khái quát là dùng tri óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau thành một nhóm,một loại, một phạm trù theo những thuộc tính, liên hệ, quan hệ chung nhất định.=>Trừu tượng và khái quát có mối liên hệ mật thiết với nhau ở mức độ cao. Không cótrừu tượng thì không thể tiến hành khái quát, nhưng trừu tượng mà không khái quát thìhạn chế quá trình nhận thức.Ví dụ:+ Nói về khái niệm “cái cốc”, con người trừu xuất những thuộc tính không quantrọng như chất liệu, màu sắc, kiểu dáng mà chỉ giữ lại những thuộc tính cần thiết như hìnhtrụ, dùng để đựng nước uống. Đó là trừu tượng.+ Khái quát gộp tất cả những đồ vật có những thuộc tính cơ bản nói trên dù làmbằng nhôm, sứ, thủy tinh…có màu xanh hay vàng…tất cả điều xếp vào một nhóm “cáicốc”.- Nhờ có đặc điểm này mà con người không chỉ giải quyết được những nhiệm vụ hiện tạimà còn có thể giải quyết được những nhiệm vụ của tương lai, trong khi giải quyết nhiệmvụ cụ thể vẫn có thể sắp xếp nó vào một nhóm, một loại, một phạm trù để có những quytắc, những phương pháp giải quyết tương tự.Ví dụ:Khi tính diện tích hình chữ nhật ta có công thức: S = (a x b).Công thức này được áp dụngcho nhiều trường hợp tương tự với nhiều con số khác nhau.d. Tư duy quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ.- Tư duy mang tính có vấn đề, tính gián tiếp, tính trừu tượng và khái quát là do nó gắnchặt với ngôn ngữ. Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu không cóngôn ngữ thì quá trình tư duy của con người không thể diễn ra được, đồng thời các sảnphẩm của tư duy (khái niệm, phán đoán…)cũng không được chủ thể và người khác tiếpnhận.Ví dụ: Nếu không có ngôn ngữ thì những công thức toán học sẽ không có và không thểhiện được những hiểu biết về tự nhiên.Ví dụ: khi tiến hành lập trình PASCAL, người ta dùng ngôn ngữ để ghi lại để có mộtchương trình lập trình hoàn chỉnh. Nếu không có ngôn ngữ để ghi lại thì cả chủ thể lẫnngười học đều không thể tiếp nhận được trọn vẹn tri thức.- Ngôn ngữ cố định lại kết quả của tư duy, là phương tiện biểu đạt kết quả tư duy, do đócó thể khách quan hóa kết quả tư duy cho người khác và cho bản thân chủ thể tư duy.Ngược lại, nếu không có tư duy thì ngôn ngữ chỉ là những chuỗi âm thanh vô nghĩa. Tuynhiên, ngôn ngữ không phải là tư duy mà chỉ là phương tiện của tư duy.- Ngôn ngữ của chúng ta ngày nay là kết quả của quá trình phát triển tư duy lâu dài tronglịch sử phát triển của nhân loại, do đó ngôn ngữ luôn thể hiện kết quả tư duy của conngười.Ví dụ: Công thức tính diện tích hình vuông S = (a x a) là kết quả của quá trình con ngườitìm hiểu tính toán. Nếu không có tư duy thì rõ ràng công thức này vô nghĩa.e. Tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính- Nhận thức cảm tính bao gồm cảm giác và tri giác, trong đó:+ Cảm giác là một quá trình tâm lí phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vậthiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.+ Tri giác là quá trình tâm lí phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoàicủa sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.- Tư duy phải dựa vào nhận thức cảm tính, dựa trên những tài liệu cảm tính, trên kinhnghiệm, trên cơ sở trực quan sinh động. Tư duy thường bắt đầu từ nhận thức cảm tính,trên cơ sở nhận thức cảm tính mà nảy sinh tình huống có vấn đề. Nhận thức cảm tính làmột khâu của mối liên hệ trực tiếp giữa tư duy với hiện thực, là cơ sở của những khái quátkinh nghiệm dưới dạng những khái niệm, quy luật… là chất liệu của những khái quát hiệnthực theo một nhóm, một lớp, một phạm trù mang tính quy luật trong quá trình tư duy.- X.L.Rubinstein – nhà tâm lí học Xô viết đã viết: “nội dung cảm tính bao giờ cũng cótrong tư duy trừu tượng, tựa hồ như làm thành chỗ dựa của tư duy”.- Lênin từng nói: “không có cảm giác thì không có quá trình nhận thức nào cả”.Vi dụ: Khi có một vụ tai nạn giao thông xảy ra mà ta thấy. Thì trong đầu ta sẽ đặt ra hàngloạt các câu hỏi như: Tại sao lại xảy ra tai nạn ? Ai là người có lỗi ?…như vậy là từ nhữngnhận thức cảm tính như : nhìn, nghe…quá trình tư duy bắt đầu xuất hiện.- Ngược lại, tư duy và những kết quả của nó ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối khả năng phảnánh của nhận thức cảm tính: làm cho khả năng cảm giác của con người tinh vi, nhạy bénhơn, làm cho tri giác của con người mang tính lựa chọn, tính ý nghĩa. Chính vì lẽ đó,Ph.Angghen đã viết: “nhập vào với mắt của chúng ta chẳng những có các cảm giác khácmà còn có cả hoạt động tư duy của ta nữa”.1.4 Các giai đoạn của tư duy- Nhận thức vấn đềĐó là giai đoạn con người xác định được nhiệm vụ của tư duy. Thực chất là tìm ra,xác định được những vấn đề, những nhiệm vụ cha được giải quyết và cần phải giải quyết.ở một bài toán đó là việc tìm ra bài toán yêu cầu gì bắt chúng ta phải tìm cái gì.Hoàn cảnh có vấn đề chứa đựng các mâu thuẫn khác nhau (giữa cái đã biết với cáikhông biết, giữa cái đã có với cái không có v.v.). Con người càng có nhiều kinh nghiệmtrong lĩnh vực nào đó, càng dễ nhìn ra và nhìn đầy đủ những mâu thuẫn đó, càng dễ dàngxác định những vấn đề đòi hỏi họ giải quyết.- Xuất hiện các liên tưởngLà giai đoạn mà chủ thể huy động các tri thức, kinh nghiệm có liên quan đếnnhiệm vụ của tư duy.- Sàng lọc liên tưởng và hình thành giả thuyếtĐây là giai đoạn gạt bỏ những liên tởng không cần thiết và chỉ giữ lại những liên tởng cần thiết trên cơ sở đó hình thành giả thuyết, tức là cách giải quyết có thể có đối vớinhiệm vụ của tư duy.- Kiểm tra giả thuyếtSự đa dạng của các giả thuyết không phải là mục đích tự thân, nên phải kiểm traxem giả thuyết nào tơng ứng với các điều kiện và các vấn đề đặt ra. Sẽ có 2 hớng: 1/ Nếugiả thuyết đúng, chính xác thì sẽ dẫn đến việc giải quyết vấn đề; 2/ Nếu sai thì sẽ bác bỏgiả thuyết, quá trình tư duy lại diễn ra từ đầu. Việc kiểm tra giả thuyết có thể diễn ra trongđầu hay trong hoạt động thực tiễn. Trong quá trình kiểm tra này có thể lại phát hiện ranhững nhiệm vụ mới, do đó lại bắt đầu một quá trình tư duy mới.- Giải quyết các nhiệm vụ tư duyĐây là khâu cuối cùng của hoạt động tư duy. Khi giả thuyết đã được xác định vàchính xác hóa thì nó được thực hiện tức là đi đến câu trả lời cuối cùng cho vấn đề đã đượcđặt ra.1.5 Các thao tác tư duyTư duy là một quá trình cá nhân thực hiện các thao tác trí tuệ nhất định để giải quyết vấnđề hay nhiệm vụ được đặt ra. Những thao tác đó còn được gọi là quy luật nội tại của tưduya, Phân tích tổng hợpLà quá trình con người dùng trí óc phân chia đối tượng nhận thức thành những bộphận, thành phần tách ra trong đối tượng nhận thức các yếu tố, các thuộc tính, các mốiquan hệ nhất định, trong đó có thuộc tính quan trọng nhất, cơ bản nhất nổi lên hàng đầucần phải quan tâm đối với người đang tư duy.b, So sánhLà quá trình con người dùng trí óc để xác định sự giống nhau, khác nhau, sự đồngnhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các sự vật hiện tượng,Thông qua quá trình so sánh, rút ra từ trong mỗi sự vật hiện tượng những cái chung, cáiriêng, cái khác biệt.c, Trừu tượng hóaLà quá trình con người dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc tính, nhữngmối liên hệ, quan hệ chủ yếu không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố nào cần thiết, cơbản để tư duy.d, Khái quát hóaLà quá trình con người dùng trí óc để thống nhất nhiều đối tượng khác nhau nhưngcó chung những thuộc tính, những liên hệ, quan hệ nhất định thành 1 nhóm hay 1 loại.1.6 Ý nghĩa những đặc điểm của tư duy đối với công tác giáo dục (Kết luận sư phạm)- Phải coi trọng việc phát triển tư duy cho sinh viên- Muốn thúc đẩy sinh viên tư duy thì phải đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề- Phát triển tư duy phải tiến hành song song và thông qua truyền thụ tri thức- Phát triển tư duy phải gắn với trau dồi ngôn ngữ cho sinh viên- Phát triển tư duy phải gắn với rèn luyện cảm giác, tri giác, tính nhạy cảm, năng lực quansát, trí nhớ của sinh viên2. Tưởng tượng2.1 Khái niệmTưởng tượng là một quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa có trong kinhnghiệm bằng cách xây dựng nên những hình ảnh mới ( biểu tượng ) mới trên cơ sở nhữnghình ảnh ( biểu tượng ) đã có.2.2 Bản chất của tưởng tượng- Về nội dung: phản ánh cái mới, chưa có trong kinh nghiệm của cá nhân hoặc xã hội- Về phương thức phản ánh: tạo ra những hình ảnh mới (biểu tượng mới) trên cơ sở nhữngbiểu tượng đã biết nhờ các phương thức hành động (chắp ghép liên howpk, nhấn mạnh,điển hình hóa, loại suy)- Về phương diện kết quả phản ánh: sản phẩm là các biểu tượng của tưởng tượng -> hìnhảnh mới do con người tạo ra trên cơ sở những biểu tượng của trí nhớ2.3 Đặc điểm của tưởng tượng- Tưởng tượng chỉ nảy sinh trước những tình huống có vấn đề, tức là những đòi hỏi mới,thực tiễn chưa từng gặp, trước những nhu cầu khám phá, phát hiện, làm sáng tỏ cái mớinhưng chỉ khi tính bất định (không xác định rõ ràng) của hoàn cảnh quá lớn (nếu rõ ràngrành mạch thì diễn ra quá trình tư duy). Giá trị của tưởng tượng chính là ở chỗ tìm đượclối thoát trong hoàn cảnh có vấn đề, ngay cả khi không đủ điều kiện để tư duy; nó chophép “nhảy cóc” qua một vài giai đoạn nào đó của tư duy mà vẫn hình dung ra được kếtquả cuối cùng. Song đây cũng chính là chỗ yếu trong giải quyết vấn đề của tưởng tượng(thiếu chuẩn xác, chặt chẽ).Ví dụ: khi đọc tác phẩm “Sống như anh” chúng ta chưa đến nơi anh Trỗi ở, chưa đượctiếp xúc với anh, không được chứng kiến 9 phút cuối cùng bất tử của anh nhưng ta vẫnhình dung được hình dáng, tâm trạng, khí phách, cùng với những tình tiết trong câuchuyện.- Tưởng tượng là một quá trình nhận thức được bắt đầu và thực hiện chủ yếu bằng hìnhảnh, nhưng vẫn mang tính gián tiếp và khái quát cao so với trí nhớ. Biểu tượng của tưởngtượng là một hình ảnh mới được xây dựng từ những biểu tượng của trí nhớ, nó là biểutượng của biểu tượng.Ví dụ: Họa sĩ Nga Xuricop nhìn thấy 1 con quạ đen trền nền tuyết trắng tưởng tượng ngayđến hình tượng của phu nhân Morodova (nhân vật thối tha của chế độ Nga hoàng).- Tưởng tượng liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính, nó sử dụng những biểu tượng củatrí nhớ do nhận thức cảm tính thu lượm cung cấp.Ví dụ: khi học lịch sử cổ đại học sinh phải tưởng tượng ra cuộc sống của người nguyênthủy.2.4 Vài trò của tưởng tượng- Tưởng tượng có liên quan mật thiết với mọi hoạt động của con người. Nhờ có tưởngtượng con người mới hình dung trước được kết quả của lao động, nó giúp con người địnhhướng mọi hoạt động, thúc đẩy hoạt động,…Ví dụ: Jack Nicklaus, một tay gôn chuyên nghiệp và nổi tiếng thế giới đã từng tiết lộ bímật thành công của mình, trước tiên ông tưởng tượng ra hình ảnh quả bóng đang nằm ở vịtrí nơi ông muốn nó kết thúc, sau đó ông tưởng tượng ra đường đi của nó và cả cái cáchnó tiếp đất như thế nào? Cuối cùng ông làm y như thế và đã thành công.- Tưởng tượng cần thiết cho hoạt động nhận thức trong các quá trình của nhận thức đều cósự tham gia hỗ trợ của tưởng tượng.- Tưởng tượng còn có vai trò trong học tập, ảnh hưởng tới sự sáng tạo của nhà văn, họa sĩ,điêu khắc,…Ví dụ: Nếu giáo viên nói rằng: khoảng cách từ trái đất đến mặt trời bằng 149.500.000 kmthì học sinh rất khó hình dung mặc dù đó là con số cụ thể. Nhưng nếu giáo viên mô tảthông qua so sánh: chuyến xe lửa chuyển động đều với vận tốc 50km/h thì phải đi hết 340năm mới hết quảng đường đó. Thì học sinh sẽ dễ hình dung hơn.2.5 Các loại tưởng tượng2.5.1 Tưởng tượng tích cực- Là tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm đáp ứng những nhu cầu. Kích thích tínhtích tực thực tế của con người.- Gồm 2 loại+ Tưởng tượng tái tạo: tạo ra những hình ảnh chỉ đối với cá nhân người tưởngtượng và dựa trên sự mô tả của người khácVí dụ: Học sinh tưởng tưởng ra những điều cô giáo mô tả trong sách giao khoaTưởng tưởng tái tạo mang tính chủ thể cao, hay có sự cắt xén thêm bớt là tùy thuộcvào vốn kinh nghiệm cá nhân. Do vậy muốn có sự tưởng tượng tái tạo tốt cần có kinhnghiệm chính xác, phong phú, đầy đủ.Tưởng tượng tái tạo có ý nghĩa trong quá trình nhận thức của con người. Nó giúpcho con người nắm được những tri thức, kinh nghiệm về các sự vật hiện tượng mà conngười không thể tiếp cận được; chẳng hạn như trong ngành khảo cổ học.+ Tưởng tượng sáng tạo: là quá trình xây dựng hình ảnh mới trong khi chưa cókinh nghiệm của cá nhân, cũng như chưa có trong kinh nghiệm của xã hội.Ví dụ: sáng tạo ra tàu bay, tàu vũ trụ,…Sản phẩm của tưởng tượng sáng tạo được thực hiện hóa trong những sản phẩm vậtchất độc đáo và có giá trị.Tưởng tượng sáng tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố: lập trường, quan điểm sống, sựhiểu biết sâu rộng về các vấn đề trong thế giới tự nhiên và xã hội; đồng thời có sự thamgia của tính ngẫu hứng. Muốn có tưởng tượng sáng tạo tốt cần có tưởng tượng tái tạo tốt.Bởi vì muốn tạo ra một hình ảnh mới về một lĩnh vực nào đó thì con người trước hết cầnphải có tri thức về lĩnh vực đó. Tưởng tượng tái tạo sâu sắc chính xác và có hệ thống sẽtạo điều kiện cho tưởng tượng sáng tạo phong phú độc đáo.2.5.2 Tưởng tượng tiêu cực- Tưởng tượng tạo ra những hình ảnh không thể được thực hiện trong cuộc sống, vạch ranhững chương trình hành vi không thực hiện, tưởng tượng chỉ để mà tưởng tượng, để thaythế cho hành động- Tưởng tượng tiêu cực có thể xảy ra một cách có chủ định nhưng không gắn liền với ýchí thể hiện những hình ảnh tượng tượng trong cuộc sống. Đó là sự mơ mộngVí dụ: Một người có vóc dáng không cân đối nhưng luôn mơ trở thành một người mẫu nổitiếng- Có thể xảy ra một cách không chủ định (thường khi con người trong trạng thái khônghoạt động)Ví dụ: Khi ngủ ta nằm mơ trở thành trẻ con2.5.3 Ước mơ- Là những loại tưởng tượng được hướng về tương lại, biểu hiện mong muốn, ước ao củacon người, không hướng vào hoạt động hiện tại- Có 2 loại ước mơ:+ Ước mơ có lợi: thúc đẩy cá nhân vươn lên, biến ước mơ thành hiện thựcVí dụ: Một sinh viên mơ ước được điểm cao+ Ước mơ có hại: làm cá nhân thất vọng, chán nảnVí dụ: Mơ ước trở thành người giàu có bằng mọi cách2.5.4 Lý tưởng- Là loại tưởng tượng được hướng về tương lai là một hình ảnh chói lọi, rực sáng, cụ thể,hấp dẫn của cái tương lai mong muốn. Nó là một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy con ngườivươn tới tương lai.2.6 Các cách sáng tạo mới trong tưởng tượng2.6.1 Thay đổi kích thước, số lượng của sự vật hay thành phần của sự vậtThay đổi kích thước số lượng để làm giảm đi hình dáng của nó so với ban đầuVí dụ: Người không lồ, người tí hon, cây tre trăm đốt2.6.2 Chắp ghép, kết dínhLấy thuộc tính của sự vật hiện tượng này chắp ghép vào những thuộc tính của sự vật hiệntượng khác.Ví dụ: Nàng tiên cá (mình người, đuôi cá)2.6.3 Nhấn mạnh (Cường điệu hóa)Phương pháp nhấn mạnh (cường điệu hóa) hàng đầu 1 thuộc tính của sự vật hiện tượngnào đóVí dụ: Nhát như thỏ đế2.6.4 Liên hợpTạo ra hình ảnh mới dựa trên cách liên hợp các bộ phận của nhiều sự vật với nhau. Các bộphận tạo nên hình ảnh mới đều bị cải biến và sắp xếp trong những tương quan mới.Thường được sử dụng trong sáng tạo nghệ thuật và sáng tạo kĩ thuật.Ví dụ: Tạo ra thủy phi cơ vừa có khả năng bay trên không, vừa có khả năng lặn dưới nước2.6.5 Điển hình hóaTạo hình ảnh mới bằng cách xây dựng thuộc tính, đặc điểm điển hình của nhân cách đạidiện cho 1 giai cấp, 1 lớp người,…Ví dụ: Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” nhà văn Tô Hoài đã xây dựng nhân vật Mỵ làđiển hình người phụ nữ miền núi bị áp bức bóc lột2.6.6 Phương pháp loại suy (tương tự)Tạo ra hình ảnh mới từ những sự vật hiện tượng đã có trong cuộc sống, trên cơ sở môphỏng, bắt chước những chi tiết bộ phận của những sự vật có thực.Ví dụ: Con người chế tạo ra công cụ lao động từ những thao tác lao động của bàn tay3. Sự giống, khác nhau giữa tư duy và tưởng tượng3.1 Giống nhau- Đều là quá trình nhận thức lý tính- Đều phản ánh một cách gián tiếp- Đều xuất hiện khi gặp hoàn cảnh có vấn đề- Đều liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ và nhận thức cảm tính3.2 Khác nhauTư duyTưởng tượng- Phản ánh cái mới đối với cá nhân- Phản ánh cái mới đối với cả cá nhân và xã- Phản ánh bằng con đường suy lý, logichộivới những thao tác cụ thể- Phản ánh bằng con đường chắp ghép phối- Sản phẩm là những khái niệm, phán đoán, hợp, nhào nặn để tạo nên hình ảnh mớisuy lý- Sản phẩm là các biểu tượng của tưởng- Tính bất định của hoàn cảnh có vấn đềtượngthấp hơn (so với tưởng tượng)- Tính bất định của hoàn cảnh có vấn đề làcao hơn3.3 Mối quan hệ giữa tư duy và tưởng tượng- Ảnh hưởng của tư duy đối với tưởng tượngTrong quá trình tưởng tượng nhất thiết phải có sự tham gia của tư duy bởi vì tư duytạo ý đồ cho tưởng tượngTư duy đảm bảo tính hợp lý, tính logic cho quá trình tưởng tượng, làm giảm bớt đisự bay bổng có tính chất thoát ly thực tế- Ảnh hưởng của tưởng tượng đối với tư duyTưởng tượng làm cụ thể hóa nội dung trừu tượng và triết lý cảu tư duyTưởng tượng vạch hướng đi cho tư duy, thúc đẩy tư duy trong việc tìm ra cái mới