Vai trò của thể chế, chính sách và nguồn lực với sự phát triển nền văn hóa dân tộc

Đồng bào dân tộc Chăm trình diễn tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Sơn Tây – Hà Nội) Ảnh: TR.HUẤN

Thể chế, chính sách và nguồn lực có vai trò đặc biệt quan trọng đối với mọi lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Hơn 35 năm qua, Đảng, Nhà nước đã không ngừng đổi mới tư duy lãnh đạo, nâng cao năng lực quản lý để phát huy tinh thần, sức sáng tạo của nhân dân, xây đắp nền văn hóa Việt Nam phong phú, giàu bản sắc.

Tuy nhiên trước những vấn đề mới, phức tạp từ bối cảnh, tình hình khách quan cũng như những nhu cầu từ chính đời sống văn hóa, đặt ra nhiều vấn đề cần phải đổi mới mạnh mẽ, toàn diện việc xây dựng, ban hành và thực thi thể chế, chính sách và nguồn lực, khắc phục những “điểm nghẽn”, khơi thông mạch nguồn văn hóa để văn hóa ngày càng phát triển.

1. VAI TRÒ CỦA THỂ CHẾ, CHÍNH SÁCH VÀ NGUỒN LỰC

Thể chế, chính sách, nguồn lực là những yếu tố quan trọng liên quan mật thiết đến chủ thể lãnh đạo, quản lý, phản ánh tính chất, đặc trưng của một chế độ, của Nhà nước. Để lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ chức tốt các lĩnh vực của đời sống xã hội, không thể thiếu công cụ, phương thức lãnh đạo, quản lý, đó là việc ban hành điều lệ, cương lĩnh, chỉ thị, nghị quyết; hệ thống chính sách, pháp luật; tổ chức bộ máy; xây dựng đội ngũ và huy động các nguồn lực để đảm bảo các hoạt động diễn ra theo đúng mục tiêu đã xác định.

Thể chế, chính sách được ban hành kịp thời, phù hợp, có tầm nhìn, khả năng dự báo và định hướng chiến lược sẽ góp phần “soi đường” cho dân tộc vươn đến những mục tiêu, lý tưởng tốt đẹp. Thể chế, chính sách hoàn thiện sẽ tạo môi trường pháp lý quan trọng, đảm bảo quyền, lợi ích của con người, tạo động lực thúc đẩy các lĩnh vực phát triển. Ngược lại nếu thể chế, chính sách bảo thủ, lạc hậu, chạy theo thực tiễn sẽ là những rào cản, cản trở sự phát triển và sức sáng tạo của nhân dân, gây những mâu thuẫn, xung đột xã hội.

Thể chế, chính sách là những vấn đề lớn, liên quan trực tiếp đến hình ảnh, vị thế, uy tín quốc gia; có tác động sâu sắc, toàn diện đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đến cuộc sống của mỗi cá nhân và cộng đồng. Vì thế việc xây dựng, ban hành và thực thi thể chế, chính sách cũng như huy động, phân bổ hợp lý nguồn lực là trọng trách của cả hệ thống chính trị, nhất là với những cá nhân, tổ chức được nhân dân ủy thác, trao quyền.

Về thể chế trong lĩnh vực văn hóa, Đảng ta xác định xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. 

Như vậy, sự nghiệp phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước đều có trách nhiệm, đều có quyền tham gia vào sự nghiệp quan trọng này. Nhấn mạnh tầm quan trọng của các giai tầng, các lực lượng chính trị – xã hội cùng tham gia vào sự nghiệp phát triển văn hóa, Đảng nhấn mạnh: “Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá”(1).

Văn hóa là lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm, tinh tế, liên quan mật thiết đến vận mệnh dân tộc, đến nền tảng tư tưởng của Đảng, đảm nhiệm sứ mệnh nuôi dưỡng và bồi đắp tư tưởng, tình cảm, đạo đức và lối sống tốt đẹp, hình thành nên những con người mới – “con người xã hội chủ nghĩa”, “vừa hồng vừa chuyên”. Đây là nguồn nhân lực quan trọng bậc nhất để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Văn hóa có liên lạc với chính trị rất mật thiết. Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời, văn hóa phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích mình”(2); “Vǎn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(3). Khẳng định vai trò to lớn của văn hóa và đội ngũ văn nghệ sĩ đối với công cuộc kháng chiến, kiến quốc, Người đúc kết: “Vǎn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”(4), “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”(5).

Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng, bảo vệ nền độc lập, tự do cũng luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến việc xây đắp nền văn hóa Việt Nam mới với các tính chất, đặc trưng tiêu biểu là “Dân tộc, khoa học, đại chúng”. Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.

Trong công cuộc đổi mới, cả nước đi lên xây dựng CNXH, việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được xác định là một trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân quyết tâm xây dựng. Văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, động lực, là sức mạnh nội sinh quan trọng quyết định đến quá trình phát triển bền vững đất nước. “Văn hoá là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hoá còn thì Dân tộc còn…”(6).

Nhằm cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, Nhà nước đã thể chế thành cơ chế, chính sách, pháp luật, tạo môi trường, hành lang pháp lý đầy đủ, cũng như đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực, đầu tư tài chính, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để văn hóa không ngừng phát triển tương xứng với tiềm năng, thế mạnh, hiện có.

2. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, BAN HÀNH THỂ CHẾ, CHÍNH SÁCH VÀ NGUỒN LỰC

Chủ trương, quyết sách của Đảng về phát triển văn hóa

Để khơi thông mạch nguồn văn hóa, tạo mọi điều kiện cho văn hóa phát triển, tham gia ngày càng tích cực vào quá trình phát triển xã hội, trở thành động lực cho sự phát triển đất nước, trong quá trình lãnh đạo, Đảng đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng, định hướng cho sự phát triển của nền văn hóa dân tộc.

Văn kiện đầu tiên đề cập một cách toàn diện đến nhiệm vụ, tính chất, đặc trưng, nguyên tắc vận động của nền văn hóa Việt Nam mới là Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, tiếp đó là bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam (do đồng chí Trường Chinh đọc tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ 2, năm 1948), cùng với đó là những bài viết, bài phát biểu, thư từ của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác văn hóa, văn nghệ, như bài phát biểu của Người tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất năm 1946, Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951, Thư gửi Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai, Thư gửi Hội nghị cán bộ văn hóa,…; Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội, đều nhấn mạnh đến nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam dân tộc, khoa học, đại chúng; nền văn hóa có nội dung XHCN.

Bước vào thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, cùng với những đổi mới tư duy về kinh tế, chính trị, xã hội, tư duy, nhận thức của Đảng về văn hóa cũng có nhiều chuyển biến tích cực, phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại cũng như điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Văn kiện Đại hội Đảng các nhiệm kỳ đều khẳng định nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một đặc trưng, một nhiệm vụ quan trọng trên con đường đi lên CNXH, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò, vị thế và sức mạnh của văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, xây dựng những con người mới – tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiều nghị quyết chuyên đề của Đảng về văn hóa đã được ban hành, tiêu biểu như: Nghị quyết số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VI (1987) về Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hoá, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hoá phát triển lên một bước mới; Nghị quyết số 04-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993) về Một số nhiệm vụ văn hoá, văn nghệ những năm trước mắt; Nghị quyết số 03-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1998) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới;  Nghị quyết số 33-NQ/TW Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2014) về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Kết luận số 76/KL/TW ngày 4/6/2020 của Bộ Chính trị về Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Đây là những nghị quyết quan trọng, trong đó Đảng luôn đề cao vai trò quan trọng của văn hóa đối với tiến trình đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước. Qua triển khai, thực hiện nghị quyết của Đảng, lĩnh vực văn hóa đạt được nhiều thành tựu to lớn. Điều đó càng minh chứng, khẳng định vai trò, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng với những quan điểm nhất quán, thể hiện tư duy biện chứng, khả năng dự báo mang tầm chiến lược, vạch ra con đường phía trước để từ đó huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, toàn thể nhân dân cùng sức đồng lòng xây dựng nền văn hóa dân tộc ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Những chính sách của Nhà nước về văn hóa

Trên cơ sở quan điểm và những định hướng lớn của Đảng, Nhà nước đã thể chế thành các cơ chế, chính sách, pháp luật về văn hóa ngày càng đầy đủ, hoàn thiện, tạo công cụ pháp lý trong quản lý, tổ chức tốt các hoạt động sáng tạo – sản xuất – phân phối, lưu thông và tiêu dùng, thụ hưởng văn hóa của quần chúng nhân dân.

Trong hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhiều chính sách quan trọng về văn hóa đã được Nhà nước ban hành. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” (Khoản 1, Điều 60), “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” (Điều 41).

Cùng với những điều khoản quy định trong Hiến pháp, các đạo luật về các lĩnh vực cụ thể của văn hóa đã được xây dựng, ban hành, phát huy hiệu quả rõ rệt trong đời sống xã hội, tiêu biểu như: Luật Di sản văn hóa (ban hành năm 2001, sửa đổi 2009), Luật Điện ảnh (ban hành năm, sửa đổi ), Luật Sở hữu trí tuệ (ban hành năm 2005, sửa đổi 2019), Luật Xuất bản (ban hành năm 2005, sửa đổi 2019), Luật Báo chí (ban hành năm 2016), Luật Quảng cáo (ban hành năm 2012), Luật Thư viện (ban hành năm 2019), Luật Du lịch (ban hành năm 2005)…

Bên cạnh việc xây dựng, ban hành luật, Chính phủ và các bộ ngành, chính quyền địa phương đã xây dựng các thông tư, nghị định, chiến lược, đề án, chương trìn, kế hoạch, các quyết định theo thẩm quyền về lĩnh vực văn hóa, nhằm triển khai một cách thống nhất từ Trung ương đến địa phương.

Cách chính sách của Nhà nước về lĩnh vực văn hóa đảm bảo tính bao quát, toàn diện, thống nhất trên cơ sở tôn trọng tính đặc thù văn hóa vùng miền, tộc người. Huy động mọi nguồn lực và sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân cùng xây dựng, phát triển văn hóa. Các chính sách như: Chính sách kinh tế trong văn hóa, Chính sách văn hóa trong kinh tế, Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa, Chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, Chính sách khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động văn hóa, Chính sách hợp tác quốc tế về văn hóa đã từng bước được cụ thể hóa bằng nhiều chiến lược, chương trình, đề án lớn, như: Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020; Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030; Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược Ngoại giao văn hóa đến năm 2030; Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030; Chương trình mục tiêu Phát triển văn hóa giai đoạn 2016-2020; Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Chiến lược phát triển ngành điện ảnh; Quy hoạch phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở; Đề án Quy hoạch và kế hoạch nâng cấp, xây mới các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm văn học nghệ thuật) giai đoạn 2012-2020…

Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

Một số chính sách tập trung vào phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, như: Đề án “Xây dựng đội ngũ trí thức ngành văn hóa, thể thao và du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030”; Đề án “Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo các trường văn hóa, nghệ thuật”; Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên trình độ cao trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật giai đoạn 2010-2020”; Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển tài năng trẻ lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật”; Đề án “Tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng tài năng thể thao và nhân lực thể thao thành tích cao đến năm 2035”; Đề án “Đào tạo tài năng văn hóa nghệ thuật giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn đến năm 2030”; Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực văn hóa nghệ thuật ở nước ngoài đến năm 2030”.

Theo thống kê của ngành văn hóa, trong 5 năm (2014-2019), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tham mưu, trình các cấp có thẩm quyền ban hành 2 Luật, 16 Nghị định, 6 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ(7).

Về nguồn lực trong phát triển văn hóa

Nguồn lực trong phát triển văn hóa thực chất cũng là một chính sách lớn trong nhiều chính sách của Nhà nước. Nguồn lực trong văn hóa bao gồm: nguồn nhân lực con người và nguồn lực tài chính, nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn từ quá trình xã hội hóa, sự đóng góp của cộng đồng các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước cùng tham gia phát triển văn hóa.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ, trong đó có cán bộ văn hóa, thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm thiết lập, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa từ Trung ương đến địa phương. Hiện nay, Chính phủ là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc thực thi chính sách về văn hóa. Dưới Chính phủ là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các bộ liên quan; UBND các cấp, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp tỉnh, Phòng Văn hóa – Thông tin cấp huyện là những đơn vị chịu trách nhiệm về hướng dẫn, triển khai, thực thi, đánh giá, phản hồi chính sách.

Nhìn chung, các xã, phường, thị trấn trong cả nước đều bố trí 1 cán bộ phụ trách về lĩnh vực văn hóa – xã hội, thông thường là đồng chí phó chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn sẽ phụ trách, đảm nhiệm chung cả lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế.

Nhằm cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, hệ thống các cơ sở đào tạo về văn hóa, nghệ thuật cũng như chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu về văn hóa ở các trường thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo và UBND các tỉnh, thành đã được bổ sung, tăng cường, ngày càng chuẩn hóa, đáp ứng tốt yêu cầu của xã hội, thực tiễn công tác quản lý văn hóa cũng như nhu cầu của người học.

Bên cạnh nguồn lực con người thì việc huy động, sử dụng, bố trí nguồn ngân sách tài chính, nguồn vốn nhà nước cho phát triển văn hóa cũng luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm.

Trong hơn 35 năm đổi mới, bên cạnh việc ưu tiên, bố trí các nguồn lực cho phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục, khoa học công nghệ, an ninh quốc phòng thì Đảng, Nhà nước cũng dành nhiều ưu tiên bố trí nguồn ngân sách đầu tư cho lĩnh vực văn hóa nhằm: trùng tu, tôn tạo, bảo tồn các di tích lịch sử, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể; các công trình văn hóa; xây dựng hệ thống các thiết chế văn hóa; sản xuất các chương trình giải trí, xuất bản các ấn phẩm sách báo, tạp chí; tổ chức các hoạt động, phong trào văn hóa, văn nghệ; đầu tư cho lĩnh vực sáng tác, thực hành, trình diễn và trao truyền văn hóa; công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ văn hóa… hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Năm 2004, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2010, mức đầu tư cho văn hóa ít nhất đạt 1.8% tổng chi ngân sách quốc gia. Mặc dù đến nay ngân sách nhà nước đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa đạt được mục tiêu mà Đảng đề ra, nhưng trong bối cảnh nền kinh tế quốc gia và tình hình chính trị – xã hội trong khu vực và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, thì những đầu tư và kết quả đạt được trong lĩnh vực văn hóa đã thể hiện sự cố gắng lớn. Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 đề ra mục tiêu đến năm 2030, phấn đấu tăng mức đầu tư cho văn hóa tối thiểu 2% tổng chi ngân sách hằng năm.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam vì sự phát triển bền vững” đã tạo nên cú hích quan trọng trong việc bảo tồn di sản dân tộc, ngày 27/7/2018.

Có thể thấy, những năm qua, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện, bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Thể chế văn hoá khuyến khích nhân dân lao động tham gia sự nghiệp xây dựng văn hoá trên cả hai mặt sáng tạo và hưởng thụ; giúp đội ngũ văn nghệ sĩ chuyên nghiệp làm tốt vai trò nòng cốt trong việc sáng tạo các giá trị văn hoá mới; tạo điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới. Đảng và Nhà nước đã quan tâm tăng cường bộ máy tổ chức, ban hành những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động của ngành văn hoá. Đầu tư cho văn hóa từng được bổ sung tăng cường bằng nguồn ngân sách nhà nước và nguồn vốn xã hội hóa. Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ từng bước trưởng thành. Những kết quả đó tạo đà cho sự phát triển của văn hóa, góp phần khẳng định vị thế, uy tín, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế.

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong xây dựng, ban hành thể chế, chính sách và huy động nguồn lực cho phát triển văn hóa. Tuy nhiên so với yêu cầu, tình hình thực tiễn văn hóa thì công tác xây dựng, ban hành, nhất là thực thi chính sách, bố trí nguồn lực cho văn hóa còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế.

Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc (năm 2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ một trong những nguyên nhân khiến văn hóa phát triển chưa tương xứng với kinh tế, chính trị, xã hội, đó là: “Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hoá còn lúng túng, chậm trễ, nhất là trong việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về văn hoá. Đầu tư cho văn hoá chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao… Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn hoá trong thời kỳ mới”(8).

Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hoá của dân tộc, Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Cần sớm khắc phục tình trạng chậm thể chế hoá đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hoá, xây dựng con người. Đẩy mạnh công tác sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý văn hoá từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách phù hợp, chú ý đến tính đặc thù của hoạt động văn hoá, nghệ thuật. Nâng mức đầu tư một cách hợp lý từ nguồn ngân sách nhà nước, đồng thời khơi thông các nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nước và nước ngoài cho phát triển văn hoá… Sớm khắc phục tình trạng chắp vá, tuỳ tiện trong bố trí cán bộ làm công tác văn hoá…”(9).

Để phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, cần tiếp tục đổi mới đồng bộ, toàn diện thể chế; xây dựng, thực thi hiệu quả chính sách văn hóa cũng như bố trí, sử dụng đúng các nguồn lực tham gia. Làm tốt đều đó sẽ khắc phục được những “điểm nghẽn” hiện tại, khơi thông mạch nguồn văn hóa, biến tiềm năng, sức mạnh văn hóa trở thành động lực, sức mạnh nội sinh, thúc đẩy quá trình phát triển nhanh và bền vững đất nước./.

TS. NGUYỄN HUY PHÒNG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Theo Tạp chí Tuyên giáo

____________________

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2015, t.57, tr.305.

(2) (5) Báo Cứu Quốc số 416 ra ngày 25/11/1946.

(3) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.7, tr.246, 246.

(6) (8) (9) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2022, tr.157, 167, 173.

(7) Dẫn theo: Bùi Hoài Sơn: Tổng kết thực tiễn 5 năm công tác xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam 2016-2020, in trong “Tài liệu Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới về lý luận văn hóa và phát triển”, H, 2020, tr.22.