Văn hóa Tây Nguyên – Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp

Đất nước Việt Nam chúng ta có nhiều dân tộc anh em chung sống trong 1 lãnh thổ. Không riêng gì dân tộc Tây Nguyên mà mỗi dân tộc đều có 1 nền văn hóa , tiếng nói riêng, phong tục tập quán sinh hoạt và tín ngưỡng cũng khác nhau nhưng tất cả dân tộc đều có chung 1 nguyện vọng là: “ Xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp.
Tây Nguyên là nơi có nhiều dân tộc cùng chung sống, và cũng là nơi thưa dân nhất nước ta, với những phong tục tập quán riêng đa dạng với những nền văn hóa riêng của từng dân tộc đã tạo nên nét đẹp riêng cho vùng Tây Nguyên này. Nhìn chung các dân tộc Tây Nguyên đều có chung 1 điểm là nhà sàn mỗi nhà sàn là 1 đặc trưng riêng của từng dân tộc biểu biện sự thịnh vượng của dân tộc đó.

docx

81 trang

|

Chia sẻ: lylyngoc

| Lượt xem: 6939

| Lượt tải: 10

download

Bạn đang xem trước

20 trang

tài liệu Văn hóa Tây Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

giữa người sống và người chết thông qua thế giới tượng mồ, đồng thời làm tan biến sự sợ hãi của người sống đối với một thế giới khác biệt.
Ở ngôi nhà mồ này, một điểm quan trọng trong nghệ thuật tượng mồ mà người Gia-rai sử dụng là thủ pháp tạo hình, bằng cách dùng các mảng khối hình học và các đường vạch chéo, vạch thẳng để tạo nên hình nét cho bức tượng. Tuân theo những nguyên tắc nghệ thuật như vậy, trong truyền thống người Gia-rai không dừng lại ở việc đẽo gọt các chi tiết tỷ mỉ nhằm lột tả thật chính xác tính chân thực của một khuôn mẫu đã định dạng trong thực tế, mà bằng chính mảng khối, người Gia-rai chỉ gợi lên cho người xem những suy nghĩ tiếp theo. Từ một thân gỗ tròn, không lắp ghép, không thêm thắt bất cứ một phần gỗ nào, người Gia-rai đã tạo ra được bức tượng: bằng vài nhát rìu phạt mạnh trên thân gỗ tạo ra một mặt phẳng hình bầu dục đó là khuôn mặt tượng, hai hình cong nổi lên bên hai đầu là tai, phần dưới mặt tượng được vuốt cho nhỏ hơn đó là cổ. Cả khối phẳng bên dưới là thân tượng, các chi tiết như mắt, miệng, mũi, tai chỉ là những mảnh khoét chìm vào thân tượng. Hầu hết các chi tiết nổi của con người như bụng, má, cằm, ngực, vai… không được đẽo nổi trội lên, mà các phần đó được làm dẹt đi. Làm dẹt đi chứ không làm cho biến đi, mất đi, chỉ gợi lên chứ không đi vào tả thực chi tiết, vậy mà những bức tượng mồ mà người nghệ sỹ Gia-rai thể hiện vẫn làm cho người xem có nhiều suy tưởng. Có thể nói những bức tượng mồ Gia-rai, về mặt nghệ thuật gần với mỹ thuật nguyên thuỷ, có rất nhiều điểm giống với các đặc trưng nghệ thuật từ thời cổ đại của các thị tộc, bộ lạc trên hầu khắp thế giới.
Để làm cho bức tượng mồ trở nên ấn tượng, người Gia-rai còn sử dụng đến màu sắc để trang điểm. Màu sắc là một yếu tố cơ bản tham gia vào nghệ thuật điêu khắc làm nổi rõ hơn khuynh hướng đa dạng trong tạo hình tượng mồ. Trong bảng màu tự nhiên của người Gia-rai có đầy đủ các sắc màu: vàng, đen, trắng, đỏ, xanh… các sắc màu này được lấy ngay từ thiên nhiên trong môi tường sống của họ. Quan sát cách tạo hoa văn trên y phục sẽ thấy người Gia-rai sử dụng màu sắc một cánh hết sức linh hoạt.
Từ màu sắc y phục đến màu sắc trên các công trình mang tính chất tôn giáo, người Gia-rai thiên về dùng màu đỏ, màu đỏ vẫn là màu chính, màu chủ đạo, màu đỏ được sử dụng vẽ hoa văn trên mái nhà mồ, tô điểm cho các hoa văn được đục thủng trên nóc mái… Màu đỏ lại một lần nữa được dùng tô điểm cho tượng nhà mồ. Màu đỏ được người Gia-rai tạo ra bằng cách lấy chất bột của một loại đá non (khor) rồi hoà với nhựa của cây po-pẹ để tạo thành thể keo có màu đỏ nhạt, rồi dùng thanh tre đập dập làm bút vẽ cho tượng. Tại một số ngôi nhà mồ ở làng Kép xã Iamnông huyện Chư Pảh tỉnh Gia-lai, người Gia rai trong khi trang trí cho các cột tượng còn lấy ngay máu của trâu, bò – các con vật hiến sinh trong lễ bỏ mả – để bôi lên cột tượng.
Ngoài màu đỏ, màu đen cũng được sử dụng để trang trí, màu đen được làm ra bằng cách dùng than củi giã nhỏ, trộn với nước thành thứ nước đen, dùng bút tre vẽ lên thân tượng. Màu đỏ thường được người Gia-rai trang điểm trên các bộ phận như cùi tay, khuỷu chân, đầu gối, màu đen trang trí các bộ phận như tóc, mắt, miệng tượng.Nghệ thuật tượng mồ còn bắt nguồn từ bản thân sự sống động của mỗi bức tượng. Loại trừ tượng ôm mặt ở tư thế tĩnh còn hầu hết các bức tượng khác đều diễn tả các trạng thái động của con người.
Người Gia-rai khi tạc tượng đã làm cho cho từng bức tượng trở nên sinh động như có hồn. Người xem nếu đã một lần đến buôn làng của người Gia –rai, được dự lễ bỏ mả, khi chiêm ngưỡng tượng sẽ có cảm giác như mình đang có mặt tại chính buôn làng của họ với các hoạt động quen thuộc của con người diễn ra trong lễ hội bỏ mả.
Nghệ thuật chính là đem đến sự gần gũi thân thuộc của cuộc sống đời thường vào trong tác phẩm nghệ thuật một cách tự nhiên.
6. Điêu khắc gỗ dân gian BaNa(*)
Người Bahnar có câu: “Khẽi ning nơng, pơm bơxát” nghĩa là “tháng nghỉ làm nhà mồ”, tháng nghỉ đó lại là mùa hội, mùa vui, mùa “uống tháng, ăn năm, trâu đâm, lợn mổ”.Không chỉ của người Bahnar mà còn của người Giarai, Êđê và nhiều tộc người khác ở Tây Nguyên.
Làm nhà mồ có nghĩa là tổ chức lễ hội bỏ ma hay bỏ mả. Do đó, không phải ngẫu nhiên lễ bỏ mả lại là lễ hội lớn nhất, tưng bừng nhất, vui nhất, mang tính văn hóa nhất và cũng mang tính cộng đồng nhất của Tây Nguyên. Chính nhà mồ, tượng mồ – những tác phẩm nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc dân gian độc đáo của Tây Nguyên được ra đời vào dịp lễ hội thường niên này.
Điêu khắc gỗ dân gian BaNa – Nguồn:
Người Tây Nguyên quan niệm chết nghĩa là bắt đầu cuộc sống mới ở một thế giới khác – thế giới bên kia, thế giới của hồn ma. Bởi vậy, khi người chết đã ra đi là ra đi vĩnh viễn để sống cuộc sống khác. Ngôi nhà mồ, những pho tượng mồ được làm ra để phục vụ cho lễ bỏ mả hay cuộc chia tay, cuộc vui cuối cùng giữa người sống và người chết. Để người chết ra đi thanh thản và có cuộc sống đầy đủ ở thế giới bên kia, hôm làm lễ bỏ mả, người sống không chỉ làm nghi thức sinh thành cho người chết mà còn chia của cải cho người chết đem đi.Cũng như nhiều dân tộc trên thế giới, ở Tây Nguyên, nghi thức sinh thành được quan niệm và thể hiện qua hành động giao hoan. Hiện giờ, nghi thức đó không còn nữa, nhưng theo lời kể của các cụ già, trước đây, vào những đêm bỏ mả trai gái được tự do quan hệ tình ái. Hình ảnh hay khái niệm sinh thành được thể hiện rất cụ thể và đậm nét ở tượng nhà mồ.Nếu đến các khu nhà mồ Tây Nguyên ta sẽ như lạc vào cả một mê cung của rừng tượng gỗ với rất nhiều những hình tượng khác nhau và cách thể hiện khác nhau. Thế nhưng, chỉ cần đi nhiều một chút, để ý một chút, là sẽ nhận ra một hàng số xuyên suốt qua các nhóm tượng: Hình ảnh về một sự sinh thành. Thông thường, ở hai bên cửa nhà mồ đều có một cặp tượng trai gái hoặc đang phô bày cơ quan sinh dục của mình hoặc đang giao hoan. Đứng bên cặp tượng trai gái đó, là tượng người đàn bà chửa, còn ở các góc rào xung quanh nhà mồ là tượng những hài nhi đang ngồi.Mặc dầu khi được hỏi, đồng bào thường trả lời là làm tượng nhà mồ cho vui, cho đẹp, nhưng tính phổ biến của ba loại tượng vừa kể trên khiến chúng tôi nghĩ rằng, lớp tượng mồ đầu tiên là lớp tượng biểu hiện ý niệm về sự sinh thành.Sở dĩ chúng tôi gọi lớp tượng này là lớp tượng đầu tiên vì ở không ít khu nhà mồ, nhất là ở các vùng xa ta chỉ gặp ba hình ảnh: Giao hoan, đàn bà chửa và hài nhi. Vì để thể hiện một hình tượng, một ý niệm, nên những con người ở lớp tượng mồ cổ không phải là một con người cụ thể mà là “con người chung” “con người khái quát” hay “con người vũ trụ”, còn ngôn ngữ của điêu khắc là ngôn ngữ gợi chứ không tả.Một điều khá đặc biệt và đáng lưu ý nữa của lớp tượng mồ thứ nhất này là bố cục đồng hiện ý – ba hình ảnh hay ba hành động diễn ra trong ba thời gian kế tiếp nhau: giao hợp, chửa, hình h ài nhi, được thể hiện cùng một lúc trên một mặt phẳng của lối rào quanh nhà mồ. Do vậy, chúng tôi gọi phong cách đầu của tượng nhà mồ Tây Nguyên là phong cách biểu tượng gợi tả – đồng hiện ghi ý. Không phải ngẫu nhiên mà người Tây Nguyên gọi những tượng mồ lớp xưa này là “hình” chứ không phải “tượng” (tiếng Giarai là rup, tiếng Bahnar là mêu).Nếu thống kê hết tên gọi rồi xếp vào một bảng danh mục, ta sẽ phải ngạc nhiên trước sự phong phú và đa dạng về nội dung của tượng nhà mồ Tây Nguyên, vì hầu như toàn bộ cuộc sống của con người đều được nghệ nhân dân gian thể hiện lên các tác phẩm của mình.Thế nhưng cả bức tranh cuộc sống sinh động đó lại nhằm phục vụ cho người chết. Người Tây Nguyên tạc những tượng mồ ở nhà mồ để những người đó đi hầu cho người chết ở thế giới bên kia. Tuy nội dung hay ý nghĩa của các hình tượng thì phong phú như vậy, nhưng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên lại gọi gộp tất cả những tượng mồ loại này vào một nhóm – những người hầu (tiếng Giarai – hlun, tiếng Bahnar – đích).Rất có thể, cũng như ở nhiều nơi khác trên thế giới, xưa kia ở Tây Nguyên, người hầu hay tù binh đã bị chôn theo các tù trưởng lớn. Chính dấu ấn của thời “chiến tranh bộ lạc” xa xưa mà các truyện cổ và sử thi Tây Nguyên thường nói tới, đã còn để lại dấu ấn lên nội dung nhà mồ.Giờ đây, người Tây Nguyên tạc lên tượng nhà mồ những con người hay những con vật với một ước muốn là những người mà vật đó sẽ theo hầu hạ người chết ở thế giới bên kia. Những con người, những con vật ở lớp tượng mồ thứ hai này tuy cụ thể rồi những cũng vẫn là những con người hay những con vật chung chung: người đánh trống, phụ nữ giã gạo, thợ rèn, lính Pháp, người thợ chụp ảnh, chàng thanh niên, cô gái, cầu thủ đá bóng, con voi, con chim, con cú… Tất cả những hình tượng đó nhấp nhô quanh nhà mồ và tạo ra cả một bức tranh sinh động về cuộc sống để người chết sẽ mang đi sau lễ bỏ mả.Dần dà, theo thời gian, nội dung của lớp tượng mồ thứ hai đã lấn dần để rồi át hẳn cả lớp nội dung trước đó. Ở nhiều nhà mồ, những tượng đáng lý phải thể hiện ý niệm về sự sinh thành, đã phải “chuyển mình” thành hình ảnh những người theo hầu người chết: những cặp trai gái giao hoan biến thành những chàng trai, cô gái, hay đàn ông, đàn bà, những hình ảnh hài nhi biến thành tượng người buồn, người khóc…Nếu tượng mồ lớp cũ trừu tượng và mang tính chất khái quát bao nhiêu thì tượng mồ mới hiện thực và sinh động bấy nhiêu. Nếu ở các tượng mồ lớp trước tính biểu tượng là chính thì ở tượng mồ lớp sau lại là tính hiện thực. Thế nhưng, cái thực của tượng mồ lớp thứ hai vẫn được thể hiện chủ yếu bằng các nét, các khối mang tính gợi và tính khái quát chứ không bằng ngôn ngữ tả đến từng chi tiết.Chính những đặc tính khái quát và gợi cảm của ngôn ngữ tại hình cũng như của hình tượng tạo ra nét hoành tráng của tượng nhà mồ Tây Nguyên. Những pho tượng mồ, mặc dầu không lớn vì phải khuôn vào thân cây gỗ, cứ như nở tung ra và vươn cao lên trong không gian.Theo phong tục của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, tượng mồ được làm ra để phục vụ cho lễ bỏ mả và chỉ có tác dụng trong những ngày hội lễ mà thôi. Sau lễ bỏ mả, thì ngôi nhà mồ cùng những tượng mồ cũng bị bỏ luôn. Năm tháng, nắng mưa sẽ dần dà làm hư hỏng rồi tan biến những tác phẩm nghệ thuật tượng mồ vào với đất…
III. Các hoạt động của dân tộc Tây Nguyên
1. Hình ảnh trang phục nổi bậc của dân tộc Tây Nguyên(*)
Trang phục Tây Nguyên có đầy đủ các thành phần, chủng loại trang phục và phong cách thẩm mỹ khá tiêu biểu cho các dân tộc khu vực Tây Nguyên. Lễ hội của đồng bào dân tộc Tây Nguyên thường diễn ra theo chu kỳ vòng đời con người (lễ thổi tai, lễ mừng sức khỏe, lễ cưới, lễ tang…), theo chu kỳ vòng đời cây trồng (lễ phát rẫy, lễ xuống hạt giống, lễ thúc lúa, lễ cho lúa lên chòi, lễ cho lúa xuống chòi…).
(*) Trang phục dân tộc Tây Nguyên- Nguồn:
Đây là dịp để người dân nơi đây trưng diện khoe màu các sắc phục truyền thống trong lễ hội.
Hội mùa là ngày hội lớn có từ lâu rất phổ biến ở Tây Nguyên, tương tự như ngày Tết của người Kinh. Trong ngày hội này bộ lễ phục nữ kèm theo những tua vải ngũ sắc sặc sỡ, được kết từ vai xuống quá lưng, tung bay trong điệu múa Tămple vui nhộn, xoắn xít bên các chàng trai lưng trần quấn khố, mạnh mẽ, điệu nghệ đánh trống, khua chiêng.
Trong ngày cưới, nổi bật trên nền ghế Kpan một hàng dài những người đàn ông đánh chiêng Sar là cô dâu chú rễ với trang phục kín đáo, áo dài tay khẽ khàng khoe sắc, sặc sỡ những dải hoa văn với nhiều họa tiết phức tạp. Đặc biệt là sự va chạm của dải cườm được kết bằng hạt T’rpeng trên đầu khố và biên váy làm cho buổi lễ trang trọng và vui tươi hơn.
Trong lễ tang, những người thân mang trang phục thường, một màu đen tuyền u ám, không thiết kế hoa văn, chìm đắm trong không gian tĩnh mịch buồn đau, làm cho không khí của buổi lễ thêm phần thương cảm.
Trong lễ bỏ mả (pơthi), ngày lễ lớn nhất của người Jrai, trang phục được phô diễn nhiều nhất và phong phú nhất, bởi không chỉ người trong làng mà còn các bà con, bè bạn của người chết và gia đình người chết ở các làng khác, cùng mang các nét độc đáo riêng của trang phục mình đến dự lễ tiễn biệt lần cuối với người quá cố.
Lễ đâm trâu để ăn mừng thắng lợi như mừng lúa mới, mừng thắng trận…là một biểu hiện tưởng nhớ và ôn lại truyền thống vẻ vang, bất khuất, kiên cường của cộng đồng trong chiến đấu với kẻ thù, chống đỡ với thiên nhiên khắc nghiệt, bảo vệ cộng đồng và núi rừng Tây Nguyên. Lúc này những người đàn ông vai u, thịt bắp quấn khố lễ, buột khăn chéo ngực như các chiến binh xưa, tay cầm đao, khiên nhảy múa trên nền nhạc trầm hùng của cồng chiêng.  
Còn nhiều môi trường hội, lễ và diễn xướng khác để cho trang phục dân tộc Jrai, Bahnar khoe sắc. Chung quy là để thể hiện sự khéo léo và tài hoa của người phụ nữ qua các họa tiết và màu sắc hoa văn dệt, ở đó đã hàm chứa rất nhiều hình ảnh về những sự vật, hiện tượng mà đồng bào vẫn thường tiếp xúc qua lao động sản xuất và sinh hoạt hằng ngày; ở đó trên các họa tiết, họ đã gửi gắm những ước mơ về một cuộc sống thanh bình, ấm no và hạnh phúc. Giá trị nghệ thuật trang trí hoa văn cổ này không phải ra đời trong phút chốc dưới ngòi bút của một cá nhân họa sĩ nào, mà nó được dần dần hình thành qua cuộc sống lâu đời của một tộc người.
Hoa văn dân tộc Jrai, Bahnar là sự kết hợp những họa tiết hình học theo một bố cục nhất định. Mặc dù nó chưa đạt trình độ cao, nhưng hiệu quả cuối cùng của nó xét về mặt thẩm mỹ đã làm cho người xem cảm thấy nhẹ, thoáng, sống động và có trọng điểm.
Y phục cổ truyền của người Êđê là màu đen, có điểm những hoa văn sặc sỡ. Đàn bà mặc áo, quấn váy (Ieng). Đàn ông đóng khố (Kpin), mặc áo. Người Ê Đê ưa dùng các đồ trang sức bằng bạc, đồng, hạt cườm. Trước kia, tục cà răng qui định mọi người đều cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nhưng lớp trẻ ngày nay không cà răng nữa.
Trang phục nam
Nam để tóc ngắn quấn khăn màu đen nhiều vòng trên đầu. Y phục truyền thống gồm áo và khố.
Áo có hai loại cơ bản:
Loại áo dài trùm mông: Đây là loại áo khá tiêu biểu cho người Ê Đê qua trang phục nam, có tay áo dài, thân áo cũng dài trùm mông, có xẻ tả và khoét cổ chui đầu. Trên nền chàm của thân và ống tay áo ở ngực, hai bên bả vai, cửa tay, các đường viền cổ, nơi xẻ tà gấu áo được trang trí và viền vải đỏ, trắng. Đặc biệt là khu giữa ngực áo có mảng sọc ngang trong bố cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp, khỏe.lực lãm
Loại áo dài quá gối: Đây là loại áo dài quá ngối, có khoét cổ, ống tay bình thường không trang trí như loại áo dài trùm mông nói trên,…
Khố: Khố có nhiều loại và được phân biệt ở sự ngắn dài có trang trí hoa văn như thế nào. Đẹp nhất là các loại ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại bong và băl là loại khố thường. Áo thường ngày ít có hoa văn, bên cạnh các loại áo trên còn có loại áo cộc tay đến khủy, hoặc không tay. Áo có giá trị nhất là loại áo Ktêh của những người quyền quý có dải hoa văn “đại bàng dang cánh”, ở dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lưng có đính hạt cườm. Nam giới cũng mang hoa tai và vòng cổ.
Trang phục nữ
Phụ nữ Ê Đê để tóc dài buộc ra sau gáy. Họ mang áo váy trong trang phục thường nhật. Xưa họ để tóc theo kiểu búi tó và đội nón duôn bai. Họ mang đồ trang sức bằng bạc hoặc đồng. Vòng tay thường đeo thành bộ kép nghe tiếng va chạm của chúng vào nhau họ có thể nhận ra người quen, thân.
Áo: Áo phụ nữ là loại áo ngắn dài tay, khoét cổ (loại cổ thấp hình thuyền) mặc kiểu chui đầu. Thân áo dài đến mông khi mặc cho ra ngoài váy. Trên nền áomàu chàm thẫm các bộ phận được trang trí là: cổ áo lan sang hai bên bả vai xuống giữa cánh tay, cửa tay áo, gấu áo. Đó là các đường viền kết hợp với các dải hoa văn nhỏ bằng sợi màu đỏ, trắng, vàng. Cái khác của trang phục áo nữ Ê Đê khác Gia rai về phong cách trang trí là không có đường ở giữa thân áo. Đếch là tên gọi mảng hoa văn chính ở gấu áo. Ngoài ra phụ nữ còn có áo lót cộc tay (áo yếm).
Váy: Đi cùng với áo của phụ nữ Ê đê là chiếc váy mở (tấm vải rộng làm váy) quấn quanh thân. Cũng trên nền chàm, váy được gia công trang trí các sọc nằm ngang ở mép trên, mép dưới và giữa thân bằng chỉ các màu tương tự như áo. Đồ án trang trí tập trung hơn ở mép trên và dưới thân váy. Có thể đây cũng là phong cách hơi khác với váy của dân tộc Gia Rai. Váy có nhiều loại phân biệt ở các dải hoa văn gia công nhiều hay ít. Váy loại tốt là myêng đếch, rồi đến myêng đrai, myêng piêk. Loại bình thường mặc đi làm rẫy là bong. Hiện nay nữ thanh niên thường mặc váy kín.
2. Lễ cưới của các dân tộc Tây Nguyên(*)
Nam nữ thanh niên được tự do tìm hiểu. Nơi gặp gỡ, tỏ tình, có thể là trong rừng, trên rẫy, ở nhà rông, vào những ngày cưới, hội lễ của làng.
Các thiếu nữ người Giê Triêng đến tuổi lấy chồng được cha mẹ làm cho những cái lều xung quanh làng làm nơi hẹn hò. Khi ưng ý người bạn trai nào đó, nàng mời chàng tối đến, ở cùng. Sau nǎm đêm tâm sự nếu chàng trai chưa thổ lộ tình cảm, thì phải nộp phạt cho nhà gái một con gà và một ché rượu.
(*) Lễ cưới của dân tộc Tây Nguyên – Nguồn:
Thông thường, sau khi hai bên trai gái đồng ý, họ thưa với cha mẹ nhờ người mối đi hỏi. Qua ông mối, các thiếu nữ Gia rai và Ê đê nhắn ngỏ tình cảm và đưa tặng người yêu chiếc vòng tay. Nếu người bạn trai nhận vòng, hôn lễ sẽ được tiến hành.
Trong lễ hỏi của người M’nông, người mối đem hai ống lồ ô trong đựng mǎng chua và da trâu thái nhỏ sang nhà gái cầu hôn. Nếu nhà gái đổng ý thì nhận hai ống lồ ô làm vật giao ước. Nếu việc cầu hôn bị từ chối, ông mối mang bát gạo do nhà gái đưa cho để báo lại việc từ hôn.
Sau lễ ǎn hỏi, người Êđê thường có tục “gửi dâu”, họ hàng nhà gái dẫn cháu gái đến nhà chồng chưa cưới ở như con trong gia đình. Thời gian “gửi dâu” càng lâu thì sính lễ nhà gái phải nộp cho nhà trai càng giảm.
Đám cưới thường được tổ chức vào cuối nǎm, lúc rỗi rãi và no đủ. Lễ cưới của người M’nông mở đầu bằng việc nhà gái mang biếu họ hàng nhà trai mỗi người một bát gạo đầy. Mỗi bát gạo này sẽ tương ứng với một cái ché mà nhà trai phải tặng lại nhà gái. Hôm cưới, hai người làm chứng đại diện cho hai họ xúc cho cặp tân hôn mỗi người ba miếng cơm và ngược lại, đôi tân hôn cũng xúc trả lại cho hai người làm chứng ǎn.
Sau đó đôi vợ chồng mới cưới uống rượu chung trước tiên để mở đầu cho bữa tiệc kéo dài vài ba ngày. Sau khi cưới phải cữ 7 ngày, đôi tân hôn tránh gặp người lạ và không ra khỏi nhà.
Lễ đính ước của người Gia rai được tổ chức qua bữa tiệc rượu cần ở nhà gái. Hôm đó, đôi trai gái cùng vít cần rượu uống chung. Sau đấy trao đổi vòng đeo tay cho nhau biểu hiện sự cam kết thuỷ chung. Tiếp theo là “đoán số phận qua giấc mơ lành, dữ”. Trong đêm tân hôn, nếu đôi vợ chồng thấy giấc mơ xấu thì lập tức phải đến nhờ ông mối cầu thần linh cho chung sống trong một nǎm để hoãn mộng. Đúng vào hẹn đó, nếu vợ chồng vẫn gặp mộng xấu, có thể phải bỏ nhau.
Trong đám cưới của người Cà dong có tổ chức lễ ǎn thề không bỏ nhau của đôi vợ chồng. Hai vợ chồng trao cho nhau 9 miếng trầu, 9 miếng cau, ý chúc nhau sức khỏe và xum họp mãi mãi. Tiếp đó chồng trao cho vợ chuỗi cườm, và ngược lại, vợ trao cho chồng vòng đồng. Cặp vợ chồng trẻ còn lấy cơm nắm bôi lên đầu nhau, ý muốn hồn hai người nhập vào nhau, và bôi máu gà lên trán, ý muốn xua đuổi hồn dữ ra khỏi thể xác.
Với người Mạ, hôm cưới người ta phủ một cái chǎn lớn thêu đẹp lên đôi trai gái không mặc quần áo và cụng đầu hai người vào nhau bảy lần. Sau một lúc tượng trưng cho thời gian của một đêm hoa chúc, hai người thức dậy, lấy một bát thịt gà, rượu và vòng đeo tay. Chồng đeo vòng cho vợ và ngược lại. Vợ chồng uống chung rượu và cùng ǎn thịt gà. Sau một thời gian, nhà gái mang củi sang nhà trai để làm “lễ củi”. Số lượng gùi củi tương ứng với số khǎn mà nhà gái tặng họ nhà trai.
Người Giê Triêng quan niệm lễ cưới được tổ chức bất ngờ bao nhiêu thì đôi vợ chồng trẻ càng hạnh phúc bấy nhiêu. Hôm cưới, người ta làm lễ hợp cẩn, đôi trai gái trao nắm cơm với ít gan gà cho nhau ǎn, tiếp đó uống rượu chung. Có nơi, trong buổi lễ này, người ta đánh chiêng tập hợp dân làng, bắt đôi nam nữ nằm trên chõng tre để giữa nhà, cùng đắp chung tấm chǎn. Lại có nơi, người chủ trì buổi lễ dứt mấy sợi tóc của đôi trai gái bỏ lẫn lên đầu nhau với ngụ ý hợp hai hồn của họ làm một.
Trong đám cưới của người Ê đê có tục “té nước” vào chú rể như tục “mở cửa nhà” ở người Thái. Khi rước rể về nhà vợ, bạn bè của chàng rể chạy trước đón đường té nước vào người cô dâu chú rể, mỗi lần như vậy nhà gái phải nộp cho họ một số lễ vật. Người Ê đê cho rằng đám cưới nào có nhiều người chặn đường té nước thì đôi trai gái sau này cuộc sống sẽ hạnh phúc và khi chết sẽ có nhiều người thương, kẻ khóc.
Sau ngày cưới, chồng ở nhà vợ (Gia rai, M’nông, Ê đê, Cơ ho), hoặc ở nhà chồng (Mạ), hoặc luân phiên ở nhà chồng từ ba đến nǎm nǎm rồi lại chuyển sang ở nhà vợ bằng thời gian ấy (Xơ đǎng, Ba na, Giê Tnêng).
3. Lễ hội cồng chiêng ở Tây Nguyên(*)
Với người Tây Nguyên cồng chiêng là loại nhạc khí biểu hiện tính cộng đồng rất cao mang những giá trị về nghệ thuật âm nhạc, phong tục tập quán và còn là biểu tượng của sức mạnh kinh tế. Trong tất cả các loại lễ hội ở Tây Nguyên kể cả những công việc nhỏ của từng gia đình đều không thể thiếu cồng chiêng. Cồng chiêng đã thực sự gắn bó với đời sống hằng ngày của đồng bào Tây Nguyên, xuyên suốt cả cuộc đời người, thực sự là linh hồn, là xương, là thịt của các dân tộc ở đây.    Nói đến nhạc khí có chất liệu hoàn toàn bằng kim loại có lẽ không ở đâu trên đất nước ta lại có nhiều và đa dạng như ở Tây Nguyên. Tây Nguyên là một vùng văn hóa còn lưu lại một kho tàng nhạc khí được chế tác hoàn toàn bằng kim loại rất đồ sộ. Ðó là ching chêng mà người Việt quen gọi là cồng-chiêng. Từ ching tương ứng với chiêng, từ chêng tương ứng với cồng. Bên cạnh ching chêng còn có Yao Prông. Greng neng (lục lạc, chũm chọe).  (*) Cồng chiên Tây Nguyên – Nguồn:
Nói đến cồng chiêng (theo cách gọi của người Việt) hoặc ching chêng (theo cách gọi của người Gia Rai, Ba Na) có nghĩa là chỉ cả hai loại: cồng bằng không có núm và chiêng có núm. Tuy nhiên, người Gia Rai và người Ba Na cũng có những cách gọi khác nhau: người Ba Na gọi cồng chiêng là ching chêng. Người Gia Rai có cách gọi riêng tùy từng vùng và nhóm dân tộc.    ở Tây Nguyên, hầu như đến nhà nào, buôn nào của đồng bào Tây Nguyên đều cũng thấy có cồng chiêng. Nhà ít cũng có một bộ, có nhà hàng chục bộ. Tuy vậy không phải cồng chiêng nào cũng giống nhau. Mỗi dân tộc, mỗi vùng đều có các loại cồng chiêng riêng của dân tộc mình và đặc biệt là phương pháp, mục đích và phạm vi sử dụng.    Cồng chiêng được đúc bằng đồng. Có nhiều loại rất quý được đúc bằng các hợp kim như gang, chì, đồng… Có loại phần núm được pha cả vàng và bạc. Cồng chiêng là loại nhạc khí tự thân vang. Có nhà nghiên cứu âm nhạc thế giới đã xếp cồng chiêng vào nhóm nhạc khí hàm âm.    Trải qua nhiều thế kỷ vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt, chiến đấu chống kẻ thù, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã sáng tạo và định hình những loại nhạc khí phù hợp với cuộc sống của núi rừng. Cồng chiêng là loại nhạc khí biểu hiện tính cộng đồng rất cao. Trong tất cả các loại lễ hội ở Tây Nguyên kể cả những công việc nhỏ của từng gia đình đều không thể thiếu tiếng nói của cồng chiêng. Cồng chiêng đã thực sự gắn bó với đời sống hằng ngày của đồng bào Tây Nguyên như hình tượng cây tre trong đời sống của dân tộc Việt ở các làng xóm thân yêu. Tiếng cồng chiêng xuyên suốt cả đời người, thực sự là linh hồn, là xương, là thịt của các dân tộc ở đây.    Từ khi lọt lòng mẹ, đứa trẻ đã được thưởng thức âm thanh của cồng chiêng qua lễ “thổi tai”. Khi lớn lên theo tiếng cồng chiêng trong lễ “mừng sức khỏe”, “hội mùa”, “mừng lúa mới”, “pơ thi”… Những đêm tụ hội ở nhà Rông, tiếng cồng chiêng vang vọng, tràn ngập cả núi rừng. Cả cuộc đời lúc nào cũng đầy ắp tiếng cồng chiêng. Ðến khi từ giã cuộc đời thì cồng chiêng vẫn vang vọng tiễn đưa và… mãi đến khi lễ “pơ thi” tiếng cồng chiêng lại u hoài, ảm đạm, day dứt. Ðể rồi từ đó người đời mới thực sự lãng quên. Cái cồng, con chiêng đã ăn ở với con người đời đời kiếp kiếp. Nó thể hiện đầy đủ tâm tư, tình cảm mừng vui, buồn đau, căm giận của con người Tây Nguyên. Ðồng bào các dân tộc ở đây đã sử dụng và giữ gìn với hình thức cha truyền con nối. Chẳng những cồng chiêng có giá trị về mặt nghệ thuật âm nhạc, về phong tục tập quán xã hội mà còn có giá trị kinh tế cao. Cồng chiêng biểu hiện sự giàu có, sự hùng mạnh và chiến thắng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.    Về nguồn gốc của cồng chiêng cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau chung quanh câu hỏi: cồng chiêng ở Tây Nguyên có từ bao giờ? Ðược nhập từ nơi nào vào Tây Nguyên hay do chính đồng bào bản địa vào đây đúc nên, mà đến nay nó vẫn quy tụ tại vùng đất này phong phú đến thế?    Trong quá trình đi điền dã chúng tôi thấy đồng bào các dân tộc thường gọi: ching Lào, ching Joăn, ching Kúr. Qua một số tên gọi như vậy chúng ta có thể biết rằng cồng chiêng không phải do đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đúc nên, mà được du nhập từ nhiều nơi khác đến. Bởi lẽ ở Tây Nguyên đồng bào các dân tộc còn đang ở nền văn minh “lúa khô nương rẫy cao nguyên”. Họ chưa có kỹ nghệ để tự đúc được cồng chiêng. Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra một số giả thiết về nguồn gốc của cồng chiêng:   – Ching Lào đã được đưa từ Lào sang. Có người còn cho rằng ching Lào được đúc từ Myanmar, qua con đường trao đổi, buôn bán đã đến Tây Nguyên. Ðây là loại chiêng rất quý, được đúc bằng đồng có pha bạc, tiếng kêu to vang xa.    – Ching Joăn do người Kinh đúc. Ðây cũng là vấn đề còn bàn cãi, tranh luận khá sôi nổi. Tại sao người Kinh đúc chiêng mà lại không sử dụng? Có lẽ thời bấy giờ người Kinh đã tìm thấy một thị trường lớn tiêu thụ cồng chiêng rồi sản xuất và đem lên Tây Nguyên buôn bán, trao đổi. Theo các nghệ nhân thì hiện nay loại ching Joăn ở Tây Nguyên không còn nhiều. Vì qua sử dụng âm thanh không âm vang nên đồng bào đã loại dần.    – Ching Kúr đã được đưa từ Thailand, Cambodia sang.    Theo thống kê bước đầu ở các địa phương, trong các dân tộc Gia Rai, Ba Na còn bảo lưu được một lượng cồng chiêng lớn nhất so với các dân tộc khác dọc Trường Sơn.    “Dãy Trường Sơn có thể xem như chính là cái nôi sản sinh và  truyền bá toàn khu vực nền văn hóa âm nhạc độc đáo của cồng chiêng”.
Tiếng chiêng mừng ngày mùa.
Nói đến cồng chiêng là nói đến âm thanh của chúng. Âm thanh chính là linh hồn của cồng chiêng vậy. Nhưng khi cồng chiêng từ nơi khác đưa đến Tây Nguyên, âm thanh của nó còn mang tính tự nhiên, chưa hợp với tai nghe của đồng bào. Vì vậy việc sửa, chỉnh lại âm thanh để sắp xếp hàng âm theo ý thích của đồng bào là một vấn đề có tính đặc trưng. Muốn làm được việc này họ dùng những chiếc búa nhỏ bằng đồng để điều chỉnh độ dày, mỏng ở các vị trí khác nhau trên mặt chiêng, tìm ra độ cao theo ý muốn. Việc chỉnh âm (tul chiêng) đòi hỏi người chỉnh phải có tai nghe chính xác và thông hiểu thanh âm của dân tộc. Việc tul chiêng như trên không phải ai cũng làm được. Mỗi plei chỉ có một vài người, mà đồng bào thường gọi với cái tên trân trọng là Ông trùm chiêng (Po ania chêng).    Về phương pháp sử dụng cồng chiêng thì mỗi vùng, mỗi dân tộc có những cách đánh khác nhau. Có khi dân tộc này đánh bằng dùi, dân tộc khác lại dùng nắm tay để đấm. Cũng là đánh bằng dùi nhưng có nơi đánh tự nhiên để tiếng chiêng vang xa, có nơi dùng tay bịt lại để tiếng chiêng ngừng, ngắt. Dùi đánh chiêng có hai loại: một lại có bọc giẻ hoặc cao su ở đầu để đánh cồng có núm; một loại bằng một đoạn gỗ mềm để đánh chiêng bằng. Thường thường khi đánh cồng người ta gõ vào phần núm của chúng. Khi đánh chiêng bằng người ta gõ vào tâm điểm của mặt chiêng. Cũng có  vùng đồng bào Gia Rai đánh vào mặt sau của chiêng.    Trong những ngày hội, lễ khi xuất hiện cồng chiêng là xuất hiện văn nghệ. Tùy theo khả năng kinh tế (rượu thịt) mức độ từng nơi có khác nhau. Nhưng về hình thức mỗi con người hầu như bộc lộ hết mình trong các sinh hoạt cộng đồng. Ðánh chiêng, múa hát đã trở thành phong tục truyền thống, thành nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống đồng bào. Vì thế cồng chiêng đã đạt tới mức độ hoàn chỉnh khá cao về giai điệu, tiết tấu, hòa âm và đối vị. Con người Tây Nguyên thông qua nghệ thuật biểu hiện của cồng chiêng đã biểu lộ tinh thần thượng võ, đoàn kết thương yêu nhau, hiểu biết tâm tư, tình cảm của nhau. Nó còn biểu lộ những khả năng sử dụng cồng chiêng tuyệt vời của từng cá nhân và tập thể.    Một thực tế hiện nay ở Tây Nguyên là nạn “chảy máu cồng chiêng”. Cồng chiêng  đã bị  mua bán, cân lên như những thứ phế liệu khác. Theo điều tra gần đây nhất, số lượng cồng chiêng ở Tây Nguyên đã giảm 80% so với trước đây. Việc săn lùng cồng chiêng như một món đồ cổ là vấn đề quan tâm hiện nay ở Tây Nguyên. Cồng chiêng là vốn di sản văn hóa dân tộc cần phải được bảo vệ và tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm và phát huy vốn truyền thống này.
4. Lễ cúng bến nước của người Tây Nguyên(*)
Lễ cúng Bến nước hay Tết Giọt nước, Tết bến nước là một trong những nghi lễ quan trọng của dân tộc Tây Nguyên. Được tổ chức hàng năm, với mục đích cúng tạ thần nước đã đem lại những may mắn trong năm cũ và cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng thuận lợi cho năm sau.
Lễ cúng Bến nước là một sinh hoạt cộng đồng đậm chất văn hóa của người Tây Nguyên cầu cho nước sạch, nước trong, mang lại sức khỏe cho buôn làng. Đây là một trong những nghi lễ rất quan trọng đối với người Giẻ Triêng. Nước còn quan trọng hơn cả cơm ăn, áo mặc.
Không ăn cơm còn sống được cả tháng trời, không có áo mặt thì chỉ bị lạnh thôi, còn không có nước thì không thể sống được. Chính vì vậy mà thần nước được người Tây Nguyên thờ cúng long trọng, và vô cùng linh thiêng…”. Ngay từ khi tìm đất lập làng, người Tây Nguyên bao giờ cũng quan tâm tìm nguồn nước. Một nguồn nước dồi dào, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất chính là nơi người Tây Nguyên chọn là nơi lập làng… 
(*) Lễ cúng bến nước của người Tây Nguyên – Nguồn:
Để thực hiện nghi thức đặc biệt quan trọng trong đời sống của cộng đồng, người Tây Nguyên chọn ra những người đàn ông tài giỏi của buôn làng dựng cây nêu. Để tránh súc vật chạy qua, cây nêu sẽ được chọn dựng ở vị trí cao ráo trước nhà Rông. Một số người khác sẽ phải đi lên đầu nguồn nước để kiểm tra, đảm bảo nguồn nước trong lành sẽ chảy về làng. Trước khi tiến hành nghi lễ, từ sáng sớm, già làng sẽ đánh những hồi chuông dài báo cho buôn làng biết là sắp tổ chức lễ cúng bến nước. Bến nước hôm đó được trang hoàng với cổng chào bằng lá cây, cỏ lá dài, treo đồ vật trang trí.  
Lễ cúng có 3 phần. Phần thứ nhất là cúng tại bến nước để cầu cho thần nước mang lại sức khỏe cho buôn làng, tiếp đó là cúng tại hàng rào trước khi mang nước vào nhà và cuối cùng là cúng tại nhà của chủ bến nước. Sau khi làm thủ tục cúng xong ở bến nước, người ta sẽ lấy nước vào các vật đựng nước, thường là các quả bầu khô, bỏ vào gùi và gùi về nhà lấy phước. Trong khi đó một đoàn người sẽ theo người chủ lễ đi đến cầu thang từng nhà, hát cầu cúng và rưới tiết vào chân cầu thang để cầu may cho nhà chủ
5. Lễ hội bắt chồng ở Tây Nguyên(*)
Chuyện cướp vợ của người H.Mong chắc nhiều bạn đã biết nhưng liệu bạn có biết ở Tây Nguyên cũng có một lễ hội khá thú vị tên là “Lễ Hội Bắt Chồng” không?
Khi cái lạnh sâu cùng những cơn gió hanh hao của mùa đông tràn về cũng là lúc khắp các thôn bản của đồng bào Chu Ru, Cil, Cơ Ho… ở Tây Nguyên rộn rã bước vào mùa cưới – mùa bắt chồng. Với họ, mùa xuân gõ cửa cũng đồng nghĩa với niềm vui nhân đôi ùa tới từng bản làng, ngõ xóm. Và, một trong những tín vật kết nối mang tính linh thiêng nhất là cặp Srí (nhẫn cưới). Xung quanh cặp nhẫn này là hàng ngàn điều huyền diệu mang đậm bản sắc Tây Nguyên.
(*) Lễ hội bắt chồng – Nguồn:
Ngày xuân đến Tây Nguyên, những cơn mưa phùn bất chợt rắc đều suốt chiều dài con ngõ nhỏ khiến những rặng dã quỳ khắp nơi bừng thức một màu vàng rực như níu kéo, như mời gọi. Cùng lâng lâng bên những ché rượu cần, khắp nơi rộn ràng lễ hội xuân – Lễ hội bắt chồng. Trong cách gọi của đồng bào dân tộc Tây Nguyên, cặp nhẫn cưới là Srí. Khác với cách làm nhẫn của người Kinh, những cặp Srí mang một sức mạnh huyền bí, vừa kết nối, vừa như một lời thề về hạnh phúc gia đình khi người con gái đã hoàn thành thủ tục bắt chồng.
Để có cặp nhẫn cưới hoàn hảo, các nghệ nhân phải trải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ: Lấy sáp ong nấu chảy, trộn phân trâu rồi dùng que gỗ tròn bằng ngón tay nhúng vào, chờ khô rút que gỗ ra, sáp ong và phân trâu khô quánh thành những ống tròn, nghệ nhân cắt thành những khuyên nhỏ làm khuôn đúc nhẫn. Bạc sau khi được đun nóng sẽ đổ vào khuôn, trước sức nóng của bạc mới nấu, sáp ong và phân trâu sẽ bết chặt tạo thành một lớp men bên ngoài nhẫn. Khuôn đúc nhẫn có hai loại: Loại nhỏ để đúc nhẫn mái cho người phụ nữ; loại to đúc nhẫn trống dành cho người con trai. Trong quá trình đánh bóng và chạm trổ nghệ nhân dùng nước bồ kết hoặc nước lá cây Kơ -nia đun sôi để rửa và gửi gắm ước vọng về một mùa xuân vĩnh hằng.
Đến thời điểm này ở Lâm Đồng chỉ còn duy nhất một nghệ nhân làm được “nhẫn bắt chồng”, đó là Ya Tuất ở Đơn Dương. Hơn 20 năm nay, anh vẫn miệt mài làm ra hàng triệu chiếc nhẫn. Làm nhẫn tuy không đòi hỏi kỹ thuật cao nhưng phải là người thực sự có năng khiếu. Ngày xưa ông Ya Tiêng, cha của Ya Tuất miệt mài làm mãi vẫn không thành công, chỉ có Ya Tuất may mắn học làm được từ sự chỉ dạy của cậu là Ya Grang. Và Ya Tuất tin vào cái duyên ngầm của người truyền dạy và người học. Hiện Ya Tuất đã làm được 14 loại nhẫn khác nhau, một số loại đặc sắc như: nhẫn có mặt đính hạt Karel (một loại hạt cây rừng chỉ Ya Tuất biết), tiếng dân tộc gọi là nhẫn Srí lơ hây, nhẫn vòng thường (Srí car), nhẫn mắt sâu (loại nhẫn quí nhất, tiếng dân tộc gọi là srí mata hơ la), ngoài ra còn nhiều loại nhẫn, vòng bạc khác. Đặc biệt Ya Tuất vừa làm vừa truyền nghề cho cậu con trai như muốn gìn giữ nét văn hóa truyền thống.
Như nét văn hóa riêng đã tồn tại nhiều năm, những cô gái dân tộc Chu Ru, Cil, Cơ Ho… ở Tây Nguyên muốn có chồng phải đi bắt, lễ bắt chồng thường diễn ra vào ban đêm. Khi thích một chàng trai nào đó, cô gái về thông báo cho gia đình và dòng họ biết, gia đình sẽ đến nhà trai nói chuyện hỏi dạm. Nếu cả hai dòng họ đồng ý, cô gái sẽ đến đeo nhẫn vào tay người con trai trong đêm đẹp trời. Trường hợp người con trai không thích có thể tháo nhẫn trả lại nhưng 7 ngày sau, cô gái lại chọn một đêm đẹp trời đến đeo nhẫn cho chàng trai và cứ thế lặp đi, lặp lại cho đến khi nào chàng trai thương và chấp nhận thì đám cưới diễn ra. Trước khi cưới một ngày, buôn làng tổ chức đêm hội gọi là “Đêm bắt chồng”.
Trong đêm hội này, chàng trai và cô gái phải đọc một số câu luật tục riêng của đồng bào mình, có một số câu luật độc đáo như: “Tìm vợ, tìm chồng phải hỏi mẹ cha; ăn ruộng, ăn rẫy phải hỏi tai con trâu, con bò; làm bẫy phải hỏi thần núi về với vợ như về với nước,…”. Ngày cưới, chàng trai và cô gái rút nhẫn ra và đeo lại cho nhau. Sau lễ cưới 7 ngày, cô gái tháo nhẫn đưa mẹ chồng cất giữ và ngược lại nhẫn chàng trai do mẹ vợ cất giữ. Nếu cuộc sống vợ chồng sau đó xảy ra mâu thuẫn, không hòa hợp, ai đề nghị ly hôn trước thì người đó phải đưa một con trâu cho người kia (thường là trâu đực).
Đồng thời sau lễ bắt chồng, ai đi ngoại tình sẽ phải đền ba con trâu đực to và số trâu sẽ tăng lên nếu ngoại tình nhiều lần. Đây cũng được xem như luật tục riêng làm tăng tính gắn kết và chung thủy trong cuộc sống vợ chồng. Lễ bắt chồng còn được đồng bào xem như một việc đại sự của cả dòng họ và chiếc nhẫn thành tín vật chung cho hai nhà.
6. Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên(*)
Đó là lòng thành dâng cúng tạ ơn của hậu thế đối với các bậc tiền hiền, những người có công khai sơn phá thạch, khẩn hoang lập ấp định hình dân cư, làng xã.Vào khoảng tháng 12 đến tháng 3 âm lịch hàng năm, đồng bào Tây Nguyên diễn ra ngày hội đâm trâu.
(*). Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên – Nguồn:
Người Xơđăng – Bana tiến hành lễ hội trong ba ngày, người Giarai chỉ tiến hành một ngày rưỡi. Ngày vào lễ hội gọi là “Mút”, ngày cuối ăn đầu trâu gọi là “Bongkô”. Để chuẩn bị cho tục đâm trâu, họ vào rừng chặt bốn cây to bằng bắp chân vài thước cao và bốn ngọn lồ ô đem về buôn làng. Sau đó họa khắc lên các cây và các ngọn lồ ô những hoa văn, họa tiết đặc trưng cho văn hóa tâm linh, địa hình kỳ bí và tín ngưỡng nơi đây. Họ dắt một con trâu đắc ý đem buộc chặt vào cột “Gingga” trước sân nhà Rông. Có một cây lồ ô tượng trưng cho tay thần, cắm cao chính giữa. Trói thêm một con heo lớn áp sát vào cột để chứng tỏ sự trù phú của buôn làng. Bắt đầu khai hội thường vào giờ Sửu xế chiều. Những trai làng thành thạo có nhiệm vụ đánh trống và cồng chiêng. Đầu họ chít khăn đỏ, mặc áo lễ “Blan” hoặc mặc áo ló chui đầu, không tay, có thêu hoa văn sặc sỡ hai bên vạt áo, đóng khố hoa “Kteh” và trong tư thế sẵn sàng đợi lệnh trỗi nhạc. Các sơn nữ mặc áo “Phia” – một kiểu áo lễ của nữ giới, váy hoa “Kteh”, đầu chít khăn trắng tựa sắc lan rừng đang nở rộ. Mọi người trong buôn làng, từ già trẻ, gái trai xúng xính trong bộ áo quần mới nhất, trò chuyện líu lo nơi sân nhà Rông. Chủ trì ngày hội đâm trâu là một già làng, còn gọi là “Riu Yang” (thầy cúng). Riu Yang đứng nghiêm trang bên cột đang buộc con trâu, sau lưng ông là nam thanh nữ tú, ban nhạc cồng chiêng. Sau khi mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng, thầy cúng khấn: Cầu xin thần trời – thần nước – thần núi- thần sông suối hãy đến đây chứng kiến ngày hội đâm trâu của dân làng. Cầu xin các thần linh thiêng hãy phù hộ cho dân làng trồng được nhiều lúa, nuôi được nhiều trâu bò, súc vật… 
Thầy cúng đọc xong, tức thì tiếng trống, tiếng cồng chiêng nổi lên. Âm thanh sôi động trong những vũ điểu uyển chuyển, đa dạng của các sơn nữ khiến cho lễ hội thêm phần quyến rũ, hấp dẫn. Vũ nhạc của các sơn nữ lặng xuống cũng là lúc các chàng trai đầu chít khăn đỏ trong tay mang lưỡi kiếm sáng loáng nhảy ra múa tiếp. Nhảy múa một lúc, họ đặt vũ khí xuống, dùng những gậy gỗ dài một thước đấu với nhau. Tốp này vào nghỉ đã có tốp khác ra thay. Trong lúc họ múa, gái làng thi nhau té nước vào họ. Chàng nào tài hoa thì không bị ướt, chàng nào bị ướt nhiều tức là bị thần quở và có nguy cơ ế vợ. Sau các màn múa hát họ bắt đầu đâm trâu. Chàng nào chỉ đâm một nhát mà trâu chết ngay thì được khen ngợi. Trâu ngã xuống bắt đầu xẻ thịt chia đều cho từng bếp trong buôn làng. Một phần thịt trâu được dành lại ăn uống chung tại nhà Rông. Đầu trâu được gác lên cột lề. Sáng ngày sau còn có lễ rước đầu trâu lên nhà Rông. Đầu trâu được chẻ ra làm món ăn. Riêng cặp sừng được giữ lại và treo lên vách nhà Rông. Người làng còn lấy máu trâu hòa với rượu để rửa những bảo vật truyền kiếp nhà Rông. Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên, có ý nghĩa tái diễn lại thời các bậc tiền bối đã dũng cảm chiến đấu mở mang sáng lập buôn làng. Mời đấng thần linh về ăn thịt trâu, uống rượu cần thể hiện lòng thành của hậu thế đối với bậc tiền bối.
IV. Các danh lam thắng cảnh tiêu biểu của Tây Nguyên
1. Gia Lai
Là một tỉnh miền núi, Gia Lai nằm ở phía bắc Tây Nguyên trên độ cao 600 – 800m so với mực nước biển và có diện tích 15.536,92 km². Phía bắc Gia Lai giáp với tỉnh Kon Tum, phía nam giáp tỉnh Đắk Lắk, phía tây giáp với Cam-pu-chia, phía đông giáp với các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên.
Gia Lai là vùng đất có bề dày lịch sử với nền văn hóa cổ xưa mang bản sắc các dân tộc thiểu số, chủ yếu là Gia Rai và Ba Na, thể hiện qua kiến trúc nhà rông, nhà sàn, nhà mồ, qua lễ hội truyền thống, qua y phục và nhạc cụ.
Biển Hồ
Tại thành phố pleiku thuộc tỉnh GiaLai có các thắng cảnh như biển hồ Tơ Nưng cảnh đẹp của Biển Hồ mà thiên nhiên ban tặng ở đây có lẽ ai cũng dễ dàng nhận thấy, nhưng xung quanh thắng cảnh hữu tình ấy còn có nhiều câu chuyện khá thú vị mà không phải ai cũng biết đến.
Tên gọi Biển Hồ, hay hồ Tơ Nưng, Ia Nueng nằm ở phía Bắc Gia Lai, cách trung tâm thành phố Pleiku khoảng 7km, thuộc xã Biển Hồ, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai. Biển Hồ có hình bầu dục, diện tích khoảng 230ha, xung quanh núi bao bọc và rừng thông xanh mát quanh năm. Thực tế, Biển Hồ (hồ Tơ Nưng; Ia Nueng) nguyên là một miệng núi lửa đã ngừng hoạt động từ hàng trăm triệu năm qua. Sự rộng lớn mênh mông của hồ nước này tựa như biển khơi nên người dân địa phương đặt tên là Biển Hồ. Dẫu thiên nhiên khắc nghiệt, nắng hạn đến đâu nhưng từ trước đến giờ nước Biển Hồ này vẫn chưa bao giờ cạn. Biển Hồ là nơi cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho hàng chục ngàn người dân TP Pleiku,
2. Tỉnh Đắk Lắk
Nằm trên cao nguyên Đắk Lắk, một trong 3 cao nguyên lớn của Tây Nguyên, có độ cao trung bình 400 – 800m so với mực nước biển, phía bắc và đông bắc giáp với Gia Lai, phía nam giáp với Lâm Đồng, phía tây giáp với Cam-pu-chia và tỉnh Đắk Nông, phía đông giáp với Phú Yên và Khánh Hòa.
Đắk Lắk có thác Thủy Tiên và những hồ nước thơ mộng như hồ Lắk, hồ Buôn Triết, hồ Ea Kao.
Có các khu rừng nguyên sinh, vườn quốc gia Yok Đôn, khu lâm viên Ea Kao.
Buôn Đôn nổi tiếng với nghề săn bắt và thuần dưỡng voi, các di tích lịch sử như tháp Chàm thế kỷ 13, biệt điện của cựu hoàng Bảo Đại, nhà tù Buôn Ma Thuột.
Hồ lắk khó quên(*)
Trước khi đổ vào dòng Krông Nô hùng vĩ, các nguồn nước từ dãy núi Cư Yang Sin trùng điệp dồn lại tạo thành hồ Lăk rộng lớn tới 800 ha. Hồ nước hiếm hoi này thực sự là báu vật vô cùng quí giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho cao nguyên Ðăk Lăk đầy nắng gió.
Từ thành phố Buôn Ma Thuột đến đây, nhất là về mùa khô, bạn sẽ phải tạm chịu đựng khoảng 40km đi đường dưới trời nắng chói chang và không khí oi nồng đến tức thở, để rồi được đền bù một cách thỏa đáng khi bỗng nhiên cảm thấy mát mẻ và sảng khoái đến khôn cùng khi hồ Lăk mênh mang hiện ra trước mặt. Lên một chiếc thuyền máy, bạn sẽ thỏa thích ngắm nhìn mây nước giữa không gian tĩnh lặng.Thuyền đi ven theo những đồi thông non tơ xanh ngắt, thỉnh thoảng một thuyền ngư dân thả lưới, một vài cánh cò chao nghiêng. Bạn hãy hít căng lồng ngực không khí trong lành đến tinh khiết và phóng tầm mắt về phía bờ, thế nào cũng gặp một hai chú voi nhởn nhơ hái lá.
(*) Hồ lắk khó quên – Nguồn :
Ngày xưa ở đây rất nhiều voi. Từng đàn voi rừng kéo xuống hồ tắm mát, đùa vui, rồi lại thủng thẳng thả bước về rừng. Trước đây vua Bảo Ðại rất sành điệu ăn chơi đã chọn một quả đồi ven hồ Lăk xây cất lên một ngôi nhà nghỉ mát. Ngôi nhà đó vẫn còn, quản tượng của đội voi chuyên đưa đón nhà vua – cụ Lê Du – nay đã 94 tuổi.
Ðến thăm cụ, du khách sẽ được xem cả tấm ảnh “Ðội quản tượng năm xưa” đã ngả màu vàng.
Chiến tranh ác liệt, bom đạn đã làm voi rừng khiếp sợ bỏ đi, chỉ còn lại những con voi nhà thủy chung ở lại. Chúng trở thành người bạn của đồng bào Mơnông trong các buôn làng quanh hồ Lăk, nơi có những nếp nhà mái tranh, sàn gỗ giữ nguyên kiến trúc cổ truyền tự ngàn xưa cùng những phong tục tập quán đặc sắc của người Mơ Nông bản địa.
Một trong các buôn làng có nhiều du khách đến thăm là buôn Jun. Hơn năm chục nóc nhà quây quần bên con đường đất đỏ được những cây dừa lâu niên che chở bằng những tàu lá rộng và dài. Người buôn Jun sẵn lòng mời khách vào nghỉ chân trong những nếp nhà rộng dài thoáng mát và rất sạch sẽ. Họ mời khách cùng thưởng thức chóe rượu cần vừa cay vừa ngọt vừa thơm, rồi mời khách ngồi lên lưng voi hoặc xuống thuyền gỗ làm một tua du lịch sinh thái quanh hồ.Ðêm xuống, khi tiếng cồng tiếng chiêng gọi bạn múa đến bên ánh lửa bập vùng, xin bạn đừng chậm chễ. Ðến đó bạn sẽ thấy người Mơ Nông hát, múa và chơi nhạc cụ cổ truyền say sưa, cuồng nhiệt như thế nào. Không hiểu được lời ca, chỉ nghe giai điệu, âm thanh và nhìn những động tác múa của họ, bạn sẽ cảm thấy mình đang trở lại với thời xa xưa, xa lắm.
Lúc nào đói bụng, bạn cứ yên tâm đến một quán ăn gần bờ hồ thoáng đãng. ở đó có nhiều món đặc sản rừng và đặc sản của hồ nước, Song bạn nhớ nếm thử món cá song hầm cạn trong muối. Vâng! một con cá nặng khoảng 2 đến 3 kg đang bơi lội được vớt lên làm sạch, ướp một chút gia vị bí truyền rồi đặt vào giữa một nồi muối to và đặt lên bếp lửa.Xin cam đoan rằng, cùng với những cảnh vật mới lạ nơi thiên nhiên còn tinh khiết, cùng với những xúc cảm khi cưỡi voi, bơi thuyền trên mặt hồ, đêm dạ hội Mơnông… món đặc sản cá song này sẽ để lại trong bạn những ấn tượng khó quên.
Hồ Lắk là một hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất tỉnh Đăk Lăk và cả Việt Nam. Xung quanh hồ có những dãy núi lớn được bao phủ bởi các cánhrừng nguyên sinh. Buôn Jun, một buôn làng nổi tiếng của người M’Nông, nằm cạnh hồ này.
Hồ Lắk nằm bên thị trấn Liên Sơn (hay Lạc Thiện) huyện Lắk, cạnh tuyến đường giao thông giữa Buôn Ma Thuột và Đà Lạt, cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 56 km về phía Nam theo quốc lộ 27. Qua đèo Lạc Thiện khoảng 10 km trước khi vào thị trấn Lạc Thiện sẽ nhìn thấy hồ nằm bên tay phải. Còn không gian của khu rừng lịch sử, văn hóa, môi trường hồ Lắk còn bao trùm các xã Bông Krang, Yang Tao, Đắk Liêng.
Đây là hồ tự nhiên có độ lớn nhất còn hơn cả Biển Hồ (tỉnh Gia Lai). Dân tộc bản địa ở đây còn có cả một huyền thoại nói hồ sâu không đáy hoặc thông qua tận Biển Hồ. Hồ rộng trên 5 km², được thông với con sông Krông Ana. Mặt hồ luôn xanh thắm, xung quanh hồ được bao bọc bởi những dãy núi cao nên mặt nước hồ luôn phẳng lặng và có các cánh rừng nguyên sinh rộng lớn với hệ động thực vật phong phú. Theo truyền thuyết hồ lắk được tạo ra bởi anh hùng lắk liêng người dân tộc M’Nông
3. Ðắk Nông
Tỉnh Đắk Nông nằm ở phía tây nam Trung Bộ, đoạn cuối của dãy Trường Sơn, trên một vùng cao nguyên, độ cao trung bình 500m so với mực nước biển.
Đắk Nông có phong cảnh thác hùng vĩ, có tổ chức những đêm lửa trại với tiếng cồng chiêng và rượu cần.
Dòng Sêrepok tạo nên nhiều thác ghềnh đẹp, lúc hiền hòa, lúc dữ dội, hơn cả là thác Gia Long tựa như nàng sơn nữ ngủ quên với dáng vẻ hoang sơ và thác Dray Nur tựa bức tường thành khổng lồ. Ngoài ra còn có thác Diệu Thanh, Ba Tầng, Dray Sáp hay còn gọi là thác Khói vì nơi đây quanh năm có khói nước bay.
Thung lũng vàng, nơi của bình yên(*)
Rực rỡ với hàng trăm loại hoa khoe sắc, tĩnh lạnh với rừng thông bạt ngàn, hồ nước mênh mông, Thung lũng vàng như một Đà Lạt thu nhỏ.
Cách thành phố Đà Lạt 12km về hướng bắc, khu du lịch Thung lũng vàng bằt đầu từ ý tưởng một khu thư giãn cho nhân viên nhà máy nước Dankia đã phát triển thành khu du lịch rộng lớn với tất cả các đặc trưng của thành phố hoa làm say lòng khách du lich.
(*)Thung lũng vàng – Nguồn :
Thung lũng vàng đón khách du lich với bức tranh mặt hồ như được dát vàng nổi bật trên nền xanh của rừng thông ngay cổng, như đã lý giải tên gọi của khu du lịch. Thế nhưng, vẻ đẹp đến ngỡ ngàng của nơi đây lại mang đến ý nghĩa khác: Thung lũng vàng, vùng đất vàng, vùng đất của bình yên và hạnh phúc. Thung lũng vàng bát ngát lá chen hoa, rừng thông bạt ngàn, mặt hồ mênh mông, trong vắt. Trên lưng chừng đồi thông, một dòng suối hiện ra, có khi chảy vào máng, làm quay bánh xe nước.
Bức tranh ấy khiến khách du lich như đang chứng kiến sự khởi nguyên của một con suối, sự hình thành một dòng thác và sự thông minh của người dân vùng cao khi biết lợi dụng sức mạnh của dòng nước.
Thêm vào đó, hồ nước mênh mông với những chỗ đặt chân giữa hồ mang lại cảm giác chông chênh, thích thú cho khách du lich. Từng bước chân cẩn thận, ánh mắt nửa như dán chặt vào nơi đặt chân mong manh, nửa như muốn ngắm bao chú cá nhỏ tung tăng bơi lội, và cũng như muốn ngẩng mặt nhìn lên để cảm thấy cái bao la, cái thênh thang của đất trời.
Chiếm diện tích lớn nhất thung lũng là hoa. Hoa mimosa vàng rực, cẩm tú cầu xanh mát, trạng nguyên đỏ bừng, mai đào hồng e ấp, lưu ly tím ngát và hàng trăm loại hoa ôn đới với nhiều màu sắc khác nhau, được trồng theo từng cụm, từng vạt, tạo nên một bức tranh hoa tuyệt đẹp. Cuối vườn bonsai có cây bồ đề gần 300 năm tuổi, cằn cỗi nhưng đầy mê hoặc với thế gốc đẹp, những tảng đá với hình dạng kỳ lạ, huyền bí.
4. Kon Tum
Kon Tum là tỉnh ở phía bắc cao nguyên Gia Lai – Kon Tum, một trong 3 cao nguyên lớn của Tây Nguyên.
Thị xã Kon Tum được xây bên bờ sông Đắk Bla, một nhánh của sông Pơ Kô là trung tâm hành chính cũ của Pháp ở Tây Nguyên. Các cố đạo Pháp đã đến đây từ năm 1851.
Có núi Ngoc Linh, khu rừng nguyên sinh Chư Môn Ray, Sa Thầy, khu du lịch Đắk Tre ở huyện Kon Plông, suối nước nóng Đắk Tô. Có nhà tù Kon Tum, ngục Đắk GLei, đường mòn Hồ Chí Minh, chiến trường Đắk Tô – Tân Cảnh.
Có hơn 20 dân tộc sinh sống, nhiều nhất là Ba Na, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Gia Rai, B’ Râu, Rơ Mân… Phần lớn các dân tộc thiểu số sống bằng nghề làm nương rẫy và săn bắn. Có một nền văn hóa đa dạng, nhiều màu sắc của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên.
Thác Yaly(*)
Địa điểm: nằm trên sông Sêdan, đoạn chảy giữa hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai.
Trước đây là một thác nước hùng vĩ cao 40m, nay đã được xây dựng một nhà máy thủy điện lớn. Phong cảnh rất đẹp.
Ðây là dòng thác đẹp và lớn nhất Tây Nguyên trên sông Pô Cô.
Ðường vào thác đã được nâng cấp tạo thuận lợi cho khách tham quan. Nơi đây đang xây dựng nhà máy thủy điện Yaly với công suất 720 MW và sản lượng điện là 3,68 tỷ KWh. Thuỷ điện Ya Ly đã hình thành một khu vực lòng hồ rộng lớn.
(*). Thác Yaly – Nguồn:
Du khách có thể xuất phát từ làng du lịch ĐăkBlà ( thị xã Kon Tum) xuôi về làng văn hoá dân tộc Jarai ( phía trên đập thuỷ điện) nơi đây còn nguyên nét văn hoá sơ khai của dân tộc Tây Nguyên. Với cảnh quan thiên nhiên, con ngườia, khu vực lòng hồ Ya Ly thực sự là nơi thăm quan, du lịch lý tưởng với những người yêu thích thiên nhiên, tìm về cuội nguồn.
V. Kết luận
Đất nước Việt Nam chúng ta có nhiều dân tộc anh em chung sống trong 1 lãnh thổ. Không riêng gì dân tộc Tây Nguyên mà mỗi dân tộc đều có 1 nền văn hóa , tiếng nói riêng, phong tục tập quán sinh hoạt và tín ngưỡng cũng khác nhau nhưng tất cả dân tộc đều có chung 1 nguyện vọng là: “ Xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp.
Tây Nguyên là nơi có nhiều dân tộc cùng chung sống, và cũng là nơi thưa dân nhất nước ta, với những phong tục tập quán riêng đa dạng với những nền văn hóa riêng của từng dân tộc đã tạo nên nét đẹp riêng cho vùng Tây Nguyên này. Nhìn chung các dân tộc Tây Nguyên đều có chung 1 điểm là nhà sàn mỗi nhà sàn là 1 đặc trưng riêng của từng dân tộc biểu biện sự thịnh vượng của dân tộc đó.
Tài liệu tham khảo
Bách khoa toàn thư mở –
Diễn đàn tây nguyên news –
Diễn đàn tìm sách –
Kiến thức Tây Nguyên –
Tour du lịch Tây Nguyên –
Món ăn đặc sản Tây Nguyên –
Diễn đàn văn hóa Việt Nam –
Tài liệu online –
Thông tin pháp luật dân sự –
Diễn đàn công nghệ –
Du lịch Việt Nam –
Dịch vụ cung cấp thông tin –
Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn : Luật tục Êđê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996
Phan Đăng Nhật : Luật tục Gia Rai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999
Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxtieu_luan_van_hoa_viet_nam_tay_nguyen_219.docx