Vùng Đồng bằng sông Hồng cần phát triển văn hóa ngang tầm với kinh tế, chính trị, xã hội

Sáng 12/2, tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Xúc tiến đầu tư Vùng với chủ đề “Liên kết phát triển – Đổi mới sáng tạo – Xanh và Bền vững”.

Vùng Đồng bằng sông Hồng cần phát triển văn hóa ngang tầm với kinh tế, chính trị, xã hội - Ảnh 1.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị sáng 12/2 – Ảnh: Nhật Bắc

Địa bàn chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa

Tại Hội nghị, Thủ tướng và các đại biểu đã dành nhiều thời gian phân tích về vị trí, vai trò, tiềm năng, thế mạnh của Vùng Đồng bằng sông Hồng gồm 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chiếm 6,42% diện tích cả nước với khoảng 21.278 km.

Đây là địa bàn chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển đảo; là cửa ngõ phía bắc của đất nước và ASEAN về kết nối phát triển kinh tế, thương mại với Trung Quốc – thị trường rộng lớn nhất thế giới; là cầu nối quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hóa quốc tế.

Thủ đô Hà Nội, hạt nhân phát triển vùng, là trung tâm đầu não chính trị – hành chính quốc gia; trung tâm về kinh tế, văn hóa, KHCN; là thủ đô văn hiến, anh hùng có bề dày phát triển hàng nghìn năm gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Hệ thống giao thông kết nối đồng bộ với đầy đủ 5 phương thức vận tải (đường bộ, đường sắt, đường sông, hàng không và cảng biển) kết nối với 4 tuyến hành lang kinh tế liên vùng và quốc tế, tạo thuận lợi phát triển các loại hình dịch vụ, đặc biệt là logistics, là điểm trung chuyển hàng hóa cho các tỉnh phía bắc. Trong đó, vùng biển có diện tích lớn có tiềm năng lớn phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản và dịch vụ.

Đồng bằng sông Hồng là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc với nền Văn hóa sông Hồng, văn minh lúa nước; có 3 di sản văn hóa, thiên nhiên thế giới, 5 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh, 52 di tích quốc gia đặc biệt, 77 bảo vật quốc gia, gần 2.000 di tích quốc gia…

Vùng Đồng bằng sông Hồng cần phát triển văn hóa ngang tầm với kinh tế, chính trị, xã hội - Ảnh 2.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Hội nghị – Ảnh: Nhật Bắc

Vùng có nguồn nhân lực dồi dào với dân số 23,22 triệu người (chiếm 23,65% dân số cả nước); là trung tâm hàng đầu cả nước về y tế, giáo dục – đào tạo; đội ngũ trí thức giỏi và lực lượng lao động có chất lượng cao. Người dân yêu quê hương, đất nước; đoàn kết, anh dũng; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; ham học hỏi và giàu lòng nhân nghĩa, thủy chung…

Về thực trạng phát triển vùng, các đại biểu nhấn mạnh một số kết quả nổi bật như tăng trưởng kinh tế cao hơn bình quân cả nước, giai đoạn 2005-2020 bình quân đạt 7,94%/năm (cả nước là 6,36%). Quy mô kinh tế năm 2020 gấp 7,75 lần so năm 2005, chiếm 29,4% GDP cả nước (đứng thứ 2, sau Vùng Đông Nam Bộ); GRDP bình quân đầu người đạt 103,6 triệu đồng/năm, gấp 1,3 lần bình quân cả nước (sau Vùng Đông Nam Bộ là 141,3 triệu đồng/năm).

Bên cạnh những kết quả đạt được, Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu cũng phân tích những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức của Vùng.

“Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, “văn hóa còn thì dân tộc còn”

Thủ tướng đề nghị các bộ ngành và đặc biệt là các địa phương trong vùng nghiêm túc quán triệt 5 quan điểm phát triển Vùng Đồng bằng sông Hồng trong Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị. Trong đó, Thủ tướng nhấn mạnh quan điểm: “Khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội để phát triển nhanh, bền vững Vùng đồng bằng sông Hồng thực sự là vùng động lực phát triển hàng đầu, có vai trò định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước”.

Đồng thời, Thủ tướng yêu cầu quán triệt, thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phát triển Vùng theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Trong đó, cần đặc biệt quan tâm tập trung một số lĩnh vực gồm hạ tầng chiến lược kết nối (gồm hạ tầng cứng và mềm, hạ tầng giao thông, văn hóa, giáo dục, y tế…), chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, bảo vệ môi trường.

Chương trình hành động của Chính phủ đã cụ thể hóa Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển vùng, bảo đảm phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của Vùng. Thủ tướng nghị lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương trong Vùng chỉ đạo nghiên cứu kỹ, xác định rõ lộ trình, bước đi phù hợp, với cách tiếp cận tổng thể, cách làm, tư duy mới, triển khai các giải pháp cụ thể, thiết thực, hiệu quả, tổ chức thực hiện khoa học, hợp lý để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, theo tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Cả nước Vì Đồng bằng sông Hồng; Đồng bằng sông Hồng vươn lên cùng cả nước và vì cả nước”.

Vùng Đồng bằng sông Hồng cần phát triển văn hóa ngang tầm với kinh tế, chính trị, xã hội - Ảnh 3.

Tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà trao Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch chung TP. Hạ Long đến năm 2040 cho lãnh đạo tỉnh và TP. Hạ Long – Ảnh: Nhật Bắc

Nhấn mạnh 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, Thủ tướng giao các bộ, ngành liên quan và 11 địa phương trong Vùng khẩn trương xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế biển. Cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, công nghệ cao, ứng dụng nền tảng số, thân thiện với môi trường. Phân bố không gian công nghiệp hợp lý theo các hành lang kinh tế; hành lang công nghiệp, gắn với các cảng biển, các tuyến cao tốc, tuyến quốc lộ kết nối với các vùng lân cận.

Phát triển nông nghiệp hiệu quả cao, bền vững, sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Hình thành các cụm liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản gắn với doanh nghiệp, hợp tác xã.

Đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng. Phát triển các ngành dịch vụ, thương mại theo hướng hiện đại, đa dạng, trọng tâm là phát triển thương mại, logistics, du lịch, tài chính – ngân hàng, các trung tâm du lịch tầm khu vực và quốc tế, trên cơ sở phát huy bản sắc độc đáo riêng có; gắn phát triển làng nghề truyền thống với phát triển du lịch.

Phát triển mạnh kinh tế biển theo hướng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái biển kết hợp với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát huy vai trò động lực của các khu kinh tế ven biển gắn với đô thị ven biển, trung tâm du lịch, dịch vụ logistics.

Về phát triển văn hóa – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, Thủ tướng nhấn mạnh “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, “văn hóa còn thì dân tộc còn”. Cần phát triển văn hóa ngang tầm với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức sáng tạo, khát vọng phát triển phồn vinh. Phát triển các sản phẩm, dịch vụ gắn với bảo tồn, phát huy giá trị di sản, bản sắc văn hóa. Chú trọng quy hoạch, đầu tư các thiết chế văn hóa, công trình văn hóa tiêu biểu. Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; triển khai hiệu quả 3 chương trình mục tiêu quốc gia.