Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng: Phát huy giá trị di sản từ công tác giáo dục môi trường
Mục lục bài viết
Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng: Phát huy giá trị di sản từ công tác giáo dục môi trường
05/10/2021
Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng (VQG PN – KB) thuộc tỉnh Quảng Bình, nằm trong vùng sinh thái Bắc Trường Sơn, là một trong 200 vùng sinh thái quan trọng nhất trên toàn cầu, được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) 2 lần công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới với các tiêu chí: Địa chất – địa mạo, hệ sinh thái (HST) và đa dạng sinh học (ĐDSH). Để quản lý, bảo tồn toàn vẹn các giá trị di sản, Ban Quản lý VQG PN – KB luôn nỗ lực, chủ động nghiên cứu, áp dụng các công cụ quản lý, bảo tồn tài nguyên, trong đó, giáo dục môi trường (GDMT) là công cụ cần thiết, giúp mọi người hiểu biết về môi trường, về những tác động hai chiều của con người đối với môi trường và sinh vật trên Trái đất, từ đó góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm, giúp con người hình thành hành vi ứng xử thân thiện với môi trường và tham gia BVMT sinh thái một cách tự nguyện, lâu dài.
Những giá trị nổi bật của VQG PN – KB
Giá trị về địa chất địa mạo: PN – KB chứa đựng các bằng chứng về lịch sử hình thành, kiến tạo của vỏ Trái đất với 5 quá trình kiến tạo từ Kỷ Odovic đến Carbon – Permi. Đây là một phần của cao nguyên rộng lớn bị chia cắt, bao gồm khu vực núi đá vôi Kẻ Bàng và Hin Nậm Nô (Lào), cao nguyên này là một trong những ví dụ nổi bật, đặc trưng nhất của dạng địa hình núi đá vôi phức hợp ở Đông Nam Á. Kiến tạo núi đá vôi hình thành từ Đại Cổ sinh (cách đây trên 400 triệu năm) và là khu vực núi đá vôi lớn, cổ nhất ở khu vực châu Á. PN – KB được mệnh danh là “Vương quốc hang động” với 368 hang động, tổng chiều dài trên 231 km đã được khảo sát, trong đó, động Sơn Đoòng được Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh đánh giá là hang động lớn nhất thế giới, đồng thời đã phát hiện một hố sụt Kast sâu nhất Việt Nam (với độ sâu hơn 255 m), thậm chí có thể sâu nhất Đông Nam Á.
Giá trị về HST: PN – KB có 15 kiểu sinh cảnh, với 10 kiểu thảm thực vật quan trọng. Rừng kín thường xanh che phủ 93,5% diện tích, trong đó, trên 90% diện tích VQG là HST rừng nhiệt đới trên núi đá vôi điển hình hiếm có còn sót lại và hầu hết chưa bị tác động. Đây là một trong những VQG có độ che phủ, tỷ lệ rừng nguyên sinh lớn nhất trong hệ thống các rừng đặc dụng ở Việt Nam. Đặc biệt, sự tồn tại của quần thể Bách xanh đá 500 tuổi, diện tích khoảng 4.000 ha, mọc chủ yếu trên núi đá vôi ở độ cao hơn 600 m, được xem là sinh cảnh rừng độc đáo nhất, bởi tầm quan trọng toàn cầu và giá trị bảo tồn. Quần thể Bách xanh đá là loài thực vật cổ và đặc hữu của Việt Nam, hiện chỉ còn sót lại chủ yếu ở VQG PN – KB.
Cá thể Khỉ Đuôi lợn được người dân tự nguyện giao nộp cho Trạm Kiểm lâm Hóa Sơn, VQG PN – KB
Giá trị ĐDSH: Tại VQG PN – KB ghi nhận 2.952 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 1.007 chi, 198 họ, 63 bộ, 12 lớp, 6 ngành, trong đó có 111 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam; 121 loài được ghi trong Sách đỏ IUCN; 3 loài có tên trong Nghị định số 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019 của Chính phủ. Về động vật, PN – KB có 1.394 loài động vật thuộc 835 giống, 289 họ, 68 bộ, 12 lớp, 4 ngành, trong đó có 82 loài được ghi trong Sách đỏ Việt Nam; 116 loài được ghi trong Sách đỏ IUCN; 39 loài có tên trong Nghị định số 64/2019/NĐ-CP; 66 loài nằm trong các phụ lục CITES. Ngoài ra, trong khoảng 20 năm qua, 42 loài mới cho khoa học đã lần lượt được ghi nhận và công bố trên toàn thế giới, trong đó có 38 loài động vật và 4 loài thực vật.
Các hoạt động giáo dục môi trường tại VQG PN – KB
Hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức: Xác định đây là biện pháp quan trọng, mang tính bền vững trong các giải pháp GDMT, Ban Quản lý VQG PN – KB đã tích cực xây dựng và triển khai nhiều hoạt động như: Treo pano quảng bá, phát tài liệu, ấn phẩm truyền thông; tổ chức hội nghị các cấp tuyên truyền về công tác quản lý, bảo vệ rừng, bảo vệ động vật hoang dã (ĐVHD); lồng ghép tuyên truyền vào các buổi sinh hoạt thôn bản, thành lập câu lạc bộ bảo tồn ở vùng đệm; tập huấn kỹ năng truyền thông bảo tồn ĐDSH cho đội ngũ hướng dẫn viên du lịch, cộng tác viên các xã và giáo viên các trường học trên địa bàn… Đến nay, Ban Quản lý VQG PN – KB đã tổ chức được khoảng gần 900 đợt tuyên truyền tới các thôn bản vùng đệm với hàng nghìn lượt người tham gia; phát hành 45.130 tờ rơi, ấn phẩm tuyên truyền và 6.000 cuốn vở học sinh; treo 150 pano tuyên truyền tại các xã vùng đệm; vận động thành công người dân giao nộp nhiều cá thể ĐVHD (Khỉ đuôi lợn, khỉ vàng, khỉ cộc, cu li nhỏ, rùa núi viền, voọc Hà Tĩnh…) để cứu hộ, góp phần bảo tồn các loài ĐVHD của VQG.
Diễn giải môi trường: Là hành động thiết yếu nhằm mang đến thông tin cho đối tượng về ý nghĩa của tài nguyên, những giá trị mà dịch vụ HST cung cấp cho con người và các sinh vật. Ban Quản lý VQG PN – KB đã tăng cường diễn giải môi trường bằng nhiều hình thức, kết quả, thông tin về môi trường đã tiếp cận đến 1.864 học sinh, sinh viên, đoàn viên thanh niên các xã vùng đệm. Ngoài ra, Ban Quản lý VQG PN – KB còn tổ chức diễn giải tại Khu nuôi thả bán hoang dã Núi đôi, Điểm Du lịch sinh thái, Vườn thực vật cho hàng trăm lượt học sinh trên địa bàn và khách du lịch đến tham quan; tổ chức thành công các cuộc thi: Vẽ tranh về môi trường, “Rừng xanh quê hương em và biến đổi khí hậu”, “Tìm hiểu Di sản thiên nhiên thế giới VQG PN – KB”, “Giải pháp giảm thiểu rác thải nhựa trong VQG PN – KB”… thu hút đông đảo đối tượng học sinh, sinh viên, Đoàn thanh niên, cán bộ, viên chức, người lao động trên địa bàn tham gia.
Tổ chức các hoạt động xanh: Hàng năm, Ban Quản lý VQG PN – KB thường xuyên tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới, Ngày Quốc tế ĐDSH, Chiến dịch Làm cho thế giới sạch hơn, Giờ Trái đất… bằng những hành động thiết thực, hiệu quả như thu gom rác thải trên địa bàn VQG, khu vực công cộng; phát động và duy trì các phong trào: Ngày Thứ bảy tình nguyện, Ngày Chủ nhật xanh; thực hiện tiết kiệm năng lượng, sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên…
Thành lập mạng lưới GDMT trong cộng đồng: Thông qua các cấp hội và đoàn thể địa phương, Ban Quản lý VQG PN – KB đã thành lập được mạng lưới GDMT trong cộng đồng gồm 5 câu lạc bộ bảo tồn thiên nhiên với trên 150 thành viên tham gia; ký cam kết không làm tổn hại đến môi trường di sản với 2.315 hộ gia đình ở các thôn vùng đệm; ký cam kết không vi phạm quy định về bảo vệ rừng VQG với những hộ dân kinh doanh, buôn bán thuộc 2 xã Tân Trạch, Thượng Trạch; ký cam kết không buôn bán, tiêu thụ động vật rừng với một số nhà hàng thuộc xã vùng đệm và các đơn vị khai thác, kinh doanh du lịch trong VQG. Bên cạnh đó, tổ chức tập huấn cho trên 400 hướng dẫn viên, nhân viên phục vụ du lịch, trên 100 cán bộ địa phương, giáo viên trong vùng đệm về kỹ năng GDMT trong nhà trường và cho du khách.
Ký kết quy chế phối hợp với các bên liên quan: Ký kết quy chế phối hợp trong công tác bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng, vận chuyển lâm sản trái phép và đấu tranh phòng chống buôn lậu qua biên giới khu vực VQG với Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh; 6 đồn biên phòng (Cà Xèng, Cà Roàng, Cồn Roàng, Làng Mai, Ra Mô, Cửa khẩu quốc tế Cha Lo); UBND huyện Minh Hóa; 2 công ty lâm nghiệp có lâm phần tiếp giáp; 3 hạt kiểm lâm và xây dựng chương trình hành động với 7 xã vùng đệm.
Phát triển du lịch: Bên cạnh nhiệm vụ quản lý, bảo tồn các giá trị di sản, Ban Quản lý VQG PN – KB luôn chú trọng đến công tác phát triển du lịch, dịch vụ, hướng đến sử dụng tài nguyên bền vững và các giá trị được chia sẻ. Du lịch ở VQG PN – KB không chỉ đóng góp cho phát triển kinh tế tại khu vực mà còn là giải pháp hữu hiệu để bảo tồn di sản, giảm áp lực lên tài nguyên thông qua tạo việc làm, nâng cao nhận thức về BVMT, bảo tồn di sản cho người dân. Hiện có hơn 3.000 người dân vùng đệm tham gia vào hoạt động dịch vụ như ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí, sản xuất hàng lưu niệm; tham gia vào các tổ bảo vệ rừng, nhóm bảo tồn thôn bản, hướng dẫn viên du lịch, porter, đội thuyền phục vụ khách du lịch (khoảng trên 400 thuyền), nhân viên chụp ảnh… Du lịch PN – KB đã tạo ra xu hướng chuyển lao động trước đây từ khai thác tài nguyên thiên nhiên sang phát triển du lịch.
Hỗ trợ phát triển kinh tế cho người dân vùng đệm: Các hoạt động GDMT không chỉ dừng lại ở việc giáo dục về kỹ năng và ý thức, trách nhiệm mà còn được cụ thể hóa bằng những mô hình hỗ trợ phát triển kinh tế cho người dân như khoán bảo vệ rừng, hỗ trợ phát triển cộng đồng vùng đệm. Với sự hỗ trợ của các Dự án: KFW, Rừng đặc dụng Phong Nha thuộc Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững, đã huy động sự tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý, bảo vệ rừng, bảo tồn ĐDSH gồm 400 cộng tác viên thuộc 29 tổ bảo vệ rừng, 21 nhóm bảo tồn thôn/bản thuộc 9 xã vùng đệm; xây dựng và thực hiện kế hoạch hỗ trợ, phát triển cộng đồng dân cư vùng đệm, nhằm cải thiện sinh kế, ổn định việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân. Trong đó, mô hình Nhóm Bảo tồn thôn bản là một trong những cách thức để đảm bảo về cơ chế huy động sự tham gia trực tiếp của cộng đồng trong bảo tồn ĐDSH. Theo các chuyên gia quốc tế, đây là mô thức áp dụng đầu tiên ở Đông Nam Á. Cùng với đó, Ban Quản lý VQG PN – KB đã thực hiện hiệu quả chương trình nhân giống nhiều loài cây bản địa quý, hiếm, có giá trị bảo tồn và kinh tế cao như phong lan, chè dây, huê, giổi xanh, giổi ăn hạt, sa nhân, ba kích tím; xây dựng thành công các mô hình: Nuôi dúi sinh sản, trồng hoa, trồng nấm rơm, nấm sò, nấm linh chi, bếp tiết kiệm củi, nông lâm kết hợp… phục vụ công tác bảo tồn ĐDSH và chuyển giao cho cộng đồng dân cư các xã vùng đệm, tạo công ăn việc làm, góp phần giảm áp lực lên tài nguyên di sản.
Hoạt động vẽ tranh BVMT của các em học sinh vùng đệm VQG PN – KB
Cùng với công tác bảo tồn, phát huy các giá trị Di sản, GDMT tại VQG PN -KB được xem là yếu tố quyết định cho sự phát triển bền vững. Nhận thức và thái độ của người dân ngày càng được nâng cao thông qua các chương trình tuyên truyền, sinh kế và chia sẻ lợi ích của cộng đồng. GDMT đã góp phần giảm áp lực lên tài nguyên Di sản, tình trạng đốt phá rừng làm nương rẫy, sử dụng súng săn từng bước được chấm dứt; hàng nghìn lao động ở các thôn bản vùng đệm tự nguyện bỏ nghề rừng để tham gia vào dịch vụ du lịch và sản xuất nông, lâm nghiệp theo mô hình được chuyển giao từ VQG. Nhiều cán bộ, đoàn viên, thanh niên, hội viên ở địa phương đã trở thành tình nguyện viên tiêu biểu trong công tác GDMT tại địa phương. Nhiều người dân tự nguyện giao nộp ĐVHD cho VQG để cứu hộ, thả về môi trường tự nhiên, một số người mạnh dạn tố giác, trình báo kịp thời cho lực lượng kiểm lâm hành động buôn bán, vận chuyển lâm sản trái phép. Các em học sinh đã tích cực tham gia giữ gìn môi trường Xanh – Sạch – Đẹp, có nhiều ý tưởng, sáng kiến hay trong BVMMT. Khách du lịch đã có ý thức và thực hiện tốt việc giữ gìn vệ sinh môi trường, cảnh quan thiên nhiên, tài nguyên di sản…
Một số tồn tại, khó khăn và đề xuất giải pháp
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác GDMT tại VQG PN – KB còn gặp không ít khó khăn, tồn tại: Đói nghèo, lạc hậu và tập quán sinh sống của một bộ phận người dân vùng đệm VQG đã ảnh hưởng lớn tới nhận thức về công tác quản lý, bảo tồn Di sản; Tình trạng người dân vào rừng khai thác gỗ, bẫy bắt ĐVHD vẫn còn xảy ra, nhu cầu thị trường tiêu thụ sản phẩm này ngày càng đa dạng nên áp lực lên tài nguyên VQG còn lớn. Trong khi đó, hoạt động giáo dục chưa được tiến hành thường xuyên, hình thức chưa đa dạng, nội dung giáo dục chưa phong phú; công tác phối hợp với chính quyền địa phương và lực lượng chức năng trên địa bàn có lúc thiếu chặt chẽ, chưa thực sự mang lại hiệu quả; vẫn còn nạn giết mổ, tiêu thụ ĐVHD tại một số xã vùng đệm. Mặt khác, nguồn kinh phí cho hoạt động GDMT và hỗ trợ thôn bản phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, vì vậy, nhiều chương trình GDMT bị gián đoạn hoặc bỏ dỡ; năng lực đội ngũ làm công tác GDMT còn hạn chế, một số cán bộ chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ, dẫn đến chất lượng của giáo dục và kinh nghiệm vận động quần chúng chưa cao.
Để phát huy tốt vai trò của công tác GDMT trong bảo tồn, phát huy các giá trị Di sản, cần xác định GDMT là nền tảng, nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Mỗi cán bộ, nhân viên và người lao động tại VQG, từ tư duy, ngôn ngữ đến hành động, không được vi phạm các chuẩn mực về đạo đức môi trường, trở thành tấm gương tiêu biểu cho mọi người xung quanh ở mọi lúc, mọi nơi; cần xây dựng chiến lược GDMT nói chung, giáo dục bảo tồn Di sản nói riêng trong bối cảnh hiện nay; đẩy mạnh hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm trong GDMT giữa các VQG, khu bảo tồn, khu di sản, đặc biệt là các khu di sản thiên nhiên trong khu vực; huy động sức mạnh của cộng đồng dân cư địa phương; xã hội hóa công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản; tăng cường tuyên truyền, giáo dục cộng đồng tham gia bảo vệ Di sản; có cơ chế, chính sách vận động người dân cùng tham gia bảo vệ rừng, bảo vệ di sản. Đồng thời, phát huy vai trò của chính quyền địa phương các xã vùng đệm trong thực thi pháp luật, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cộng đồng; tranh thủ sự hỗ trợ của các ban, ngành liên quan để triển khai Chương trình GDMT hiệu quả cũng như sự giúp đỡ của các tổ chức BVMT, bảo tồn thiên nhiên trong nước và quốc tế, góp phần nâng cao chất lượng, đảm bảo tính bền vững của công tác GDMT.
Ngoài ra, cần đảm bảo nguồn ngân sách cho công tác GDMT để mở rộng hình thức, phạm vi cũng như duy trì tính thường xuyên của hoạt động; xây dựng đội ngũ cán bộ mạnh về tư tưởng, nghiệp vụ; nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác GDMT nói chung, tuyên truyền, vận động nói riêng và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các cam kết về hoạt động GDMT, không làm tổn hại đến môi trường Di sản thiên nhiên thế giới.
Võ Văn Trí, Lê Thị Phương Lan
Phòng Khoa học & Hợp tác quốc tế
Ban quản lý Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 9/2021)