Xã hội cổ đại Hi lạp, Rô-ma bao gồm những giai cấp nào?
Sự hình thành các quốc gia cổ địa phương Tây? Giai cấp trong xã hội các quốc gia cổ đại phương Tây? Chế độ chiếm hữu nô lệ? Văn hóa cổ đại Hi Lạp và Rô ma? Thị quốc địa trung hải?
Xã hội cổ đại Hi Lạp, Rô – ma luôn là những điều thần bí, thôi thúc trí tò mò tìm kiếm về lịch sử đối với mỗi con người yêu thích tìm hiểu về văn hóa lịch sử. Để bật mí cho các bạn biết những điều bí ấn về các tầng lớp giai cấp của xã hội hội cổ đại này chúng tôi đã viết nên bài dưới đây, rất hy vọng bài viết sẽ giúp ích được cho các bạn!
1. Sự hình thành các quốc gia cổ đại phương Tây:
Sự hình thành các quốc gia cổ đại phương Tây xuất hiện chủ yếu trên bán đảo Balkan và I-ta-li-a, vào đầu thiên niên kỷ I TCN, hai quốc gia cổ đại là Hy Lạp và La Mã đã được hình thành.
Đây là vùng đất không phù hợp để trồng cây lương thực là lúa. Các loại cây khác được đưa vào trồng như nho, ô liu… Các ngành nghề khác như thương nghiệp, ngoại thương, làm đồ gốm, nấu rượu nho… ngày một phát triển đem lại sự giàu có cho cư dân tại đây.
Khoảng đầu thiên niên kỉ I TCN, cư dân ở Địa Trung Hải bắt đầu biết chế tạo công cụ bằng sắt, cho phép khai hoang những vùng đất rộng lớn hơn.
Thủ công nghiệp rất phát triển, có nhiều ngành nghề, nhiều thợ giỏi làm ra những sản phẩm nổi tiếng như đồ gốm (chum, lọ, bát) có màu và hình vẽ đẹp. Nhiều xưởng thủ công sản xuất hàng hóa chất lượng cao với quy mô lớn…
Giao thương bằng đường biển rất phát triển, mở rộng buôn bán với tất cả các vùng ven Địa Trung Hải, với các nước phương Đông: Các sản phẩm mua từ lúa mì và lông động vật (Biển Đen, Ai Cập); Tơ lụa, gia vị, xa xỉ phẩm từ phương Đông. Delot, Pire là trung tâm buôn bán nô lệ lớn của thế giới cổ đại.
2. Giai cấp trong xã hội các quốc gia cổ đại phương Tây:
Xã hội tồn tại dưới hình thức dân chủ cộng hòa. Nhà nước do nhân dân tự do và tầng lớp quý tộc bầu ra. Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội dần hình thành sự phân hóa giàu nghèo. Xã hội ở các quốc gia phương Tây cổ đại Hi lạp, Rô-ma bao gồm hai giai cấp chính:
Giai cấp chủ nô: do nắm giữ nhiều của cải nên rất giàu có, sống sung túc và nắm nhiều quyền hành. Họ bóc lột nô lệ rất nặng nề. Họ sở hữu rất nhiều nô lệ.
Nô lệ: như trên đã nói, là tầng lớp bị chủ nô bóc lột nặng nề. Họ phải lao động rất vất vả, là lực lượng lao động chính trong xã hội mà không được hưởng bất cứ quyền lợi gì. Nếu không nghe lời sẽ bị đánh bất cứ lúc nào. Đặc biệt, chúng là tài sản riêng của chủ nô.
Các xã hội cổ đại ở Hy Lạp và La Mã được gọi là xã hội chiếm hữu nô lệ.
Vì vậy, dưới áp bức nặng nề, nô lệ đã nổi dậy vào năm 71-73 TCN do Xpac-ta-cắt đứng đầu.
3. Chế độ chiếm hữu nô lệ:
Trong hệ thống công xã nguyên thủy, không có sự bóc lột, thống trị hay khuất phục giữa một người hay một nhóm người với người này hay người khác trong xã hội. Sở dĩ như vậy vì của cải là của tập thể thị tộc, không ai có tư tưởng bóc lột người khác. Trình độ sản xuất còn thấp, người dân phải làm lụng vất vả mới đủ ăn, không ai sản xuất ra của cải dư thừa để người khác bóc lột.
Bước vào thời đại của sản phẩm kim loại, do điều kiện sản xuất được cải thiện, năng suất lao động trong các ngành công nghiệp cao hơn, sức lao động của mỗi người không chỉ đảm bảo được những nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống riêng và con cái, nhưng cũng có thể sản xuất nhiều hơn một chút, có thể tạo ra một số sản phẩm dư thừa. Vì vậy, có thể nảy sinh hiện tượng con người bóc lột, khả năng chiếm đoạt sản phẩm thặng dư do người khác làm ra. Kể từ đó, người ta bắt đầu nghĩ đến cách bóc lột sức lao động của những tù binh bị bắt trong chiến tranh, thuộc các thị tộc, bộ lạc khác. Trước đây, tù binh chiến tranh có thể được thị tộc thu nhận, hoặc bị ăn thịt, hoặc bị giết, nhưng hiện tại họ bị giữ lại trong thị tộc để làm việc; họ trở thành nô lệ của thị tộc. Do đó đến chế độ nô lệ. Đó là hình thức áp bức, bóc lột đầu tiên giữa con người với con người, đồng thời cũng là một bước tiến vĩ đại của lịch sử, vì sự bóc lột sức lao động của nô lệ có tác dụng thúc đẩy tích luỹ của cải cần thiết cho sự phát triển cao hơn của nền sản xuất xã hội.
Hình thức nô lệ lâu đời nhất là chế độ nô lệ gia trưởng. Trong chế độ nô lệ gia trưởng, nô lệ chủ yếu phục vụ trong gia đình của chủ nô. Khi chủ nhân qua đời, nô lệ có thể trở thành tài sản của con cháu ông ta, hoặc có thể bị chôn sống cùng chủ nhân. Nô lệ cũng được sử dụng trong công việc sản xuất. Dù phải làm những công việc nặng nhọc, nhưng họ vẫn được chủ coi như những người giúp việc trong gia đình, hoặc đôi khi tốt hơn, như những thành viên của một gia đình gia trưởng. Họ có thể có gia đình riêng, có thể có chút của cải. Người nô lệ coi gia đình chủ như người nhà của mình, coi mình là người trong gia đình chủ. Hôn nhân giữa những người đàn ông tự do và nô lệ không phải là hiếm. Về địa vị, nô lệ không thua kém nhiều so với người tự do. Tuy nhiên, về nguyên tắc, nô lệ thuộc về chủ nô, chủ nô có quyền đối với nô lệ sinh ra và bị giết.
Chế độ nô lệ gia trưởng xuất hiện vào thời kỳ quá độ từ chế độ công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên, trong các xã hội chiếm hữu nô lệ ở phương Đông (Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập, Babylon cổ đại, v.v.), nhiều dấu tích của chế độ nô lệ phụ quyền vẫn còn tồn tại.
4. Văn hóa cổ đại Hi Lạp và Rô ma:
Lịch
– Người Hi Lạp đã có hiểu biết chính xác hơn về Trái Đất và hệ Mặt Trời.
– Tính được 1 năm có 365 ngày và 1/4, định ra một tháng lần lượt có 30 và 31 ngày, riêng tháng hai có 28 ngày.
Chữ viết
– Người Hy Lạp, Rô ma đã có chữ viết cổ. Nhưng chữ của họ có quá nhiều hình, nét, kí hiệu; khả năng phổ biến bị hạn chế.
– Sáng tạo ra hệ thống chữ cái Rô-ma, tức là hệ A, B, C… ban đầu gồm 20 chữ, sau thêm 6, làm thành hệ thống chữ cái hoàn chỉnh như ngày nay.
– Có hệ chữ số mà ngày nay ta thường dùng để đánh số các đề mục lớn, gọi là “số La Mã”.
=> Sự ra đời của hệ thống chữ cái là một phát minh và cống hiến lớn lao của cư dân Địa Trung Hải cho nền văn minh nhân loại.
Sự ra đời của khoa học
Đến thời cổ đại Hy Lạp – Rô ma, những hiểu biết khoa học mới thực sự trở thành khoa học vì có độ chính xác của khoa học đạt tới trình độ khái quát thành định lý, lý thuyết và nó được thực hiện bởi các nhà khoa học có tên tuổi, đặt nền móng cho ngành khoa học đó.
+ Toán học: người Hi Lạp vượt lên trên như Ta-lét, Pi-ta-go, Ơ-clít,…
+ Vật Lý: có Ác-si-mét.
+ Sử học: vượt qua sự ghi chép tản mạn, họ biết tập hợp tài liệu, phân tích và trình bày có hệ thống: Hê-rô-đốt, Tu-xi-đít, Ta-xít,…
Văn học
– Ở Hy Lạp, sau các sử thi nổi tiếng Home, Iliad và Odyssey, đã xuất hiện các nhà văn nổi tiếng như Ethsin, Soloc, Bripit.
– Nhà văn chủ yếu là người viết kịch bản và tác phẩm là kịch bản. Kịch là loại hình nghệ thuật dễ dàng và phổ biến nhất.
– Người Rô-bin-xơn tự xưng là học trò và người thừa kế văn học nghệ thuật. Hy Lạp, các nhà thơ nổi tiếng như Lucrez, Viergin.
Mỹ thuật
– Người Hy Lạp cổ đại đã để lại nhiều tượng đài và đền đài đạt đến mức nguy nga tráng lệ. Chẳng hạn như: tượng nữ thần Athena đội mũ chiến binh, hay các tác phẩm điêu khắc như vận động viên ném đĩa, thần Vệ nữ Milo,…
– La Mã có nhiều công trình kiến trúc như đền đài, cầu dẫn nước, đấu trường,… uy nghiêm, đồ sộ, hoành tráng và thiết thực nhưng không tinh tế, tươi tắn, mềm mại, gần gũi. như những tòa nhà ở Hy Lạp.
5. Thị quốc địa trung hải:
Đất nước nhỏ, buôn bán phát triển nên dân cư tập trung ở các thành phố với đường phố, lâu đài, đền đài, sân vận động, nhà hát, bến cảng, đó là đất nước.
Ở thành bang, quyền lực nằm trong tay Đại hội công dân, Hội đồng 500 người, mọi công dân đều có quyền dân chủ: biểu quyết các vấn đề quan trọng của quốc gia.
Biểu hiện của dân chủ:
– Hơn 3 vạn công dân hợp thành Đại hội công dân, bầu và bầu ra các cơ quan nhà nước (không có vua), quyết định mọi công việc của nhà nước. Hội đồng 500 người hoạt động giống như Quốc hội bầu ra 10 quan chức để điều hành chính phủ với nhiệm kỳ một năm.
– Mỗi năm toàn thể công dân họp một lần ở quảng trường, mọi người được phát biểu và biểu quyết những công việc hệ trọng của quốc gia.
– Nền dân chủ này phát triển nhất ở Athens.
– Thực chất của nền dân chủ cổ đại ở Hy Lạp và La Mã là nền dân chủ nô lệ, dựa trên cơ sở bóc lột nô lệ một cách khủng khiếp của chủ nô.