Xây dựng văn hoá doanh nghiệp cho các doanh nghiệp Việt Nam

  1. 1
    BỘ GIÁO DỤC

    VÀ ĐÀO TẠO
    TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
    ĐỖ THỊ THANH TÂM
    XÂY DỰNG VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP
    CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
    TRONG XU THẾ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
    CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH
    MÃ SỐ: 60.34.05
    LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
    Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS PHAN THỊ MINH CHÂU

  2. 2
    TP Hồ Chí

    Minh – năm 2006
    MỤC LỤC
    MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………………………………. 5
    CHƢƠNG I. TỒNG QUAN LÝ THUYẾT VĂN HÓA DOANH NGHIỆP………………….. 8
    1.1KHÁI NIỆM VĂN HÓA DOANH NGHIỆP ……………………………………….. 8
    1.1.1. Khái niệm Văn hóa doanh nghiệp……………………………………………… 8
    1.1.2. Mối quan hệ giữa Văn hóa doanh nghiệp và văn hóa dân tộc …….. 14
    1.1.3. Văn hóa doanh nghiệp trong một tập đoàn đa quốc gia …………….. 15
    1.2LỢI ÍCH CỦA VIỆC XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP………. 16
    1.2.1. Đối với doanh nghiệp……………………………………………………………… 16
    1.2.2. Đối với bên ngoài doanh nghiệp………………………………………………. 18
    1.2.3. Đối với việc xây dựng thƣơng hiệu cho sản phẩm, dịch vụ…………. 18
    1.3XÂY DỰNG, DUY TRÌ VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA DOANH NGHIỆP 19
    1.3.1. Xây dựng Văn hóa doanh nghiệp…………………………………………….. 19
    1.3.2. Duy trì và phát huy Văn hóa doanh nghiệp………………………………. 22
    1.4 MỘTSỐGƢƠNGXÂYDỰNGTHÀNHCÔNGVĂNHÓADOANHNGHIỆP 24
    1.4.1. Tập đoàn Johnson & Johnson Mỹ …………………………………………… 24
    1.4.2. Tập đoàn Honda Nhật Bản……………………………………………………… 27
    1.4.3. Công ty Unilever Việt Nam …………………………………………………….. 29
    KẾT LUẬN CHƢƠNG 1…………………………………………………………………………… 31
    CHƢƠNG II. THỰC TRẠNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP CỦA DOANH
    NGHIỆP VIỆT NAM………………………………………………………………………………… 32
    2.1LỊCH SỬ KINH TẾ VIỆT NAM QUA 5 GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN …. 32
    2.2 TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY38
    2.3THỰC TRẠNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
    VIỆT NAM …………………………………………………………………………………….. 45

  3. 3
    2.3.1. Những mặt

    hạn chế về Văn hóa doanh nghiệp các doanh nghiệp Việt
    Nam ……………………………………………………………………………………… 45
    2.3.2. Những mặt tích cực về Văn hóa doanh nghiệp của các doanh nghiệp
    Việt Nam ………………………………………………………………………………. 55
    2.4NGUYÊN NHÂN YẾU KÉM CỦA VĂN HÓA DOANH NGHIỆP CÁC
    DOANH NGHIỆP VIỆT NAM…………………………………………………………. 58
    2.4.1. Nguyên nhân khách quan – những tồn tại lịch sử……………………… 58
    2.4.2. Nguyên nhân chủ quan – những chính sách, định hƣớng, giáo dục, môi
    trƣờng Văn hóa doanh nghiệp ………………………………………………… 60
    KẾT LUẬN CHƢƠNG II………………………………………………………………………….. 62
    CHƢƠNG III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
    CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP KINH TẾ
    QUỐC TẾ………………………………………………………………………………………………… 63
    3.1ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VĂN HÓA DOANH NGHIỆP TRONG MÔI
    TRƢỜNG KINH TẾ QUỐC TẾ……………………………………………………….. 63
    3.1.1. Sơ lƣợc bối cảnh toàn cầu hóa…………………………………………………. 63
    3.1.2. Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đối với các doanh nghiệp Việt Nam
    …………………………………………………………………………………………….. 64
    3.1.3. Vai trò của việc xây dựng Văn hóa doanh nghiệp của các doanh nghiệp
    Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế…………………….. 65
    3.2ĐỊNH HƢỚNG XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP CHO CÁC
    DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP KINH TẾ
    QUỐC TẾ ………………………………………………………………………………………. 67
    3.2.1. Xác định tầm nhìn định hƣớng, mục tiêu dài hạn, xây dựng tôn chỉ,
    triết lý hoạt động đƣợc chia sẻ rộng rãi ……………………………………. 68
    3.2.2. Xây dựng Văn hóa lãnh đạo……………………………………………………. 70
    3.2.3. Xây dựng Văn hóa tổ chức ……………………………………………………… 72
    3.2.4. Xây dựng Văn hóa kinh doanh ……………………………………………….. 77
    3.2.5. Quảng bá hình tƣợng, quan hệ công chúng của doanh nghiệp (PR)78

  4. 4
    3.3MỘT SỐ ĐỀ

    XUẤT ĐỂ XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP CHO
    CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ………………………………………………… 81
    3.3.1. Những tiền đề thiết yếu cho việc xây dựng thành công Văn hóa doanh
    nghiệp đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay …………………. 81
    3.3.2. Các đề xuất đối với doanh nghiệp……………………………………………. 81
    3.3.3. Các đề xuất đối với nhà nƣớc………………………………………………….. 83
    KẾT LUẬN CHƢƠNG 3…………………………………………………………………………… 87
    KẾT LUẬN………………………………………………………………………………………………. 88
    PHỤ LỤC ………………………………………………………………………………………………… 90
    1. BẢNG CÂU HỎI ĐÁNH GIÁ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP……………… 90
    2. MỘT CÔNG TY LUẬT THUẦN VIỆT VƢƠN LÊN TẦM QUỐC TẾ .101
    TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………………………….105

  5. 5
    MỞ ĐẦU
    1. ĐẶT

    VẤN ĐỀ
    Nền kinh tế đất nước từ sau đổi mới đã phát triển rất nhanh cùng với sự gia tăng
    mạnh mẽ của các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp khu vực ngoài
    quốc doanh. Tuy nhiên, sự phát triển còn mang tính nhỏ, lẻ, thiếu ổn định và bền vững.
    Các doanh nghiệp đa số chưa định hình được bản sắc kinh doanh riêng.
    Đất nước ta đang tiến bước mạnh mẽ vào hội nhập kinh tế quốc tế, mà mốc son
    quan trọng là việc chính thức được kết nạp thành viên WTO vào ngày 7/11/2006. Hội
    nhập kinh tế đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng lắm thách thức cam go trong môi trường
    cạnh tranh gay gắt, khốc liệt hơn. Chúng ta phải làm gì, bắt đầu hành trình WTO như thế
    nào để hội nhập một cách vững chải và không bị hoà tan.
    Trong bối cảnh toàn cầu hoá, bên cạnh sự giao thoa các nguồn lực còn có sự giao
    lưu giữa các dòng văn hoá đa dạng, ảnh hưởng tới phong cách, thái độ làm việc của
    doanh nghiệp. Nhu cầu của con người cũng chuyển sang chú trọng tới mặt giá trị văn
    hoá. Cạnh tranh bằng công nghệ kỹ thuật trong thời đại thế giới phẳng không còn chiếm
    địa vị lâu dài do tính chất khuếch tán nhanh của công nghệ kỹ thuật. Thay vào đó là vai
    trò then chốt của văn hoá doanh nghiệp trong cạnh tranh bởi lẽ khác với công nghệ kỹ
    thuật, văn hoá doanh nghiệp rất khó hoặc không thể bắt chước được toàn bộ, nó sẽ tạo
    nên những nét riêng, sức hấp dẫn cho doanh nghiệp.
    Xã hội ta cũng bắt đầu đề cập đến vấn đề văn hoá doanh nghiệp, tôn vinh văn hoá
    doanh nhân với việc lấy ngày 13 tháng 10 hàng năm làm ngày Doanh nhân Việt Nam,
    ngày càng xuất hiện những khoá đào tạo về văn hoá doanh nghiệp. Tuy nhiên, tất cả
    những hoạt động vẫn còn mang tính hình thức cao, chưa được quan tâm đúng mức, đại đa
    số doanh nghiệp vẫn chưa nhận thấy vai trò quan trọng của việc xây dựng bản sắc văn
    hoá doanh nghiệp, chưa nhìn nhận văn hoá doanh nghiệp như nền tảng, động lực phát
    triển của doanh nghiệp.

  6. 6
    Trong bối cảnh

    đó, việc nghiên cứu văn hoá doanh nghiệp và ảnh hưởng của nó
    trong quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp mang ý nghĩa quan trọng, đặc biệt
    trong quá trình bức phá đi lên của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Luận văn với mong
    muốn góp phần làm sáng tỏ thêm vấn đề văn hoá doanh nghiệp, vai trò của văn hoá
    doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế, tìm
    hiểu đặc trưng văn hoá doanh nghiệp Việt Nam hiện nay để từ đó thử đề xuất mô hình
    văn hoá doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Luận văn hy
    vọng là một tài liệu nhỏ giúp các doanh nghiệp có cái nhìn đúng đắn, sâu sát hơn về văn
    hoá doanh nghiệp.
    Riêng đối với tác giả, xuất phát từ những trăn trở về tình hình phát triển thiếu bền
    vững, chưa khẳng định được tên tuổi của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế, tác
    giả mong muốn nghiên cứu để tìm câu trả lời thuyết phục cho bản thân, và hy vọng ứng
    dụng được các kiến thức đã được học về ngành quản trị doanh nghiệp và thực tiễn làm
    việc trong một công ty nổi tiếng thế giới và đã thành công trên thị trường Việt Nam để
    hoàn thành khoá luận thạc sỹ của mình.
    Chính vì các lý do trên mà tác giả đã chọn đề tài: “Xây dựng văn hoá doanh
    nghiệp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế“ làm đề
    tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ kinh tế của mình.
    2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
    Luận văn xác định 3 mục tiêu nghiên cứu:
    Một là, tìm hiểu và đưa ra một vài tổng quan lý thuyết về văn hoá doanh nghiệp –
    một lĩnh vực tương đối mới mẻ và chưa được chuẩn hoá. Hai là, tìm hiểu đặc trưng chính
    của văn hoá doanh nghiệp của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Ba là, đưa ra một số
    đề xuất xây dựng văn hoá doanh nghiệp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội
    nhập kinh tế quốc tế.
    3. PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
    Luận văn vận dụng cách tiếp cận theo duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, nghiên
    cứu mô tả, tiếp cận một cách có hệ thống để phân tích làm rõ thực trạng, đồng thời
    nghiên cứu ứng dụng để giải quyết vấn đề.

  7. 7
    Luận văn chủ

    yếu phân tích định tính, dựa trên những thông tin, nguồn số liệu thứ
    cấp sẵn có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Do những hạn chế về thời gian, nguồn lực và
    thiếu sự hỗ trợ cần thiết của doanh nghiệp, luận văn không thể thực hiện những nghiên
    cứu sơ cấp ở qui mô lớn về thực trạng văn hóa doanh nghiệp các doanh nghiệp Việt Nam
    như những điều tra nhận thức của lãnh đạo, nhân viên về văn hóa doanh nghiệp Việt Nam
    nói chung và văn hóa doanh nghiệp mình nói riêng.
    4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
    Đối tượng nghiên cứu của lụân văn là các doanh nghiệp Việt Nam do người Việt
    Nam thành lập và quản lý trên lãnh thổ Việt Nam, bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước
    và doanh nghiệp ngoài Nhà nước, không bao gồm doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài,
    các hợp tác xã, hộ kinh tế cá thể.
    Văn hoá doanh nghiệp là một vấn đề tương đối rộng lớn, bao gồm rất nhiều vấn đề
    của doanh nghiệp và liên quan đến nhiều lĩnh vực nghiên cứu mà trong phạm vi của luận
    án cao học không thể bao quát hết được. Do đó, Phạm vi nghiên cứu của luận văn được
    giới hạn trong phạm vi các đề xuất xây dựng văn hoá doanh nghiệp cho một số vấn đề
    chính của doanh nghiệp.
    5. KẾT CẤU LUẬN ÁN
    Luận văn được trình bày với số lượng 80 trang bao gồm phần mở đầu, phần kết
    luận và 3 chương với kết cấu nội dung được trình bày trong mục lục.

  8. 8
    CHƢƠNG I. TỒNG

    QUAN LÝ THUYẾT VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
    1.1 KHÁI NIỆM VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
    1.1.1. Khái niệm Văn hóa doanh nghiệp
    i. Khái niệm
    Văn hóa doanh nghiệp bắt đầu được quan tâm rộng rãi ở nước ta gần đây. Khái
    niệm Văn hóa doanh nghiệp là gì vẫn còn là vấn đề chưa được chính thức nhất quán giữa
    các học giả, các nhà kinh tế, tuỳ theo góc nhìn của mỗi người mà có những khái niệm
    khác nhau về văn hoá doanh nghiệp. Một số khái niệm Văn hoá doanh nghiệp:
    Phẩm chất riêng biệt của tổ chức đƣợc nhận thức phân biệt nó với các tổ chức
    khác trong lĩnh vực. (Gold, K.A.)
    Văn hóa thể hiện tổng hợp các giá trị và cách hành xử phụ thuộc lẫn nhau phổ
    biến trong doanh nghiệp và có xu hƣớng tự lƣu truyền, thƣờng trong thời gian dài.
    (Kotter, J.P. & Heskett, J.L.)
    Văn hóa doanh nghiệp là những niềm tin, thái độ và giá trị tồn tại phổ biến và
    tƣơng đối ổn định trong doanh nghiệp. (Williams, A., Dobson, P. & Walters, M.)
    Còn nếu nói nôm na, dễ hiễu: Nếu doanh nghiệp là máy tính thì Văn hóa doanh
    nghiệp là hệ điều hành.
    Tất cả định nghĩa về văn hóa cũng như văn hóa doanh nghiệp đều nêu lên đặc
    điểm này hay đặc điểm kia của văn hóa, rất khó có được một định nghĩa đầy đủ trọn vẹn.
    Tuy nhiên, một định nghĩa được đa số đồng tình đó là : “Văn hóa doanh nghiệp
    được hiểu là toàn bộ các giá trị văn hoá được gây dựng nên trong suốt quá trình tồn
    tại và phát triển của một doanh nghiệp; trở thành các giá trị, các quan niệm và tập
    quán, truyền thống ăn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp; chi phối tình cảm, nếp
    suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên của doanh nghiệp trong việc theo đuổi và thực
    hiện các mục đích”.
    Định nghĩa trên nêu bật được ba đặc trưng quan trọng của Văn hóa doanh nghiệp
    sau: thứ nhất, đó là các giá trị văn hóa được gây dựng trong quá trình hình thành và tồn
    tại của doanh nghiệp, như vậy văn hóa là sản phẩm của những người cùng làm trong một
    doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu giá trị bền vững; thứ hai để là giá trị văn hóa nó phải

  9. 9
    trở thành những

    quan niệm, tập quán trong một thời gian đủ dài, những giá trị không
    được chấp nhận bởi doanh nghiệp sẽ bị loại trừ; và thứ ba những giá trị đó phải có khả
    năng chi phối đến nhận thức, hành vi của doanh nghiệp, nó giống như kim chỉ nam, ý
    thức hệ hướng dẫn, bao trùm lên suy nghĩ, hành vi ứng xử của thành viên doanh nghiệp
    trong việc ứng phó với những vấn đề tồn tại và phát triển của mình.
    Để tránh nhầm lẫn về các thuật ngữ đang được sử dụng trong luận văn, tác giả xin
    đưa ra sự phân biệt giữa các thuật ngữ “văn hóa doanh nghiệp”, “văn hóa tổ chức”, “văn
    hóa kinh doanh”, “văn hóa lãnh đạo”, “văn hóa chất lượng”, v.v…Trong đó, văn hoá
    doanh nghiệp bao gồm toàn bộ các giá trị văn hoá khác. Văn hóa tổ chức chỉ nói đến
    cách hành xử về mặt cơ cấu, quản lý nhân sự bên trong doanh nghiệp, giá trị văn hoá đối
    với nhân viên doanh nghiệp. Văn hóa kinh doanh nói đến cách hành xử của doanh
    nghiệp trong công việc kinh doanh, chủ yếu với những tác nhân bên ngoài doanh nghiệp
    như khách hàng, đối tác, cơ quan quản lý, chính phủ, cổ đông, cộng đồng nơi doanh
    nghiệp hoạt động…
    Như vậy, Văn hóa tổ chức, văn hóa kinh doanh, hay văn hóa chất lƣợng, văn
    hóa lãnh đạo… là những yếu tố cấu thành nên văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa doanh
    nghiệp chỉ những giá trị chung, định hướng cho tất cả các hoạt động của doanh nghiệp;
    còn văn hóa tổ chức, văn hóa kinh doanh, văn hóa lãnh đạo, văn hóa chất lượng xác định
    những giá trị cụ thể về mặt tổ chức, kinh doanh, lãnh đạo, sản xuất… thích hợp với
    đường lối, giá trị chung của doanh nghiệp.
    Ví dụ văn hóa doanh nghiệp được xác định là kết hợp hài hòa lợi ích của nhân
    viên, khách hàng, đối tác, xã hội nơi doanh nghiệp hoạt động; vậy thì để thực hiện mục
    tiêu đó, văn hóa tổ chức, văn hóa kinh doanh, văn hóa lãnh đạo cũng phải được triển khai
    theo mục tiêu chung của văn hóa doanh nghiệp nghĩa là văn hóa tổ chức phải đảm bảo
    người lao động được bảo vệ quyền lợi chính đáng, không bị bóc lột sức lao động; văn hóa
    kinh doanh trung thực, không lừa dối khách hàng, đảm bảo môi trường thiên nhiên, có
    những hoạt động nhân đạo cho cộng đồng…
    ii. Biểu hiện của Văn hóa doanh nghiệp
    Văn hóa doanh nghiệp được thể hiện ở 3 cấp độ.

  10. 10
    Cấp dễ thấy

    nhất đó là thực thể hữu hình như những đồ vật: tài liệu, sản phẩm,
    văn phòng và vật dụng văn phòng,… hoặc công nghệ: máy móc, thiết bị, nhà xưởng…
    hoặc ngôn ngữ: chuyện cười, truyền thuyết, khẩu hiệu… hoặc các chuẩn mực hành vi:
    nghi thức, lễ nghi, liên hoan… hoặc các nguyên tắc, hệ thống, thủ tục, chương trình… Như
    vậy, đây là tất cả những gì ta cảm nhận, nhìn thấy ở một doanh nghiệp. Những thực thể
    hữu hình dễ dàng nhận thấy nhưng không dễ dàng để giải mã ra đặc trưng văn hóa doanh
    nghiệp nếu chỉ dựa vào yếu tố này bởi vì phụ thuộc rất nhiều vào cách cảm nhận của
    riêng mỗi người. Ví dụ khi một người trông thấy cách thức tổ chức không trang trọng,
    lịch sự của một doanh nghiệp thì có thể cho rằng doanh nghiệp hoạt động thiếu hiệu quả
    nếu như người đó đứng trên giả định của mình là sự lộn xộn nghĩa là không làm việc.
    Tuy nhiên, một người khác khi thấy một tổ chức rất chỉnh tề, đâu vào đó thì lại cho rằng
    doanh nghiệp đó thiếu tính sáng tạo nếu người này đứng trên kinh nghiệm riêng của mình
    là sự trang trọng cũng có nghĩa là thủ tục và tính qui trình cao. Nếu người quan sát làm
    việc trong doanh nghiệp lâu dài thì có thể cảm nhận đúng đắn hơn mối quan hệ giữa
    những thực thể hữu hình và đặc trưng văn hóa của doanh nghiệp. Nếu chúng ta muốn biết
    được mối quan hệ này nhanh hơn thì chúng ta có thể tìm hiểu những giá trị, qui tắc và
    luật lệ mang tính hướng dẫn cho những hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp (cấp thứ
    hai của văn hóa doanh nghiệp).
    Cấp thứ hai đó là các giá trị được thể hiện. Đây là những giá trị xác định những
    gì mình nghĩ là phải làm hay không nên làm, xác định những gì mình cho là đúng hay
    không đúng. Giá trị được phân chia làm 2 loại. Loại thứ nhất là các giá trị tồn tại sẵn
    ngay trong doanh nghiệp một cách khách quan và hình thành tự phát. Loại thứ hai là các
    giá trị mà lãnh đạo mong muốn doanh nghiệp mình có và phải xây dựng từng bước.
    Các giá trị được thể hiện có thể đƣợc xem là đúng hay sai, hợp lý hay không
    tùy thuộc vào trình độ nhận thức, kinh nghiệm của riêng mỗi cá nhân. Khi các giá trị
    này được minh chứng bằng thực tiễn của doanh nghiệp thì sẽ trở thành những ngầm định
    nền tảng (cấp thứ 3).
    Ví dụ, giám đốc nhân sự của công ty mong muốn công ty được trẻ hóa đội hình
    bởi vì ông ta nghĩ rằng người trẻ thì làm việc tốt hơn đối với tính chất kinh doanh của

  11. 11
    doanh nghiệp trong

    giai đoạn này, nhưng ý kiến này không được nhiều người ủng hộ vì
    chưa được minh chứng; bằng quyền lực của mình giám đốc nhân sự có thể ra qui định
    cho các phòng ban trong công ty phải tuyển người trong khoảng 25-35 tuổi. Khi những
    người trẻ tuổi thành công trong doanh nghiệp và dần dần quan điểm này thông qua một
    cơ chế chuyển đổi từ niềm tin một cá nhân  niềm tin, những giá trị được chia xẻ chung
     ngầm định nền tảng trong công tác tuyển dụng của tất cả phòng ban doanh nghiệp.
    Để trở thành những ngầm định nền tảng, các giả định về giá trị phải minh chứng
    được tính chất thích hợp, đúng đắn trong một thời gian đủ dài và ngay cả khi môi trường
    thay đổi trong suốt quá trình chuyển đổi trên.
    Các giá trị thể hiện sẽ giúp ta dự đoán được điều mà lãnh đạo, nhân viên doanh
    nghiệp sẽ nói trong nhiều hoàn cảnh nhưng có thể không phải là những điều thực sự được
    hành động. Ví dụ một công ty nói rằng họ luôn trân trọng giá trị của nhân viên, tạo môi
    trường làm việc tốt nhất cho nhân viên, nhưng có thể thực tế một số hành động thì không
    thể hiện mạnh, tuyệt đối điều này.
    Cấp thứ ba là các ngầm định nền tảng. Đó là các niềm tin, nhận thức, suy nghĩ
    và xúc cảm được coi là đương nhiên ăn sâu trong tiềm thức mỗi cá nhân trong doanh
    nghiệp. Các ngầm định nền tảng này là nền tảng cho các giá trị và hành động của mỗi
    thành viên. Không có sự tranh luận, suy xét đúng sai cho các ngầm định nền tảng, nó
    được coi là chân lý cho hoạt động của doanh nghiệp, đây cũng là gốc rễ, bản chất của đặc
    trưng văn hóa doanh nghiệp. Do đó, việc thay đổi các ngầm định nền tảng trong doanh
    nghiệp là điều hết sức khó khăn, nhưng ngược lại để giải quyết tận gốc rễ các vấn đề
    văn hóa của doanh nghiệp là phải giải quyết, thay đổi được các ngầm định nền tảng.
    Chẳng hạn, có một giả định rằng để hoàn tất thủ tục hành chính một cách nhanh gọn thì
    phải hối lộ quan chức nhà nước, và thực tế cũng đã chứng minh điều ấy và qua thời gian
    đủ dài nó trở thành những ngầm định nền tảng, cứ làm thủ tục hành chính là phải chi tiền
    hối lộ, doanh nghiệp mặc nhiên thừa nhận khoản chi phí không có hóa đơn này, tạo lập
    một tập tính không tốt trong công tác kinh doanh. Nhưng để thay đổi ngầm định đòi hỏi
    nhiều yếu tố như là sự thay đổi về thủ tục hành chánh, đạo đức của cán bộ nhà nước, văn
    hóa kinh doanh lành mạnh của doanh nghiệp, tôn trọng luật lệ v.v…

  12. 12
    Những giá trị,

    ngầm định nền tảng là khó thấy nhƣng nó đóng vai trò rất
    quan trọng đối với nhân viên doanh nghiệp trong việc nhận thức văn hóa doanh
    nghiệp. Nó chi phối hành động của nhân viên. Đây là những giá trị văn hóa cấp cao, văn
    hóa chìm còn những thực thể hữu hình là giá trị văn hóa cấp thấp, văn hóa nổi.
    Như vậy Văn hoá doanh nghiệp không phải là những khẩu hiệu của ban lãnh
    đạo được treo trước cổng, trên hành lang hay trong phòng họp. Đó chỉ là ý muốn, ý
    tưởng. Những gì chúng ta mong muốn có thể rất khác với những giá trị, niềm tin,
    chuẩn mực được thể hiện trong thực tế và trong hành vi của mỗi thành viên.
    iii. Cách vận hành của văn hóa doanh nghiệp
    Các cấp độ của Văn hóa doanh nghiệp có quan hệ tƣơng hỗ với cách thức mà
    một doanh nghiệp vận hành bao gồm: phong cách ứng xử, mô hình doanh nghiệp, ra
    quyết định và phong cách làm việc. Mô hình dưới đây thể hiện mối liên hệ đó.
    Bên phải mô hình là văn hoá doanh nghiệp dưới dạng quan sát “thấy” được. Còn
    bên trái là các “phương tiện” để văn hoá doanh nghiệp thể hiện ra ngoài. Các quan hệ
    được lý giải như sau:
    Phong cách
    ứng xử
    Ra quyết định
    Mô hình
    truyền thống
    Phong cách
    làm việc
    Các ngầm định
    nền tảng
    Các giá trị được
    thể hiện
    Vật thể hữu
    hình
    (5) Các giá trị được chấp nhận và
    dần trở thành ngầm định
    (6) Quyết định
    (3) Các giá trị mà lãnh đạo muốn
    đưa vào
    (4) Các giá trị không phù hợp 
    phải thay đổi
    (1) Ảnh hưởng
    (2) Ảnh hưởng

  13. 13
    (1) Các vật

    thể hữu hình (như văn phòng, bàn ghế, tài liệu…) là môi trường mà
    nhân viên làm việc. Chúng là nhân tố duy trì và có ảnh hưởng trực tiếp lên phong cách
    làm việc, cách ra quyết định, phong cách giao tiếp và đối xử. Ví dụ: điều kiện làm việc
    tốt hơn thì việc giao tiếp cũng sẽ thuận lợi hơn…
    (2) Ngược lại phong cách làm việc, ra quyết định, giao tiếp và đối xử có ảnh
    hưởng trở lại đối với những vật thể hữu hình. Phong cách làm việc chuyên nghiệp phải
    được trang bị những công cụ làm việc hiện đại phù hợp. Giao tiếp chủ yếu bằng e-mail
    thì cần một hệ thống máy vi tính nối mạng thông suốt…
    (3) Các giá trị được thể hiện được chia thành hai thành phần. Thành phần thứ nhất
    là các giá trị tồn tại một cách tự nhiên khách quan. Một số trong các giá trị đó được coi là
    đương nhiên chúng ta gọi đó là các ngầm định nền tảng. Thành phần thứ hai là các giá trị
    chưa được coi là đương nhiên và các giá trị mà lãnh đạo mong muốn đưa vào doanh
    nghiệp mình. Những giá trị được các thành viên chấp nhận thì sẽ tiếp tục được duy trì
    theo thời gian và dần dần ăn sâu vào tiềm thức mỗi thành viên. Sau một thời gian đủ lớn
    thì các giá trị này trở thành các ngầm định theo mối quan hệ (6).
    (4) Tuy nhiên, con người đặc biệt là các nhân viên cấp thấp rất nhạy cảm với sự
    thay đổi môi trường làm việc và các giá trị mà lãnh đạo đưa vào. Thông thường sự thay
    đổi này thường bị từ chối khi nhân viên cảm thấy không an toàn. Các giá trị không được
    nhân viên thực hiện sẽ phải thay đổi hoặc loại bỏ khỏi danh sách các giá trị cần đưa vào.
    (5) Một khi các giá trị được kiểm nghiệm qua phong cách làm việc, quyết định,
    giao tiếp, đối xử nếu các giá trị đó là phù hợp và dần dần ăn sâu vào tiềm thức mỗi thành
    viên và được coi là đương nhiên thì nó sẽ trở thành ngầm định. Và đến đây việc đưa một
    giá trị mong muốn vào doanh nghiệp thành công.
    (6) Các ngầm định thường khó thay đổi và ảnh hưởng rất lớn đến phong cách làm
    việc, quyết định, giao tiếp và đối xử. Sự ảnh hưởng của các ngầm định nền tảng còn lớn
    hơn rất nhiều so với sự ảnh hưởng của các giá trị được thể hiện.
    Ví dụ: Một doanh nghiệp muốn tất cả nhân viên của mình đều làm việc đúng giờ.
    Ban đầu có thể sẽ có một số người phản đối. Các biện pháp khuyến khích, ép buộc được
    thực hiện một cách thích hợp sẽ tạo ra một nề nếp (mặc dù có đôi chút ép buộc). Theo

  14. 14
    thời gian, việc

    làm việc đúng giờ dần trở thành thói quen. Cho đến khi nó trở thành phản
    xạ tự nhiên, ăn sâu vào tiềm thức và mọi người cảm thấy hãnh diện vì điều đó. Lúc đó giá
    trị này đã trở thành ngầm định. Các nhân viên mới vào doanh nghiệp cũng thấy ngay
    phong cách làm việc đúng giờ, hòa mình theo để thể hiện mình là thành viên của doanh
    nghiệp.
    Hiểu được mô hình trên mới có thể xây dựng được Văn hóa doanh nghiệp mà
    mình mong muốn.
    1.1.2. Mối quan hệ giữa Văn hóa doanh nghiệp và văn hóa dân tộc
    Văn hóa dân tộc có ý nghĩa quyết định to lớn đối với Văn hóa doanh nghiệp.
    Bởi vì doanh nghiệp là một tế bào của xã hội, trong đó bao gồm những cá nhân đồng thời
    là thành viên của xã hội, dân tộc nơi doanh nghiệp tồn tại. Những con người của doanh
    nghiệp trước khi trở thành những thành viên của doanh nghiệp, đều được nuôi dưỡng,
    thấm nhuần văn hóa dân tộc nơi mình sinh ra và lớn lên.
    Văn hóa dân tộc sẽ giúp hình thành nên bản sắc văn hóa riêng, đặc thù cho
    Văn hóa doanh nghiệp. Người Trung Quốc với tính cộng đồng cao nên đặc thù của Văn
    hóa doanh nghiệp Trung Quốc cũng là tính cộng đồng, liên kết, hợp tác lẫn nhau cao.
    Người Hàn Quốc với sự cần cù, quyết tâm nên họ được mệnh danh là những người Đức
    của Châu Á, trong kinh doanh họ rất quyết tâm đạt bằng được mục tiêu đặt ra.
    Hiểu được mối quan hệ giữa văn hóa dân tộc và văn hóa doanh nghiệp càng có ý
    nghĩa to lớn trong thời đại ngày nay, khi hội nhập kinh tế ngày càng rộng rãi và các
    quốc gia trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc trở thành trung tâm
    của sự chú ý, ngày càng trở nên quan trọng đối với doanh nghiệp, đặc biệt là trong các
    tập đoàn đa quốc gia có hoạt động trên khắp thế giới. Sự khác biệt giữa các quốc gia hay
    nói cách khác văn hóa dân tộc có ảnh hưởng quan trọng đến việc đoán biết hành vi ứng
    xử của những tổ chức ở các quốc gia khác nhau.
    Một câu hỏi đặt ra với các công ty đa quốc gia là liệu văn hóa dân tộc có mâu
    thuẫn với văn hóa doanh nghiệp không? Liệu IBM ở Đức thể hiện văn hóa dân tộc Đức
    hơn là văn hóa của tập đoàn IBM.

  15. 15
    Những nghiên cứu

    chỉ ra rằng văn hóa dân tộc tác động đến nhân viên lớn hơn
    văn hóa doanh nghiệp. Nhà lãnh đạo người Đức, nhân viên Đức, công ty IBM ở Đức sẽ
    chịu ảnh hưởng lớn bởi văn hóa Đức hơn là văn hóa của IBM. Và khi có mâu thuẫn giữa
    văn hóa dân tộc và Văn hóa doanh nghiệp thì hoặc là văn hóa dân tộc sẽ thắng thế hoặc là
    doanh nghiệp đó không được thừa nhận tại quốc gia đó.
    Một trong những ví dụ điển hình về việc giải quyết mối quan hệ giữa Văn hóa
    doanh nghiệp và văn hóa dân tộc là trong việc thuê mƣớn nhân viên. Công ty IBM ở
    Đức sẽ ít quan tâm đến việc tuyển dụng một người Đức kiểu mẫu để làm cho IBM ở Đức,
    mà là tìm một người Đức mà bản thân họ phù hợp với phong cách làm việc của IBM nói
    chung. Như thế thì việc giải quyết mâu thuẫn giữa văn hóa dân tộc và Văn hóa doanh
    nghiệp trở nên đơn giản hơn.
    Một ví dụ khác làm sáng tỏ hơn về mối quan hệ này là tính cách chung của một
    dân tộc quyết định xu hƣớng nghề nghiệp của dân tộc đó và tác động đến doanh
    nghiệp đặt ở dân tộc đó. Một người Đức mà có nhu cầu tự trị cao thì thường thích đầu
    quân cho Olivetti hơn là IBM, bởi vì văn hóa của Olivetti thì không quá kiểu cách và tự
    do hơn rất nhiều so với IBM. Hơn nữa Olivetti thích tuyển dụng những cá nhân có tính
    cách không chần chừ, chấp nhận rủi ro cao và sáng tạo – những phẩm chất mà một công
    ty IBM hoạt động ở Đức không ưa thích.
    Như vậy, văn hóa dân tộc góp phần tạo nên bản sắc riêng cho doanh nghiệp và
    doanh nghiệp khi xâm nhập vào các quốc gia khác nhau phải tìm hiểu văn hóa dân
    tộc và điều chỉnh Văn hóa doanh nghiệp mình phù hợp thì mới có thể thành công ở
    quốc gia đó.
    1.1.3. Văn hóa doanh nghiệp trong một tập đoàn đa quốc gia
    Trong một tập đoàn đa quốc gia, văn hoá doanh nghiệp của một công ty con
    thường bao gồm văn hoá chính thống của tập đoàn đa quốc gia và văn hoá thành phần
    gắn liền với văn hoá của xã hội nơi công ty tồn tại.
    Văn hóa chính thống là những giá trị cốt lõi của tập đoàn được chia xẻ bởi đại đa số
    các thành viên. Người ta sẽ nghĩ ngay đến những giá trị văn hóa này khi nói về doanh nghiệp
    đó, giúp phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, BP ở khắp nơi trên

  16. 16
    thế giới đều

    nổi tiếng với phương châm bảo vệ môi trường nơi mình hoạt động, Wal-mart
    với phong cách chăm sóc khách hàng ân cần, chu đáo…
    Văn hóa thành phần là những giá trị văn hoá được chia sẽ trong từng chi nhánh,
    bộ phận, nhóm gắn liền và phụ thuộc vào văn hoá chính thống và văn hoá xã hội nơi
    mình tồn tại. Văn hoá thành phần có thể làm yếu và làm xói mòn văn hoá doanh nghiệp
    nếu nó mâu thuẫn với văn hoá chính thống.
    Để thành công thì hai hình thức văn hóa này không thể tách biệt, hoặc tồn tại riêng
    lẻ, đối kháng mà phải có mối quan hệ tƣơng trợ nhau. Trong đó giá trị văn hóa chính
    thống phải mang tính chất chi phối văn hóa thành phần. Có như vậy mới có thể tạo nên
    hình ảnh, bản sắc riêng của tập đoàn đa quốc gia dù ở bất kỳ đất nước nào, cũng như hỗ
    trợ đắc lực cho quá trình ra quyết định, thực hiện những chiến lược, những thay đổi của
    tập đoàn đa quốc gia trong môi trường đầy rẫy cạnh tranh, đòi hỏi tính kịp thời và chính
    xác như ngày nay.
    1.2 LỢI ÍCH CỦA VIỆC XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
    Có những doanh nghiệp đánh giá thấp vai trò của văn hóa, trong những năm đầu
    thành lập, cứ loay hoay với những chiến lược về vốn, về sản phẩm, phân phối mà quên đi
    việc xác định cho doanh nghiệp những định hướng, kim chỉ nam cho tất cả các hành
    động. Và kết quả là sau vài năm thành lập, họ không biết mình nên phát triển doanh
    nghiệp như thế nào, hoàn toàn mất phƣơng hƣớng như lạc trong rừng rậm với vô số vấn
    đề phải giải quyết, không biết ưu tiên cái nào. Xuất phát điểm của doanh nghiệp sẽ rất
    cao nếu nó đƣợc xây dựng trên nền tảng văn hóa.
    1.2.1. Đối với doanh nghiệp
    Văn hoá doanh nghiệp là một tài sản vô hình của doanh nghiệp, có vai trò to lớn
    trong sự phát triển của doanh nghiệp, là nền tảng, là mục tiêu, là động lực và là hệ điều
    tiết của sự phát triển.
    Giảm xung đột giữa các thành viên và giữa cá nhân & tập thể
    Văn hoá doanh nghiệp là keo gắn kết các thành viên của doanh nghiệp. Nó giúp
    các thành viên thống nhất về cách hiểu vấn đề, đánh giá, lựa chọn và định hướng hành

  17. 17
    động. Khi ta

    phải đối mặt với xu hướng xung đột lẫn nhau thì văn hoá chính là yếu tố
    giúp mọi người hoà nhập và thống nhất.
    Văn hóa doanh nghiệp còn đóng một vai trò then chốt trong việc giải quyết tận
    gốc rễ vấn đề xung đột quyền lợi giữa cá nhân và tập thể. Sự khác nhau giữa mục tiêu
    của doanh nghiệp và cá nhân là vấn đề mang tính nền tảng trong quản lý kinh tế. Tuy
    nhiên nếu văn hóa có thể hướng tất cả các thành viên về mục tiêu chung thì cấp quản lý
    chẳng cần lo lắng cung cấp các giải pháp khuyến khích vật chất, mà bản thân các thành
    viên sẽ tự nguyện, nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu chung.
    Điều phối và kiểm soát:
    Văn hoá doanh nghiệp điều phối và kiểm soát hành vi cá nhân bằng các câu
    chuyện, truyền thuyết; các chuẩn mực, thủ tục, quy trình, quy tắc… Văn hóa doanh
    nghiệp mạnh sẽ góp phần định hướng tốt cho doanh nghiệp trong tất cả các mặt của
    doanh nghiệp như phong cách lãnh đạo, văn hóa kinh doanh, văn hóa chất lượng, văn hóa
    tổ chức. Khi phải ra một quyết định phức tạp, văn hoá doanh nghiệp giúp ta thu hẹp
    phạm vi các lựa chọn phải xem xét.
    Tạo động lực làm việc:
    Văn hóa doanh nghiệp không phải là những qui định cứng nhắc cản trở tính sáng
    tạo của thành viên, ngược lại, những quan niệm chung về giá trị doanh nghiệp và những
    mối quan hệ tốt đẹp giữa các nhân viên mà văn hóa doanh nghiệp mang lại sẽ tạo ra
    một môi trường làm việc thoải mái, lành mạnh, thúc đẩy khả năng đổi mới và sáng tạo
    của nhân viên. Văn hoá doanh nghiệp giúp nhân viên thấy rõ mục tiêu, định hướng và
    bản chất công việc mình làm; giúp nhân viên có cảm giác mình làm công việc có ý nghĩa,
    hãnh diện vì là một thành viên của doanh nghiệp. Điều này càng có ý nghĩa khi tình trạng
    “chảy máu chất xám” đang phổ biến. Lương và thu nhập chỉ là một phần của động lực
    làm việc. Khi thu nhập đạt đến một mức nào đó, người ta sẵn sàng đánh đổi chọn mức
    thu nhập thấp hơn để được làm việc ở một môi trường hoà đồng, thoải mái, được đồng
    nghiệp tôn trọng. Đây là lợi ích quan trọng nhất của văn hóa doanh nghiệp bởi vì không
    có gì quý hơn yếu tố con người trong doanh nghiệp, con người là nhân tố chủ chốt quyết
    định tất cả sự thành bại của doanh nghiệp.

  18. 18
    Lợi thế cạnh

    tranh:
    Tổng hợp các yếu tố gắn kết, điều phối, kiểm soát, tạo động lực… làm tăng hiệu
    quả hoạt động và tạo sự khác biệt trên thị trường. Hiệu quả và sự khác biệt sẽ giúp
    doanh nghiệp cạnh tranh tốt trên thị trường.
    1.2.2. Đối với bên ngoài doanh nghiệp
    Văn hóa doanh nghiệp là bản sắc của doanh nghiệp, là sức hấp dẫn của doanh
    nghiệp đối với khách hàng, các đối tác, cơ quan quản lý, chính phủ; tạo nên thương hiệu
    cho doanh nghiệp giúp phân biệt với các doanh nghiệp khác. Trong thời đại kinh doanh
    ngày nay, các đối tác bên ngoài sẽ trở nên xét nét hơn bất kỳ thời nào so với quá khứ, các
    mối quan hệ dựa vào sự tín nhiệm đối với doanh nghiệp hơn là những cái lợi trƣớc
    mắt. Văn hóa doanh nghiệp giúp củng cố các mối quan hệ với bên ngoài doanh nghiệp
    cũng như là yếu tố thu hút khách hàng, đối tác đến với doanh nghiệp, đặc biệt là khách
    hàng, đối tác cũng có văn hóa lành mạnh. Cụ thể:
    Khách hàng sẽ cảm thấy an tâm, tự hào khi sử dụng những sản phẩm, dịch vụ của
    doanh nghiệp. Họ sẽ trung thành hơn với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp; dễ
    dàng chấp nhận những sản phẩm mới của doanh nghiệp, khó bị lôi kéo bởi các mặt
    hàng thay thế cạnh tranh khác của đối thủ. Hơn nữa, họ có thể là những người tuyên
    truyền, quảng cáo đáng tin cậy nhất của doanh nghiệp.
    Các đối tác sẽ tự tin hơn khi giao dịch với doanh nghiệp và họ có thể đưa ra những
    mức giá ưu đãi, cùng doanh nghiệp vào sinh ra tử trong những lúc khó khăn, giữ vững
    những cam kết với doanh nghiệp…
    Cơ quan quản lý, chính phủ khi tiếp xúc với cách doanh nghiệp mà văn hóa của họ
    đã được minh chứng theo thời gian thì sẽ cảm thấy tin tưởng hơn ở doanh nghiệp và
    do đó giảm bớt những thủ tục không cần thiết như là phải làm đối với một doanh
    nghiệp không có thương hiệu. Hơn thế nữa, doanh nghiệp còn nhận được sự ủng hộ,
    hỗ trợ của cơ quan quản lý, chính phủ trong công việc kinh doanh, ví dụ nhận được sự
    hỗ trợ của nhà nước trong việc giới thiệu, xuất khẩu sản phẩm ra thị trường nước
    ngoài.
    1.2.3. Đối với việc xây dựng thƣơng hiệu cho sản phẩm, dịch vụ

  19. 19
    Xây dựng văn

    hóa doanh nghiệp cũng chính là xây dựng thƣơng hiệu cho
    doanh nghiệp và cho sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
    Xây dựng Văn hóa doanh nghiệp đi từ cái gốc xây dựng con người văn hóa cho
    doanh nghiệp – văn hóa tổ chức, xác định văn hóa trong kinh doanh, văn hóa lãnh đạo,
    văn hóa chất lượng…; xác định định hướng, mục tiêu cho sự tồn tại của doanh nghiệp
    cũng như sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Kết tinh của các giá trị văn hóa này tạo ra
    thương hiệu cho sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
    Tùy theo đặc tính của sản phẩm, chiến lược của công ty mà một số doanh nghiệp
    có thương hiệu doanh nghiệp và thương hiệu riêng cho sản phẩm như các nhãn hiệu rượu
    mạnh Henessy, XO, Napoleon đều thuộc hiệp hội Cognac; Công ty Unilever có Dove,
    Omo, Sunsilk, Hazeline v.v… hoặc chỉ có một tên gọi và cũng là tên gọi của công ty cho
    tất cả sản phẩm của mình, ví dụ như Sony có các sản phẩm ti vi, máy nghe nhạc đều
    mang nhãn hiệu Sony; tất cả sản phẩm của công ty Honda như ô tô, xe máy, máy thủy,
    cưa máy… đều mang nhãn hiệu Honda
    Thương hiệu sản phẩm tạo ra vị thế về chất lượng sản phẩm. Người tiêu dùng nhìn
    vào thương hiệu sản phẩm để đánh giá chất lượng sản phẩm, bên cạnh đó thương hiệu
    doanh nghiệp giúp người tiêu dùng đánh giá về mức độ uy tín, đạo đức của doanh nghiệp.
    Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với người tiêu dùng, đối tác, chính phủ có
    văn hóa khi biết rằng họ không tiếp tay cho những doanh nghiệp không có đường lối kinh
    doanh đúng đắn, có thể gây hại cho con người và môi trường.
    Tất cả những vai trò trên của văn hóa doanh nghiệp cuối cùng sẽ giúp doanh
    nghiệp tăng trưởng và phát triển, kết tinh thành lợi nhuận của doanh nghiệp – yếu tố
    quyết định sự sống còn của một doanh nghiệp. Có thể nói khi tất cả những cái khác
    mất đi mà Văn hóa doanh nghiệp vẫn còn thì doanh nghiệp vẫn có cơ hội tồn tại và
    phát triển, nhưng ngược lại nếu văn hóa đã mất thì doanh nghiệp không thể trường
    tồn được. Thành công hay thất bại của doanh nghiệp đều gắn với việc có tạo ra bản
    sắc riêng của Văn hóa doanh nghiệp.
    1.3 XÂY DỰNG, DUY TRÌ VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
    1.3.1. Xây dựng Văn hóa doanh nghiệp

  20. 20
    Xây dựng văn

    hoá doanh nghiệp là một quá trình tổng thể bao gồm nhiều bƣớc liên
    quan. Vậy để xây dựng văn hoá doanh nghiệp một cách tổng thể thì cần theo những bước
    cụ thể nào?
    Có nhiều mô hình được các nhà nghiên cứu đề xuất trong đó mô hình 11 bƣớc của hai
    tác giả Julie Heifetz & Richard Hagberg1
    đã đưa ra những bước đi cụ thể, rõ ràng nhất:
    (1) Tìm hiểu môi trƣờng và các yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược doanh nghiệp trong
    tương lai. Xem xét có yếu tố nào làm thay đổi chiến lược doanh nghiệp trong tương
    lai.
    (2) Xác định đâu là giá trị cốt lõi làm cơ sở cho thành công. Đây là bƣớc cơ bản nhất để
    xây dựng văn hoá doanh nghiệp. Các giá trị cốt lõi phải là các giá trị không phai nhòa
    theo thời gian và là trái tim, linh hồn của doanh nghiệp.
    (3) Xây dựng tầm nhìn mà doanh nghiệp sẽ vươn tới. Tầm nhìn chính là bức tranh lý
    tưởng về doanh nghiệp trong tương lai. Tầm nhìn chính là định hướng để xây dựng
    văn hoá doanh nghiệp. Có thể doanh nghiệp mà ta mong muốn xây dựng hoàn toàn
    khác biệt so với doanh nghiệp hiện đang có.
    (4) Đánh giá văn hóa hiện tại và xác định những yếu tố văn hoá nào cần thay đổi. Sự
    thay đổi hay xây dựng văn hoá doanh nghiệp thường bắt đầu bằng việc đánh giá xem
    văn hoá hiện tại như thế nào và kết hợp với chiến lược phát triển doanh nghiệp. Đánh
    giá văn hoá là một việc cực kỳ khó khăn vì văn hoá thường khó thấy và dễ nhầm lẫn
    về tiêu chí đánh giá. Những ngầm định không nói ra hay không viết ra thì càng khó
    đánh giá. Thường thì con người hoà mình trong văn hoá và không thấy được sự tồn tại
    khách quan của nó.
    (5) Khi chúng ta đã xác định được một văn hoá lý tưởng cho doanh nghiệp mình và cũng
    đã có sự thấu hiểu về văn hoá đang tồn tại trong doanh nghiệp mình. Lúc này sự tập
    trung tiếp theo là làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giữa những giá trị chúng ta
    hiện có và những giá trị chúng ta mong muốn.
    (6) Xác định vai trò của lãnh đạo trong việc dẫn dắt thay đổi văn hóa. Lãnh đạo đóng
    vai trò cực kỳ quan trọng cho việc xây dựng văn hoá. Lãnh đạo là người đề xướng và
    1
    Trích dẫn từ bài viết “Xây dựng văn hoá doanh nghiệp” của TS Phan Quốc Việt & Ths Nguyễn Huy Hoàng

  21. 21
    hướng dẫn các

    nỗ lực thay đổi. Lãnh đạo chịu trách nhiệm xây dựng tầm nhìn, truyền
    bá cho nhân viên hiểu đúng, tin tưởng và cùng nỗ lực để xây dựng. Lãnh đạo cũng
    đóng vai trò quan trọng trong việc xua tan những mối lo sợ và thiếu an toàn của nhân
    viên.
    (7) Khi khoảng cách đã được xác định thì việc tiếp theo là soạn thảo một kế hoạch hành
    động bao gồm các mục tiêu, hoạt động, thời gian, điểm mốc và trách nhiệm cụ thể.
    Cái gì là ưu tiên? Đâu là chỗ chúng ta cần tập trung nỗ lực? Cần những nguồn lực gì?
    Ai chịu trách nhiệm về những công việc cụ thể? Thời hạn hoàn thành?
    (8) Phổ biến nhu cầu thay đổi, kế hoạch hành động và động viên tinh thần, tạo động lực
    cho sự thay đổi. Sự thay đổi sẽ ảnh hưởng đến đời sống nhân viên. Họ cần được biết
    sự thay đổi đó đem lại điều tốt đẹp cho họ. Sự động viên, khuyến khích sẽ dễ dàng
    hơn khi mọi người được biết vai trò của mình là đóng góp và xây dựng tương lai
    doanh nghiệp.
    (9) Nhận biết các trở ngại và nguyên nhân từ chối thay đổi và xây dựng các chiến lược
    để đối phó. Lôi kéo mọi người ra khỏi vùng thoải mái của mình là một công việc rất
    khó. Vì vậy người lãnh đạo phải khuyến khích, động viên và chỉ cho nhân viên thấy
    lợi ích của họ tăng lên trong quá trình thay đổi.
    (10) Thể chế hóa, mô hình hóa và củng cố sự thay đổi văn hóa. Các hành vi, quyết
    định của lãnh đạo phải thể hiện là mẫu hình cho nhân viên noi theo và phù hợp với
    mô hình văn hoá đã xây dựng. Trong giai đoạn này các hành vi theo mẫu hình lý
    tưởng cần được khuyến khích, động viên. Hệ thống khen thưởng phải được thiết kế
    phù hợp với mô hình xây dựng văn hoá doanh nghiệp.
    (11) Tiếp tục đánh giá Văn hóa doanh nghiệp và thiết lập các chuẩn mực mới về không
    ngừng học tập và thay đổi. Văn hoá không phải là bất biến vì vậy khi ta đã xây dựng
    được một văn hoá phù hợp thì việc quan trọng là liên tục đánh giá và duy trì các giá
    trị tốt, truyền bá những giá trị đó cho nhân viên mới.
    Trong tất cả 11 bước của mô hình, ngƣời lãnh đạo đóng vai trò quyết định. Họ
    có thể là người trực tiếp đánh giá văn hóa doanh nghiệp, người đưa ra những giá trị văn
    hóa họ mong muốn vào trong tổ chức hoặc họ có thể đóng vai trò lãnh đạo tập thể trong

  22. 22
    từng bước xây

    dựng của mô hình. Việc thành công hay thất bại của việc xây dựng văn
    hóa doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất, phong cách, năng lực của nhà
    lãnh đạo. Nếu phẩm chất, phong cách lãnh đạo phù hợp với triết lý hoạt động và hệ
    thống giá trị của tổ chức, năng lực lãnh đạo của họ cao họ sẽ thực hiện thành công vai trò
    của mình. Ngoài ra, việc các thành viên trong doanh nghiệp lĩnh hội các giá trị đến đâu
    còn tùy thuộc vào sức mạnh chuẩn mực của giá trị, sự hòa hợp giữa các tổ chức trong
    doanh nghiệp, hiệu quả của việc truyền đạt các giá trị.
    Như vậy, xây dựng văn hoá doanh nghiệp không đơn thuần là liệt kê ra các giá
    trị mong muốn của nhà lãnh đạo rồi treo lên tường thành những qui định mà là làm
    sao để hòa những qui định này vào trong mọi hành động của doanh nghiệp và trong
    mọi hoàn cảnh, lúc thịnh vượng cũng như lúc khó khăn. Quá trình này không những
    đòi hỏi vai trò dẫn dắt của nhà lãnh đạo mà còn đòi hỏi sự hỗ trợ, nỗ lực, đồng tâm và
    kiên trì của tất cả nhân viên thì mới có thể thành công được.
    1.3.2. Duy trì và phát huy Văn hóa doanh nghiệp
    Văn hóa được định nghĩa là những bản sắc do con người tạo ra nên việc duy trì và
    phát huy Văn hóa doanh nghiệp cũng phụ thuộc rất lớn vào yếu tố con người, doanh
    nghiệp cần chú ý một số vấn đề sau trong công tác tuyển dụng, đào tạo nhân viên; phẩm
    chất của nhà lãnh đạo và trong việc lưu giữ những đặc trưng văn hóa.
    Tuyển dụng: như những phân tích ở trên, văn hóa dân tộc, tính cách tồn tại trong
    mỗi cá nhân ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hòa nhập văn hóa của doanh nghiệp. Tốt
    hơn hết là doanh nghiệp nên chọn những nhân viên mà tính cách của họ phù hợp với
    văn hóa doanh nghiệp. Rõ ràng, một cá nhân ưa thích sự trật tự, điềm đạm, ổn định thì
    khó có thể hòa hợp được trong môi trường doanh nghiệp đòi hỏi sự năng động, nhanh
    nhẹn, chấp nhận mạo hiểm.
    Đào tạo: không một nhân viên mới nào có thể thích ứng ngay được với Văn hóa
    doanh nghiệp cho dù những tính cách của họ có thể đã rất phù hợp với Văn hóa doanh
    nghiệp. Như đã phân tích ở mục 1.1.1, Văn hóa doanh nghiệp bao gồm ba thành phần là
    vật thể hữu hình, giá trị thể hiện và những ngầm định nền tảng. Nhân viên mới cần được
    đào tạo, hƣớng dẫn rõ ràng cụ thể về những đặc trưng văn hóa thông qua những vật thể

  23. 23
    hữu hình và

    những giá trị thể hiện của doanh nghiệp. Những ngầm định nền tảng chỉ có
    thể có được khi nhân viên đó thật sự hòa nhập vào môi trường doanh nghiệp lúc đó tự
    động họ sẽ vận dụng những ngầm định nền tảng trong những hành động của mình. Cẩm
    nang về nguyên tắc, triết lý, phương châm hoạt động của doanh nghiệp là rất hữu ích cho
    việc đào tạo này. Những buổi tiếp xúc, trò chuyện với ban lãnh đạo, bộ phận nhân sự, bộ
    phận chuyên môn sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn những khúc mắc xung quanh Văn hóa
    doanh nghiệp.
    Phẩm chất của người lãnh đạo: đây là yếu tố then chốt trong việc duy trì và phát
    huy văn hóa doanh nghiệp. Nhà lãnh đạo – những người lái tàu của con tàu doanh nghiệp
    phải thật sự là những người không những thấm nhuần văn hóa doanh nghiệp mà phải là
    những người có khả năng đưa ra những định hướng phù hợp về Văn hóa doanh nghiệp
    từng thời kỳ; có tố chất, tính cách phù hợp với Văn hóa doanh nghiệp mà doanh nghiệp
    hướng tới. Mẫu người lãnh đạo ưa thích quyền lực cá nhân thì không thể lãnh đạo một tập
    thể dân chủ, tôn trọng sự tự do cá nhân.
    Lưu giữ những đặc trưng Văn hóa doanh nghiệp: việc duy trì những bản sắc
    tiên tiến được kế thừa của văn hóa doanh nghiệp cũng không thể thành công trọn vẹn nếu
    có những lệch lạc trong việc hiểu biết văn hóa doanh nghiệp. Lưu giữ những cuốn cẩm
    nang, những ghi chép trung thực về đặc trưng Văn hóa doanh nghiệp là điều cần thiết để
    duy trì Văn hóa doanh nghiệp, đặc biệt là đối với doanh nghiệp thường xuyên có sự thay
    đổi to lớn, đột ngột của những nhà quản lý.
    Văn hóa hình thành theo thời gian, là yếu tố không dễ gì thay đổi nhanh chóng,
    doanh nghiệp thừa nhận những giá trị văn hóa khi những giá trị văn hóa đó đã chứng
    minh được sự thành công trong quá khứ. Việc duy trì văn hóa là quan trọng trong sự
    thành công tiếp tục của doanh nghiệp trong tương lai, tuy nhiên doanh nghiệp cần
    phải luôn xem xét những giá trị văn hóa nào nên tiếp tục được duy trì, phát huy trong
    bối cảnh hiện tại cũng như những giá trị văn hóa nào không còn phù hợp, cản trở cho
    sự phát triển của doanh nghiệp thì cần phải thay đổi, loại trừ. Có như thế mới đảm
    bảo sự thành công lâu dài của doanh nghiệp. Văn hóa có ý nghĩa kế thừa và phát huy
    chứ không có nghĩa là vĩnh cửu.

  24. 24
    1.4 MỘTSỐGƢƠNGXÂYDỰNGTHÀNHCÔNGVĂNHÓADOANHNGHIỆP
    Trong nhiều

    lý giải cho sự thịnh vượng và phát triển lâu dài của các doanh nghiệp
    ở Mỹ hay ở Nhật, các nhà nghiên cứu đều có chung một tổng kết là do các doanh nghiệp
    đó có nền văn hóa doanh nghiệp vững mạnh. Sau đây là đặc trưng văn hóa doanh nghiệp
    của 2 tập đoàn nổi tiếng thế giới (Johnson & Johnson và Honda) và một điển hình ở Việt
    Nam (công ty Unilever Việt Nam).
    1.4.1. Tập đoàn Johnson & Johnson Mỹ
    Jonhson & Johnson (vt-J&J) là tập đoàn dẫn đầu thế giới về những sản phẩm
    chăm sóc sức khỏe cũng như cung cấp những dịch vụ liên quan cho người tiêu dùng,
    công ty dược, dụng cụ y tế và lĩnh vực chẩn đoán bệnh. J&J được thành lập vào năm
    1885 bởi hai anh em nhà Johnson, Robert Wood Johnson và Edward Mead Johnson tại
    New Brunswick, New Jersey, Hoa Kỳ. J&J là công ty tiên phong, phát minh ra băng y tế
    tiệt trùng; bộ sản phẩm phấn thơm, sữa tắm… cho trẻ em nổi tiếng trên thế giới cho đến
    ngày nay. Băng y tế BAND-AID® Brand Adhesive đến nay đã xuất xưởng trên 100 tỷ
    chiếc, với phát minh này vào năm 1920, J&J đã đóng góp đáng kể vào việc giảm thương
    vong vì những nguy cơ nhiễm trùng. Công ty cũng dẫn đầu thế giới về sản phẩm mắt
    kính sát tròng. BAND-AID® Brand Adhesive cũng trở thành nhãn hiệu nổi tiếng nhất
    của công ty. J&J xếp vị trí thứ 6 trong danh sách những công ty được ngưỡng mộ nhất
    của tạp chí Fortune năm 2006 và đứng thứ 32 trong danh sách 500 công ty nổi tiếng nhất
    thế giới của Fortune năm 2006, xếp hạng 26 trên 50 công ty thành công nhất của tạp chí
    Business Week năm 2006. Trong ngành y dược công ty luôn ở vị trí số 1 trong những
    khảo sát hàng năm về các công ty trong lĩnh vực này. J&J cũng dẫn đầu cuộc bầu chọn
    công ty uy tín nhất nƣớc Mỹ trong liên tiếp 7 năm kể từ khi cuộc khảo sát bắt đầu.
    Đâu là những yếu tố đứng đằng sau những thành công của J&J. Đó chính là bản
    sắc văn hóa vì cộng đồng của J&J. Điều này phần nào được thể hiện qua sự tiên phong
    tìm ra những phát minh mới có ích cho xã hội của những nhà sáng lập J&J khi đứng
    trước những nguy cơ hiểm họa bệnh tật của con người. Bản sắc văn hóa này còn được cụ
    thể hóa trong một trang giấy gọi là “Các giá trị” (Credo) của công ty mà đã tồn tại hơn

  25. 25
    60 năm. Các

    giá trị này hướng dẫn công ty trong tất cả các hành động nhằm hoàn thành
    sứ mệnh của mình đối với khách hàng, nhân viên, cộng đồng và cổ đông. Những giá trị
    này được chia xẻ cho toàn bộ 230 công ty nhỏ của J&J và được chính thức dịch ra 36 thứ
    tiếng. Sau đây là bảng các giá trị của J&J được tạm dịch:
    CÁC GIÁ TRỊ
    Chúng ta tin tƣởng rằng trách nhiệm đầu tiên của chúng ta là đối với bác sỹ, y
    tá, bệnh nhân, đối với cha, mẹ và tất cả những người đã sử dụng sản phẩm và dịch vụ
    của chúng ta. Để đáp ứng những nhu cầu đó, mọi điều chúng ta làm phải đạt đƣợc chất
    lượng cao. Chúng ta phải liên tục cải tiến chi phí để có thể duy trì giá cả thích hợp.
    Những đơn đặt hàng của khách hàng phải đƣợc phục vụ một cách nhanh chóng và
    chính xác. Những nhà cung cấp và nhà phân phối của chúng ta phải đƣợc hƣởng
    những lợi nhuận thích hợp.
    Chúng ta có trách nhiệm với nhân viên, tất cả những ngƣời làm việc với chúng ta
    trên toàn thế giới. Mỗi ngƣời đều phải đƣợc xem nhƣ những cá nhân độc lập. Chúng ta
    tôn trọng chân giá trị của mỗi ngƣời, và ghi nhận công lao của họ. Họ phải có đƣợc cảm
    giác an toàn trong công việc. Những bồi thƣờng phải công bằng và hợp lý. Điều kiện
    làm việc phải gọn gàng, sạch sẽ và an toàn. Chúng ta phải nhiệt tâm giúp đỡ nhân viên
    hoàn thành trách nhiệm của họ đối với gia đình. Nhân viên phải đƣợc tự do đóng góp ý
    kiến cũng nhƣ phàn nàn về những điều chƣa hợp lý. Họ phải đƣợc công bằng trong công
    việc, và đƣợc bồi dưỡng phát triển hơn nữa. Chúng ta phải có những nhà quản lý tốt, tất
    cả những quyết định của họ phải công bằng và đạo đức.
    Chúng ta phải có trách nhiệm với cộng đồng nơi chúng ta hoạt động cũng nhƣ
    đối với toàn thế giới. Chúng ta phải là những ngƣời công dân tốt, hỗ trợ việc làm và từ
    thiện cũng nhƣ đóng thuế đầy đủ. Chúng ta phải khuyến khích những cải tiến văn minh,
    điều kiện sức khỏe và giáo dục ngày càng tốt hơn. Chúng ta phải bảo đảm tài sản chúng
    ta sử dụng cũng nhƣ bảo vệ môi trường, và những nguồn lực thiên nhiên.
    Trách nhiệm cuối cùng của chúng ta là đối với những cổ đông. Công ty phải tạo
    ra lợi nhuận đúng đắn. Chúng ta phải thí nghiệm những ý tưởng mới. Nghiên cứu phải
    đƣợc thực hiện đều đặn, những ý tƣởng hay phải đƣợc phát triển và những sai lầm phải

  26. 26
    đƣợc đền bù.

    Thiết bị mới phải đƣợc mua, tiện ích mới phải đƣợc cung cấp, sản phẩm
    mới phải đƣợc giới thiệu. Phải luôn sẵn sàng các khoản dự trữ cho những thời điểm khó
    khăn, tồi tệ. Khi chúng ta hoạt động theo những nguyên tắc này, các cổ đông sẽ nhận
    đƣợc những lợi ích xứng đáng cho việc đầu tƣ của mình.
    Bảng giá trị thực sự không sáo rỗng, ngắn gọn, súc tích nhƣng rất đầy đủ ý
    nghĩa đối với tất cả nhân viên J&J, không kể đó là bộ phận nhân sự, sản xuất, bán hàng,
    nghiên cứu phát triển…; các chi nhánh hay thành viên J&J… đều nhận biết một cách rõ
    ràng những phương châm hoạt động của J&J và đều tìm thấy trong đó những giá trị mà
    bộ phận mình phải đóng góp, tuân theo nhằm góp phần đạt được mục tiêu chung.
    Hoàn cảnh ra đời của bảng giá trị này cũng rất ý nghĩa, đó là khi công ty vươn ra
    thị trường thế giới. Năm 1935 nghĩa là sau 45 năm thành lập, và sau 16 năm kể từ ngày
    chính thức tiếp cận thị trường thế giới, General Robert Wood Johnson, con trai của người
    sáng lập Robert Wood Johnson đã nảy ra ý tưởng về trách nhiệm của J&J đối với nhân
    viên, khách hàng, cộng đồng và cổ đông, lúc đó ông gọi là “những triết lý kinh doanh
    mới” của công ty. Chỉ cho đến năm 1943, ông mới chính thức viết ra bảng giá trị với
    nhiều chi tiết hơn. Ông khuyến khích các nhà quản lý ứng dụng bảng giá trị này nhƣ
    là một phần triết lý trong hoạt động của họ. Thông thường thì các tuyên bố về giá trị
    được xem là cao vời, xa rời với thực tiễn. Nhưng với cách diễn giải đơn giản, dễ hiểu,
    không màu mè này của General Robert Wood Johnson, những giá trị công ty được chào
    đón và dần dần thấm nhuần vào từng hoạt động của tất cả thành viên công ty. Với việc
    đặt khách hàng làm trách nhiệm đầu tiên của công ty và cổ đông sau cùng, Robert muốn
    thay đổi cách quản lý, tiếp cận vấn đề của J&J bởi ông tin rằng với việc đặt khách hàng
    lên đầu tiên sẽ giúp công ty tồn tại tốt và thực tế 60 năm phát triển của J&J đã minh
    chứng cho điều ấy. Khi viết ra bảng giá trị, Robert Wood Johnson không cho rằng bảng
    giá trị này có giá trị lâu dài, vĩnh cửu; nhưng thực tế nó đã trở thành những giá trị không
    đổi, những nguồn cảm hứng mạnh hơn bao giờ hết cho tất cả thành viên J&J ngày nay.
    Tất cả nhân viên J&J đều nhiệt tình tham gia vào những khảo sát và đánh giá định kỳ
    mức độ thành công trong việc thực hiện những trách nhiệm của công ty được liệt kê trong
    bảng giá trị. Những đánh giá này được phản hồi lên các nhà quản lý cấp cao để có

  27. 27
    những hành động

    chỉnh sửa kịp thời. Bảng giá trị đã ra đời cách đây 60 năm nhưng chân
    lý của nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay cho thấy một tầm nhìn tuyệt vời của J&J.
    Nhằm đảm bảo công ty thực hiện những trách nhiệm của công ty liệt kê trong
    bảng giá trị J&J còn ban hành một số qui định hƣớng dẫn cho những quyết định và
    hành động liên quan. Những qui định bao gồm: Qui định môi trường năng lượng thân
    thiện; Qui định tuyển dụng những nhân viên trẻ; Qui định về những cơ hội phát triển
    ngang nhau cho nhân viên; Hướng dẫn về thuê mướn lao động toàn cầu; Qui định về an
    toàn & sức khỏe; Qui chế thử nghiệm trên động vật; Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu và
    phát triển; Qui tắc kinh doanh; Qui định môi trường toàn cầu;… Những qui định này ứng
    dụng cho tất cả khía cạnh của công ty và xác lập trách nhiệm của công ty đối với khách
    hàng, nhân viên, tất cả chi nhánh J&J trên toàn thế giới.
    1.4.2. Tập đoàn Honda Nhật Bản
    Honda là tập đoàn kinh tế của Nhật Bản chuyên sản xuất và kinh doanh các loại ô
    tô, môtô, máy móc cơ khí động lực. Người sáng lập ra Honda là ông Shuchir Honda.
    Honda được thành lập năm 1946, đến năm 1965 Honda trở thành nhà máy sản xuất xe
    máy số 1 Nhật Bản và thế giới, đến nay Honda vẫn giữ vị trí này.
    Lúc mới bắt đầu kinh doanh Honda định ra phương châm cơ bản của công ty là:
    “không đi sau người khác”, phải sáng tạo ra tiêu chuẩn kỹ thuật hàng đầu thế giới. Với
    phương châm rõ ràng, quyết liệt và táo bạo này, cả công ty dốc sức vào nghiên cứu và
    phát triển kỹ thuật. Honda công khai nêu lên “mục tiêu lý tưởng của Honda là cả thế
    giới” và giáo dục cho viên chức toàn công ty cần phải phấn đấu cho mục tiêu vĩ đại ấy.
    Năm 1954, Honda đưa sản phẩm của mình đi thi tốc độ với xe máy cao cấp nhất thế giới
    với mục đích là so sánh sản phẩm Honda với các sản phẩm đối thủ khác trên toàn thế
    giới. Lần thi này công ty không đạt thứ hạng cao, nhưng giúp công ty có nhiều kinh
    nghiệm để cải tiến sản phẩm. Năm 1959, công ty tham gia thi đấu lần thứ hai và xếp vị
    thứ 6. Năm 1961, công ty giành được thắng lợi toàn diện từ vị trí thứ nhất đến thứ năm
    với cả 2 loại xe 125 phân khối và 250 phân khối. Thành tích này chứng minh hùng hồn
    cho chất lượng số 1 thế giới của Honda chỉ sau 7 năm thử thách trên thị trường quốc tế
    đồng thời giới thiệu thành công sản phẩm của Honda với thế giới. Nếu năm 1959, Châu

  28. 28
    Âu bán sang

    Mỹ khoảng 80 – 100 ngàn chiếc xe mô tô hai bánh nhưng Nhật Bản chưa
    bán được chiếc nào thì năm 1963, Honda đã xuất khẩu sang Mỹ 126 ngàn chiếc, năm
    1965 tăng lên 440 ngàn chiếc. Đến năm 1983, xe Honda hai bánh chiếm trên 25% thị
    trường toàn cầu, trở thành xí nghiệp xe máy số 1 thế giới, sản lượng của công ty năm này
    đã là 3,66 triệu mô tô hai bánh.
    Ngày nay phương châm của công ty là cam kết đóng góp lâu dài cho cộng đồng
    nơi công ty hoạt động cả về mặt kinh tế lẫn xã hội. Công ty quan niệm rằng, trách nhiệm
    làm cho cộng đồng tốt đẹp hơn cũng quan trọng như việc cung cấp những sản phẩm có
    chất lượng, thỏa mãn cao nhất sự hài lòng của khách hàng. Phương châm của công ty thể
    hiện qua hai thông điệp: “Respect for the Individuals” (Tôn trọng tất cả cá nhân) và
    “The Three Joys” (Ba niềm vui sướng). Những thông điệp này định hướng cho công ty
    cũng như từng thành viên của công ty trong tất cả các hoạt động. Thông điệp “Tôn trọng
    tất cả cá nhân” với 3 yếu tố cơ bản là sự tin tưởng, sự chủ động, sáng tạo và tính công
    bằng thể hiện triết lý của Honda đối với nhân viên. Những triết lý này cũng là phương
    châm cho mối quan hệ với bên ngoài như nhà cung cấp, khách hàng, đối tác, xã hội. Với
    thông điệp “Ba niềm vui sướng”, công ty quan niệm tất cả nhân viên tham gia vào 3 công
    đoạn: mua hàng, sản xuất hàng và bán hàng đều phải cảm thấy vui sướng với công việc.
    Điều này thể hiện cam kết tạo ra môi trường làm việc tốt đẹp nhất cho nhân viên của
    Honda. Công ty định ra tầm nhìn chiến lƣợc (Strategic Vision) là: “Xã hội sẽ tốt đẹp
    hơn với sự hiện diện của Honda”. Nhiệm vụ (Mission) của công ty: “Làm giàu cho xã
    hội, kinh tế, và giáo dục cộng đồng thông qua sự tham gia của tập thể và cá nhân công
    ty”. Mục tiêu cụ thể (Goals) bao gồm: 1. Nhận biết và hồi đáp lại những nhu cầu của xã
    hội; 2. Tìm kiếm sự cảm thông, chia xẻ, cam kết của các đối tác; 3. Đầu tư tương thích
    cho nguồn lực công ty; 4. Tối đa hóa lợi nhuận tiềm năng; 5. Hỗ trợ kế hoạch kinh doanh
    của Honda.
    Tất cả những khẩu hiệu này của công ty giúp định hướng rõ ràng tầm nhìn đối với
    nhân viên cũng như là kim chỉ nam, cơ sở cho tất cả hành động của họ. Tất cả đã tạo nên
    bản sắc văn hóa cho Honda trên thế giới.

  29. 29
    1.4.3. Công ty

    Unilever Việt Nam
    Unilever là tập đoàn toàn cầu của Anh và Hà Lan nổi tiếng thế giới trong lĩnh vực
    sản xuất và kinh doanh các mặt hàng chăm sóc gia đình, cá nhân và thực phẩm.
    Unilever là một trong những công ty đầu tiên tiếp cận thị trường Việt Nam ngay khi mới
    mở cửa vào năm 1995. Công ty luôn đạt mức tăng trưởng 2 chữ số trong hơn 10 năm hoạt
    động qua. Unilever Việt Nam luôn dẫn đầu thị trƣờng các sản phẩm chăm sóc gia đình
    và cá nhân, thực phẩm với thị phần trung bình tất cả các mặt hàng là 60%. Những nhãn
    hiệu nổi tiếng của Unilever tại Việt Nam như: Sunsilk, Dove, Clear, Lifebuoy, Lux,
    Pond’s, Hazeline, Omo, Viso, Comfort, Sunlight, P/S, Close-up, Knorr, Lipton… góp
    phần đáng kể nâng cao chất lƣợng cuộc sống của người dân Việt Nam từ sau khi mở
    cửa, đổi mới kinh tế. Unilver Việt Nam là điển hình của một công ty nước ngoài thành
    công nhất tại Việt Nam, có nhiều đóng góp lớn lao cho cộng đồng. Sau 10 năm hoạt
    động, Công ty được Nhà nước trao tặng huân chương lao động hạng 2 và nhiều danh hiệu
    khác như “công ty của năm”, “doanh nghiệp có phong cách tuyệt vời nhất”,… Với qui
    mô hoạt động lớn, phong cách kinh doanh năng động, tính tiên phong trong kinh doanh,
    Unilever Việt Nam được xem là công ty nước ngoài có ảnh hưởng nhiều đến hoạt động
    kinh tế của các doanh nghiệp ở Việt Nam từ khi mở cửa, đóng góp vào việc nâng cao
    chất lượng thị trường, nâng cao chất lượng môi trường và là nơi đào tạo được rất nhiều
    lao động giỏi, năng động, sáng tạo. Unilever Việt Nam còn được xem là mẫu hình của
    việc kết hợp thành công văn hóa tập đoàn đa quốc gia và văn hóa địa phƣơng, điển
    hình qua việc sáng tạo những sản phẩm mới hiện đại nhưng mang đậm bản sắc Việt Nam
    và rất thành công trên thị trường như: Sunsilk bồ kết, P/S muối, P/S trà xanh, Viso
    chanh…Những hoạt động cộng đồng của công ty cũng được đánh giá rất cao như chương
    trình OMO áo trắng ngời sáng tương lai, P/S bảo vệ nụ cười Việt Nam, những chương
    trình tài trợ trong công tác giáo dục, nhà tình thương cho mẹ liệt sỹ…
    Đạt được tất cả thành quả đó là nhờ “khát vọng không ngừng chiếm lĩnh trái tim và
    lòng tin của ngƣời tiêu dùng Việt Nam, không tự mãn và dùng lại với kết quả có đƣợc, mà
    hƣớng tới tƣơng lai với mức phấn đấu cao hơn…khát vọng thay cho kem đánh răng
    ngƣời ta chỉ nói P/S, thay cho bột giặt ngƣời ta chỉ nói Omo…khát vọng đƣa sản phẩm

  30. 30
    đến với mọi

    miền của đất nƣớc…” (trích lời kêu gọi của Chủ tịch tập đoàn Unilever Việt
    Nam trong Ngày hội Gia đình Unilever Việt Nam); nhờ sự đồng tâm hợp lực của toàn thể
    nhân viên, của tất cả các bộ phận cho mục tiêu chung của công ty: “Hoàn thiện nhu cầu
    sức khỏe và vẻ đẹp của mỗi gia đình Việt Nam”; là sự cụ thể hóa phương châm hành
    động mà đã được hơn 2000 nhân viên Unilever cùng đồng ý xây dựng nên, đó là: 1. Dám
    nghĩ dám làm (Dream it & Do it); 2. Học hỏi mọi nơi, ứng dụng mỗi ngày (Learn
    Everywhere & Apply Everyday); 3. Lên kế hoạch tốt, hành động chính xác (Plan well
    & Do it right the first time); 4. Cùng hỗ trợ, cùng tranh đua (Support Each other &
    Challenge together); 5. Quyết thành công, mừng thắng lợi (Make it Success &
    Celebrate it).
    Với mục tiêu, phương châm hoạt động vừa phù hợp với mục tiêu, phương châm
    hoạt động chung của Unilever toàn cầu, vừa mang bản sắc của dân tộc Việt Nam đã
    nhanh chóng thấm nhuần vào mỗi nhân viên công ty để từ đó hƣớng dẫn mỗi hành
    động của công ty trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của lĩnh vực sản xuất hàng tiêu
    dùng, cũng như trong khát vọng chiếm lĩnh trái tim của mọi người Việt Nam.
    Trên đây chỉ là một số ví dụ về văn hóa doanh nghiệp, qua đó thấy rằng một
    doanh nghiệp thành công là một doanh nghiệp phải tạo được tầm nhìn chiến lược,
    phải tạo ra được mục tiêu chung cho toàn thể nhân viên hướng theo, đồng thời có
    những phương cách để truyền đạt hiệu quả tầm nhìn, phương châm của công ty vào
    mỗi nhân viên, làm sao để nhân viên đón nhận trọn vẹn những giá trị đó, và những
    giá trị đó phải trở thành kim chỉ nam ảnh hưởng lên tất cả nhận thức, suy nghĩ, hành
    động của nhân viên. Có như thế mới phát huy tối đa vai trò của mỗi cá nhân và huy
    động được sức mạnh tập thể nhằm đạt được mục tiêu chung. Đó chính là vai trò to lớn
    của văn hóa doanh nghiệp.

  31. 31
    KẾT LUẬN CHƢƠNG

    1
    Văn hóa doanh nghiệp được hiểu là toàn bộ các giá trị văn hoá được gây dựng nên
    trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp; trở thành các giá trị, các
    quan niệm và tập quán, truyền thống ăn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp; chi phối
    tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên của doanh nghiệp trong việc theo
    đuổi và thực hiện các mục đích.
    Văn hóa doanh nghiệp được biểu hiện ở 3 cấp độ: vật thể hữu hình, các giá trị
    được thể hiện và các ngầm định nển tảng. Để hiểu được văn hóa doanh nghiệp cần phải đi
    sâu tìm hiểu cả 3 cấp độ của văn hóa trong đó quan trọng nhất là các ngầm định nền tảng
    chi phối suy nghĩ, nhận thức và hành động của doanh nghiệp và nhân viên, là nguồn gốc
    của bản chất văn hóa doanh nghiệp. Có mối liên hệ mật thiết giữa 3 cấp độ của văn hóa
    và đồng thời với các phương tiện thể hiện ra của văn hóa: phong cách ứng xử, giao tiếp,
    ra quyết định và phong cách làm việc. Hiểu được mô hình các quan hệ này mới hiểu được
    toàn bộ văn hóa doanh nghiệp và mới có thể xây dựng hay thay đổi thành công văn hóa
    doanh nghiệp.
    Văn hóa dân tộc có ảnh hưởng to lớn đến việc hình thành bản sắc văn hóa riêng,
    đặc thù cho văn hóa doanh nghiệp trong thời đại hội nhập mạnh mẽ ngày nay. Trong các
    tập đoàn đa quốc gia, văn hóa doanh nghiệp bao gồm văn hóa cốt lõi mang tính chất
    thống trị và văn hóa thành phần. Văn hóa thống trị có tính chất quyết định văn hóa của
    tập đoàn, văn hóa thành phần phát triển phù hợp với tính cách dân tộc, vị trí địa lý của
    quốc gia mà tập đoàn đa quốc gia đang hoạt động.
    Văn hóa doanh nghiệp là tài sản vô hình của doanh nghiệp, có vai trò to lớn trong
    sự phát triển của doanh nghiệp, là nền tảng, là mục tiêu, động lực và là hệ điều tiết của sự
    phát triển; là bản sắc, thương hiệu của doanh nghiệp. Xuất phát điểm của doanh nghiệp
    rất cao nếu doanh nghiệp được xây dựng trên nền tảng văn hóa.
    Vai trò, phẩm chất, năng lực của người lãnh đạo là yếu tố quan trọng nhất trong
    việc xây dựng, duy trì và phát huy văn hóa doanh nghiệp. Bên cạnh đó là vai trò, sức
    mạnh của chuẩn mực, các giá trị; sự nỗ lực, đồng thuận của toàn thể nhân viên trong quá
    trình này.
    Xây dựng được văn hóa doanh nghiệp là đã tìm ra được tấm thảm bay thần kỳ cho
    doanh nghiệp.

  32. 32
    CHƢƠNG II. THỰC

    TRẠNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP CỦA
    DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
    2.1 LỊCH SỬ KINH TẾ VIỆT NAM QUA 5 GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
    i. Giai đoạn 1: Kinh tế Việt Nam thời kỳ phong kiến
    Kinh tế thời kỳ tiền phong kiến: (xuất hiện – 179 trước công nguyên)
    Kinh tế thời kỳ nguyên thủy: hoạt động sản xuất trong xã hội về căn bản mang
    tính cộng đồng, được tiến hành trong phạm vi hẹp, không có giao lưu kinh tế. Hoạt động
    kinh tế chịu sự chi phối mạnh mẽ của tự nhiên, hái lượm và trồng trọt giữ vai trò chủ yếu
    trong đời sống kinh tế; chăn nuôi, và thủ công nghiệp xoắn chặt lấy trồng trọt làm thành
    khối kinh tế mang tính tự nhiên. Sự cấu kết này còn kéo dài tới các thời kỳ lịch sử sau
    này phản ánh sự trì trệ trong phát triển kinh tế.
    Kinh tế thời kỳ đầu dựng nước: chăn nuôi và trồng trọt vẫn đóng vai trò chính,
    thủ công nghiệp có những tiến bộ như luyện kim, đúc trống đồng. Bắt đầu có sự giao lưu
    trao đổi mà trống đồng là vật phẩm chủ yếu giữa các miền trong nước và với nước ngoài.
    Giao lưu trao đổi đánh dâú những tiến bộ về kinh tế kỹ thuật của thời đại này.
    Kinh tế thời kỳ phong kiến hóa (179 trước công nguyên – 938)
    Đây là thời kỳ Trung Quốc đô hộ Việt Nam. Nông nghiệp vẫn là nghề chính để
    nuôi sống con người, kinh tế làng xã đã xuất hiện bên cạnh những đồn điền của Nhà nước
    phong kiến ngoại bang. Thủ công nghiệp truyền thống được bảo lưu, đồng thời tiếp thu
    được kinh nghiệm và kỹ thuật sản xuất mới nhờ giao lưu kinh tế với nước ngoài phát
    triển rộng. Thương nghiệp có những chuyển biến đáng chú ý, xuất hiện các chợ địa
    phương, những trung tâm trao đổi dọc biên giới phía Bắc, giao lưu với nước ngoài như
    Ấn Độ, Ả Rập, Ba Tư… Tuy nhiên, chính sách nô dịch, bóc lột, đồng hóa của phong kiến
    Trung Quốc trong suốt thời kỳ này là một trở lực trên con đường phát triển của kinh tế và
    xã hội Việt Nam.
    Kinh tế thời kỳ phong kiến dân tộc tự chủ (938 – 1858):
    Đây là thời kỳ Ngô Quyền chiến thắng trên sông Bạch Đằng đến khi Pháp xâm
    lược Việt Nam. Chính sách kinh tế của Nhà nước là “dĩ nông vi bản”, từ đó đi tới tư

  33. 33
    tưởng “trọng nông

    ức công thương”, công thương nghiệp phát triển trong tình trạng khó
    khăn, không đủ sức tạo ra hướng đi mới cho nền kinh tế và nền kinh tế vẫn kéo dài trong
    trạng thái tự cấp, tự túc. Tầng lớp công thương chuyên nghiệp còn quá ít so với dân cư cả
    nước. Một số triều đại có chủ trương kìm hãm giao lưu kinh tế và mở mang thị trường
    trong nước, thậm chí Nhà nước còn cấm họp chợ vì sợ nông dân tụ tập khởi nghĩa; để
    phòng thủ xâm lăng, nhà nước còn thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng” trong quan hệ
    với nước ngoài. Thương nghiệp rơi vào tình trạng khủng hoảng, bế tắc kéo dài.
    Nói chung tới nửa đầu thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn, nền kinh tế Việt Nam khủng
    hoảng toàn diện, xu thế trì trệ càng rõ nét. Quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời, kìm hãm
    sự phát triển của lực lượng sản xuất và các khuynh hướng tiến hóa của xã hội. Tuy nhiên,
    khác với phương Tây đương thời, ở Việt Nam quan hệ sản xuất mới, lực lượng giai cấp
    mới đại diện cho trào lưu tiến hóa của lịch sử mới nảy sinh manh nha, chưa thực sự được
    hình thành, dẫn đến sự trì trệ khủng hoảng là một tất yếu và đất nước chìm ngập trong
    tình trạng bế tắc.
    ii. Giai đoạn 2: Kinh tế Việt Nam trong thời kỳ thực dân Pháp thống trị (1858 –
    1945)
    Sau thời gian hơn 80 năm đô hộ Việt Nam, tiếng súng và hàng hóa của thực dân
    Pháp đã làm rung chuyển mạnh xã hội phong kiến Việt Nam, làm chuyển biến tính chất
    và trình độ nền kinh tế nước ta.
    Về tính chất của nền kinh tế: nền kinh tế mất dần tính chất phong kiến thuần túy,
    trở thành nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến, trong đó kinh tế đế quốc chiếm vị trí
    thống trị, kinh tế tự cấp tự túc bị thu hẹp, sản xuất hàng hóa phát triển nhưng quan hệ sản
    xuất phong kiến vẫn được duy trì và tồn tại một cách phổ biến. Quá trình Pháp đô hộ Việt
    Nam đã rút ngắn thời kỳ thai ngén và ra đời của thành phần kinh tế tư bản tư nhân và giai
    cấp tư sản Việt Nam. Khi mới hình thành giai cấp tư sản nước ta đã bị Pháp cạnh tranh,
    chèn ép và chỉ có thể hoạt động được trong những khe hở của chử nghĩa tư bản độc
    quyền ngoại quốc.
    Về trình độ phát triển của nền kinh tế: một số nhân tố mới xuất hiện đó là những
    cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực giao thông vận tải, những xí nghiệp công nghiệp quy mô lớn

  34. 34
    sử dụng máy

    móc kỹ thuật tương đối hiện đại của thời bấy giờ, những đồn điền trồng cây
    công nghiệp tập trung với quy mô lớn nhằm mục đích xuất khẩu thu lợi nhuận cao…Các
    công ty của người Pháp đem theo phương thức kinh doanh của nền sản xuất lớn tư bản
    với hiệu quả cao hơn nhiều so với sản xuất nhỏ truyền thống. Tuy nhiên, những chuyển
    biến lớn của kinh tế Việt Nam chủ yếu diễn ra ở các vùng đô thị, còn ở các vùng nông
    thôn rộng lớn, kinh tế ít chịu tác động trực tiếp của phương thức sản xuất tư bản chủ
    nghĩa, nên vẫn bảo lưu gần như nguyên vẹn nền kinh tế phong kiến lạc hậu trong cách
    thức tổ chức sản xuất và canh tác. Ngoại thương đã xuất hiện, nội thương cũng phát triển
    nhưng tất cả chủ yếu nhằm phục vụ mục đích vơ vét lợi nhuận của các công ty tư bản
    Pháp. Trong thời kỳ nay, cũng đã có nhiều tư sản Việt Nam (như Lương Văn Can, Mạc
    Thái Bưởi…) bỏ vốn kinh doanh thương nghiệp – cả nội và ngoại thương, nhưng do thế
    lực yếu về kinh tế, tư sản Việt Nam không thể cạnh tranh được với tư bản Pháp hoặc
    người Hoa trên thị trường, do đó cũng không tồn tại và phát triển được. Công nghiệp tuy
    có sự phát triển nhất định nhưng còn nhỏ bé, chưa đủ sức tạo ra sự thay đổi trong phân
    công lại lao động xã hội, quá trình đô thị hóa diễn ra chậm chạp, dân số và lao động chủ
    yếu vẫn bị cột chặt ở nông thôn và nông nghiệp. Năm 1939, dân số nông thôn vẫn chiếm
    tới 91,3%. Lao động trong nông nghiệp và phần lớn lao động trong công nghiệp vẫn dựa
    vào công cụ thủ công với năng suất thấp. Kinh tế tuy tăng trưởng nhưng không đem lại
    lợi ích cho người dân Việt Nam, đời sống vật chất thiếu thốn, đời sống văn hóa tinh thần
    còn nghèo nàn và nghẹt thở hơn, kết quả là sau 80 năm cai trị của Pháp, 90% nhân dân ta
    bị mù chữ.
    Nền kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc vẫn chưa thoát khỏi tình trạng một nền kinh
    tế nông nghiệp lạc hậu, bị phụ thuộc vào đế quốc, bị kìm hãm không cho tiến lên chủ
    nghĩa tư bản, càng làm cho Việt Nam lạc hậu thêm so với thế giới.
    iii. Giai đoạn 3: Kinh tế Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
    (1945 – 1954) và Mỹ Ngụy (1955 – 1975)
    Đây là thời kỳ 30 năm vừa đấu tranh đánh đuổi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, vừa
    cố gắng xây dựng một nền kinh tế hoàn toàn độc lập, không còn phụ thuộc vào tư bản
    nước ngoài. Nền kinh tế đất nước suốt giai đoạn này bị chi phối bởi nhiều bên và cho

  35. 35
    nhiều mục đích

    khác nhau. Dưới thời kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954),
    chính phủ ta mong muốn xóa giặc đói, kiến thiết nền kinh tế phục vụ kháng chiến, không
    phụ thuộc vào tư bản đế quốc, tự cung tự cấp mọi nhu cầu thiết yếu của kháng chiến và
    dân sinh, tiến tới giành độc lập toàn bộ trước thực dân Pháp. Thực dân Pháp muốn “lấy
    chiến tranh nuôi chiến tranh” muốn đầu tư xây dựng nền kinh tế hiện đại hơn nhưng
    không thực hiện được vì những chính sách phá hoại kinh tế địch của ta. Từ 1955-1975,
    kinh tế đất nước bị chia cắt làm 2 miền, miền Bắc thực hiện cải tạo nền kinh tế, xây dựng
    nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, miền Nam dưới sự chi phối kinh tế theo
    kiểu thực dân kiểu mới của Mỹ Ngụy, theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
    Đặc trưng kinh tế chủ yếu của giai đoạn này vẫn là nền sản xuất nông nghiệp,
    những tàn tích của nền kinh tế thực dân phong kiến đã được xóa bỏ hoàn toàn. Ở miền
    Bắc, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập, chủ yếu mới thiết lập được chế
    độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu: toàn dân và tập thể. Kết quả là
    cuối năm 1975, miền Bắc có 1.357 tổng công ty, xí nghiệp công nghiệp, 17.900 hợp tác
    xã, nông trường quốc doanh2
    . Mặc dù giá trị sản lượng công nghiệp, nông nghiệp tăng
    gấp đôi so với trước chiến tranh nhưng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư không cao, hiệu quả
    kinh tế của sản xuất nông nghiệp thấp kém. Về thương nghiệp, chủ yếu cố gắng phục vụ
    sản xuất, nắm nguồn hàng trong nước, tranh thủ tiếp nhận hàng hóa viện trợ, mạng lưới
    phân phối nội thương được mở rộng với nguyên tắc “Bảo đảm nhu cầu cơ bản, kết hợp
    với phân phối theo lao đông”. Ở miền Nam, nông nghiệp bị suy sụp nghiêm trọng, cơ cấu
    công nghiệp rất què quặt, tăng mạnh những ngành phục vụ trực tiếp cho chiến tranh như
    điện, cơ khí sữa chữa, lắp ráp, bia hơi, nước ngọt; công nghiệp sản xuất máy móc hầu
    như không có, hơn 80% là công nghiệp nhẹ. Thương nghiệp trở thành ngành kinh doanh
    lớn nhất nhưng trở thành “chợ trời” của tư bản nước ngoài, hàng hóa tràn ngập tạo nên
    tính chất phồn vinh giả tạo trong đời sống kinh tế xã hội, nạn đầu cơ, tích trữ phát triển…
    Các xí nghiệp, tập đoàn kinh tế ở miền Nam nói chung không được định hướng tư tưởng
    kinh tế rõ ràng, phục vụ cho những nhu cầu của thực dân mới là chủ yếu.
    2
    Số liệu theo Giáo trình Lịch sử kinh tế Việt Nam, Tài liệu tham khảo số 4

  36. 36
    Nói tóm lại,

    nền kinh tế phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật còn
    nhỏ yếu, đại bộ phận lao động và nhân công còn là thủ công, phân công lao động xã hội
    kém phát triển, năng suất lao động xã hội rất thấp, tình trạnh tổ chức, quản lý kinh tế còn
    thiếu chặt chẽ, việc kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân còn yếu, nền kinh tế bị mất cân
    đối nghiêm trọng.
    iv. Giai đoạn 4: Kinh tế Việt Nam thời kỳ 10 năm đầu sau khi đất nƣớc đƣợc
    thống nhất (1976-1985)3
    Năm 1976, đất nước được thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở
    thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp như ở miền Bắc 20 năm trước.
    Trong thời kỳ này nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, đồng thời
    cũng có nhiều khó khăn, thách thức to lớn. Mục tiêu phát triển kinh tế trong giai đoạn
    1976-1980 là phát triển công nghiệp nặng trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
    nghiệp nhẹ, hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa miền Nam, tiếp tục củng cố quan hệ sản
    xuất xã hội chủ nghĩa theo hướng mở rộng kinh tế quốc doanh và hợp tác xã, tiếp tục xây
    dựng cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Tuy nhiên, nền kinh tế trong giai
    đoạn này tăng trưởng chậm chạp (tổng sản phẩm xã hội năm 1980 tăng 4,2% so với năm
    1976), thậm chí có một số năm giảm sút, ví dụ năm 1979 giảm 2%, năm 1980 giảm 1,4%.
    Nhận thức khuyết điểm sai lầm trong đường lối kinh tế, Đảng đề ra đường lối phát
    triển kinh tế trong thời kỳ 1981-1985 là tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi
    nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội
    chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành
    công nghiệp nặng quan trọng trong cơ cấu công – nông nghiệp hợp lý. Đảng cũng xác
    định trong một thời gian nhất định ở miền Nam còn 5 thành phần kinh tế (quốc doanh,
    tập thể, công tư hợp doanh, cá thể và tư bản tư doanh), nhưng tóm lại vẫn chưa thấy được
    sự cần thiết phải duy trì và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chưa thấy được sự
    cần thiết phải xóa bỏ hẳn cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp mà cơ chế này đã không
    đem lại thành công cho miền Bắc trong suốt 20 năm trước. Trong giai đoạn này, tổng sản
    phẩm xã hội tăng 42,3%, bình quân 7,3%/năm, tuy nhiên trình độ kỹ thuật nói chung còn
    3
    Số liệu theo Giáo trình Lịch sử kinh tế Việt Nam, Tài liệu tham khảo số 4

  37. 37
    lạc hậu, năng

    suất thấp không tương xứng với vốn đầu tư bỏ ra, công suất chỉ ở mức
    50%, công nghiệp nặng còn xa mới đáp ứng được nhu cầu tối thiểu, công nghiệp nhẹ bị
    phụ thuộc 70-80% nguyên liệu nhập khẩu, đại bộ phận lao động xã hội vẫn là lao động
    thủ công, nền kinh tế chủ yếu vẫn còn là sản xuất nhỏ. Một số đặc điểm nổi bật trong các
    ngành kinh tế:
    Ngành nông nghiệp: tập thể hóa nông nghiệp được đẩy đến mức cao nhất và bộc lộ
    rõ những nhược điểm của nó. Tình trạng thất thoát, mất mát, hư hao tài sản cố định, tiền
    vốn trong hợp tác xã rất phổ biến. Mặc dù tăng đầu tư nhưng sản xuất càng kém hiệu quả,
    trên 70% số hợp tác xã nông nghiệp thuộc loại trung bình và yếu kém, nhiều hợp tác xã
    nằm trong tình trạng tan rã. Chế độ khoán 100 ra đời giúp cải tạo giá trị tổng sản lượng
    nông nghiệp năm 1985 đạt 126,9% so với năm 1980, bình quân tăng 4,9%/năm.
    Ngành công nghiệp: chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa áp dụng mạnh mẽ nhằm
    xóa bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, kết quả là số cơ sở công nghiệp tư bản tư doanh
    còn lại ở Miền Nam chiếm khoảng 6% về cơ sở, 5% về số công nhân, còn lại là các hình
    thức xí nghiệp quốc doanh (34%), xí nghiệp công tư hợp doanh (14,5%), xí nghiệp hợp
    tác gia công, đặt hàng (45%). Kết quả cả nước có 3.224 xí nghiệp quốc doanh tăng lên
    70% sản phẩm với năm 1976. Song do thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu,
    bao cấp nên khu vực kinh tế quốc doanh bộc lộ nhiều hạn chế.
    Thương nghiệp: chính sách cải tạo tư sản thương nghiệp với mục đích xóa bỏ ngay
    thương nghiệp tư bản tư doanh và tổ chức lại thương nghiệp nhỏ, chuyển những người
    buôn bán nhỏ sang sản xuất. Thay vào đó là thị trường có tổ chức (mậu dịch quốc doanh
    và hợp tác xã mua bán) được mở rộng đưa tổng mức bán lẻ của thương nghiệp năm 1976
    là 55,8% lên 72,2% vào năm 1985. Nhà nước qui định giá thu mua thóc và các loại nông
    sản khác, qui định giá bán lẻ những hàng hóa thiết yếu, chế độ tem phiếu, chính sách 2
    giá… Phát triển thương nghiệp giai đoạn này là “phân phối có kế hoạch” theo giá cả định
    sẵn không dựa vào nhu cầu thị trường, giá cả thị trường… làm triệt tiêu nền kinh tế hàng
    hóa cung cầu của thị trường. Lạm phát tăng cao, lưu thông phân phối hàng hóa rối ren.
    v. Giai đoạn 5: Kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-đến nay)