Xét nghiệm Gan và Túi mật trong phòng thí nghiệm – Rối loạn về hệ gan và mật – Cẩm nang MSD – Phiên bản dành cho chuyên gia
AFP, một glycoprotein thường được tổng hợp bởi túi noãn hoàng trong phôi và sau đó bởi gan thai nhi, tăng lên ở trẻ sơ sinh và vì thế tăng lên ở người mẹ mang thai. AFP giảm nhanh chóng suốt năm đầu đời, đạt đến giá trị của người trưởng thành (thông thường, < 10 đến 20 ng/mL hoặc < 10 to 20 mg/L tùy thuộc vào phòng thí nghiệm) khi lên 1 tuổi. Tăng AFP, dù nhỏ đến mức nào, cũng cần phải cân nhắc về ung thư biểu mô tế bào gan Ung thư biểu mô tế bào gan Ung thư biểu mô tế bào gan thường xảy ra ở bệnh nhân xơ gan và phổ biến ở các khu vực có lây nhiễm vi-rút viêm gan B và C lan rộng. Triệu chứng và dấu hiệu thường không đặc hiệu. Chẩn đoán dựa… đọc thêm (HCC) nguyên phát. AFP huyết thanh thường tương quan với kích thước khối u, sự biệt hóa và di căn. Do các khối u nhỏ có thể sản xuất ra AFP với nồng độ thấp, giá trị tăng lên chứng tỏ có sự hiện diện của HCC, đặc biệt là khi khối u có đường kính > 3 cm. AFP cũng giúp dự đoán tiên lượng.
Tăng AFP nhẹ cũng xảy ra ở viêm gan cấp tính và mạn tính, có thể phản ánh sự tái tạo gan; đôi khi AFP có thể tăng lên 500 ng/mL trong trường hợp suy gan cấp tính (tối cấp) Suy gan cấp Nguyên nhân thường gặp nhất của suy gan cấp là thuốc và virus viêm gan. Các triệu chứng chính là vàng da, rối loạn đông máu, và bệnh não. Chẩn đoán là lâm sàng. Điều trị chủ yếu là hỗ trợ, một… đọc thêm . Nồng độ AFP cao có thể xảy ra ở vài trường hợp rối loạn khác (ví dụ, u quái ác tính ở phôi thai, u nguyên bào gan ở trẻ em, một số di căn do ung thư đường tiêu hóa, một số ung thư đường mật), nhưng những trường hợp này không thường gặp và thường có thể phân biệt được dựa trên cơ sở lâm sàng và mô bệnh học.
Độ nhạy, độ đặc hiệu, và mức đỉnh của AFP ở những bệnh nhân bị HCC thay đổi theo quần thể, thể hiện có sự khác nhau về các yếu tố như tỷ lệ mắc viêm gan và tính sắc tộc. Ở những vùng có tỷ lệ mắc viêm gan tương đối thấp (ví dụ, Bắc Mỹ, Tây Âu), giá trị cut-off của AFP là 20 ng/mL (20 mcg/L) có độ nhạy từ 39 đến 64% và độ đặc hiệu từ 76 đến 91%. Tuy nhiên, không phải tất cả các HCC đều sản xuất ra AFP. Do vậy, AFP không phải xét nghiệm sàng lọc lý tưởng nhưng có vai trò trong việc phát hiện HCC và có thể được sử dụng để theo dõi đáp ứng với điều trị. Nồng độ vượt quá mức bình thường (> 20 ng/mL [20 mcg/L]), đặc biệt là khi tăng, có khả năng cao là mắc HCC. Ở những bệnh nhân xơ gan có khối và giá trị cao (ví dụ, > 200 ng/mL [200 mcg/L]), giá trị dự đoán là cao. Việc sử dụng kết hợp AFP và siêu âm thường giúp có được sàng lọc đầy đủ.