Bàn về văn hóa giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ của người Việt – Redsvn.net
Có thể nói rằng trong giao tiếp, người Việt Nam có thiên hướng nói đến những nội dung tĩnh (tâm lý, tình cảm, dẫn đến nghệ thuật thơ ca và phương pháp biểu trưng) bằng hình thức động (cấu trúc động từ, ngữ pháp ngữ nghĩa linh hoạt).
Trích từ: Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. – NXB Tp. HCM, 1996/2006
1. Các đặc trưng cơ bản trongvăn hóa giao tiếp của người Việt Nam
Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp. Người Trung Quốc viết chữ “nhân” với nghĩa là “tính người” 仁bằng cách ghép chữ “nhị” với bộ “nhân đứng” tính người bộïc lộ trong quan hệ giữa hai người. Nhà triết học người Đức L. Pheurbach từng viết: “Con người cá thể không chứa bản chất con người trong mình… Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp, trong thể thống nhất giữa con người với con người. Con người để cho mình chỉ là con người theo nghĩa thông thường; còn con người trong giao tiếp với đồng loại, trong sự thống nhất giữa Tôi với Anh mới chính là Thượng đế” (dẫn theo Kagan [1988: 24]).
1.1.Trước hết, xét về THÁI ĐỘ của người Việt Nam đối với việc giao tiếp, có thể thấy đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp, lại vừa rụt rè.
Như đã nói, người Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc lẫn nhau và rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong cộng đồng, chính tính cộng đồng này là nguyên nhân khiến người Việt Nam đặc biệt coi trọng việc giao tiếp.Sự giao tiếp tạo ra mối quan hệ: Dao năng liếc năng sắc, người năng chào năng quen (tục ngữ). Sự giao tiếp củng cố tình thân: Áo năng may năng mới, người năng tới năng thân (tục ngữ). Năng lực giao tiếp được người Việt Nam xem là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá con người, ca dao có câu:
– Vàng thì thử lửa, thử than,
Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời.
– Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên…
Vì coi trọng giao tiếp cho nên người Việt Nam rất thích giao tiếp. Việc thích giao tiếp này thể hiện chủ yếu ở hai điểm:
Từ góc độ của mình, chủ thể giao tiếp, thì người Việt Nam có tính thích thăm viếng. Phàm đã là người Việt Nam, đã thân nhau, thì cho dù hàng ngày có gặp nhau ở đâu, bao nhiêu lần đi nữa, những lúc rảnh rỗi, họ vẫn tới thăm nhau. Thăm viếng nhau đây không còn là nhu cầu công việc mà là biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, có tác dụng thắt chặt thêm quan hệ. Đối với phương Tây, người ta chỉ đi thăm viếng những người mà bình thường mình ít có điều kiện gặp gỡ.
Với đối tượng giao tiếp thì người Việt Nam có tính hiếu khách.Có khách đến nhà, dù quen hay lạ, thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó đến đâu, cũng cố gắng tiếp đón một cách chu đáo và tiếp đãi một cách thịnh tình, dành cho khách các tiện nghi tốt nhất, các đồ ăn ngon nhất: Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi, bởi lẽ Đói năm, không ai đói bữa. GS. Phan Ngọc [1996: 38] nhận xét: “Bạn đi công tác, đến đâu có dân là ở đấy có sự che chở. Người ta nhường cho bạn nơi nào? Gian thờ. Gian nhà được xem là trang trọng nhất. Mà bạn nào giúp đỡ gì cho họ đâu, nào có bà con gì với họ đâu? Họ nghèo thì chịu nghèo, đói thì chịu đói chứ không để cho bạn đói. Tôi có gặp một anh bạn người Đức. Anh ta không sao hiểu được chuyện này. Nếu là ở Đức, vào nhà người ta là rất khó, ngủ lại càng khó, đừng nói ngủ ở nơi trang trọng nhất”. Tính hiếu khách này càng tăng lên khi ta về những miền quê hẻo lánh, những miền rừng núi xa xôi. “Người đàn bà – A. Pazzi[i] [1970: 47] nhận xét – dầu có nhan sắc đến đâu, tài giỏi đến đâu cũng bị người Việt Nam coi là người vợ xấu nết nếu làm mất lòng khách đến thăm nhà, tỏ ra thái độ không mấy lịch thiệp, hoặc là ích kỷ, khó tính đối với bà con, bạn hữu”.
Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại có một đặc tính gần như ngược lại là rụt rè – điều mà những người quan sát nước ngoài hay nhắc đến. Sự tồn tại đồng thời của hai tính cách dường như trái ngược nhau (tính thích giao tiếp và tính rụt rè) này chính là bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị:
Đúng là người Việt Nam xởi lởi, rất thích giao tiếp, nhưng đó là khi thấy mình đang ở trong phạm vi của cộng đồng quen thuộc, nơi tính cộng đồng (liên kết) ngự trị. Còn khi đã vượt ra khỏi phạm vi của cộng đồng, trước những người lạ, nơi tính tự trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam, ngược lại, bao giờ cũng tỏ ra rất rụt rè. Hai tính cách tưởng như trái ngược nhau ấy lại không hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ trong những môi trường khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất. Là biểu hiện cho cách ứng xử linh hoạt của người Việt Nam.
1.2.Xét về QUAN HỆ GIAO TIẾP, nguồn gốc văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm – lấy sự yêu sự ghét – làm nguyên tắc ứng xử trong giao tiếp: Yêu nhau chín bỏ làm mười; Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo…(tục ngữ), và:
– Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau, ghét cả tông ty họ hàng.
– Yêu nhau cau sáu bổ ba,
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.
– Yêu nhau mọi việc chẳng nề,
Dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
(ca dao)
Nếu trong tổng thể, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm nguyên lý chủ đạo nhưng vẫn thiên về âm tính hơn, thì trong cuộc sống, người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi cần cân nhắc giữa tình với lý thì tình được đặt cao hơn lý: Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình (tục ngữ); Đưa nhau đến trước cửa quan, Bên ngoài là lý, bên trong là tình (ca dao)… Vẫn biết rằng tiền của là quý, là quan trọng (Có tiền mua Tiên cũng được – tục ngữ), nhưng người Việt Nam còn biết rõ hơn rằng: Có tình có nghĩa hơn cả của tiền (tục ngữ); Của tiền có có không không, Có tình có nghĩa còn mong hơn tiền (ca dao).
Người Việt Nam luôn nhắc nhở nhau coi trọng tình cảm hơn mọi thứ ở đời. Trong gia đình thì Vợ chồng là nghĩa ở đời, Ai ơi chớ nói những lời thiệt hơn(ca dao). Ngoài xã hội, ai giúp mình một chút gì đều phải nhớ ơn; ai bảo ban mình một tý gì cũng đều tôn làm thầy: Ở Việt Nam, khái niệm “thầy” được mở ra rất rộng – thầy đồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy cúng, thầy bói, thầy địa lý, thầy phù thủy, thầy cãi, thầy rắn (người giỏi về các loại rắn, chữa rắn cắn ở Nam bộ), v.v. và v.v.
1.3.Với ĐỐI TƯỢNG GIAO TIẾP, người Việt Nam có thói quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá… Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng gia đình (bố mẹ còn hay mất, đã có vợ/chồng chưa, có con chưa, mấy trai mấy gái…) là những vấn đề người Việt Nam thường quan tâm. Thói quen ưa tìm hiểu này (hoàn toàn trái ngược với người phương Tây!) khiến cho người nước ngoài có nhận xét là người Việt Nam hay tò mò. Đặc tính này – dù gọi bằng tên gì đi chăng nữa – chẳng qua cũng chỉ là một sản phẩm nữa của tính cộng đồng làng xã mà ra.
Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến người khác, mà muốn quan tâm thì cần biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác, do phân biệt chi ly các quan hệ xã hội, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hô riêng, mà muốn chọn được từ xưng hô cho thích hợp thì cần phải có đủ các thông tin cần thiết về cá nhân người đối thoại.
Tính hay quan sát khiến người Việt Nam có được một kho kinh nghiệm xem tướng hết sức phong phú: chỉ cần nhìn vào cái mặt, cái mũi, con mắt… là đã biết được tính cách con người. Chẳng hạn, riêng về xem người qua con mắt đã có các kinh nghiệm như:
– Trên trời Phạm Nhan, thế gian một mắt (tục ngữ)
– Đàn bà con mắt lá dăm,
Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
– Người khôn con mắt đen sì,
Người dại con mắt nửa chì nửa thau.
– Con lợn mắt trắng thì nuôi,
Những người mắt trắng đánh hoài đuổi đi.
– Những người ti hí mắt lươn,
Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người…
(ca dao).
Biết tính cách, biết người để lựa chọn chọn đối tượng giao tiếp thích hợp: Tùy mặt gởi lời, tùy người gởi của; Chọn mặt gởi vàng (tục ngữ). Trong trường hợp không được quyền lựa chọn thì người Việt Nam sử dụng chiến lược thích ứng một cách linh hoạt: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặt áo cà sa, đi với ma mặt áo giấy (tục ngữ).
1.4.Tính cộng đồng còn khiến cho người Việt Nam, dưới góc độ CHỦ THỂ GIAO TIẾP, có đặc điểm là trọng danh dự: Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng (tục ngữ). Như đã nói, danh dự được người Việt Nam gắn với năng lực giao tiếp: Lời nói ra để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm, nó được truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng. Không phải ngẫu nhiên mà từ “tiếng” trong tiếng Việt, từ nghĩa ban đầu là “ngôn ngữ” (ví dụ: tiếng Việt), đã được mở rộng ra để chỉ sản phẩm của ngôn ngữ (ví dụ: Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa), và cuối cùng, chỉ cái thành quả mà tác động của lời nói đã gây nên đó là “danh dự, uy tín” (ví dụ: nổi tiếng).
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt Nam mắc bệnh sĩ diện[ii]:
– Ở đời muôn sự của chung,
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.
– Đem chuông đi đấm nước người,
Không kêu cũng đấm ba hồi lấy danh.
(ca dao)
– Một quan tiền công, không bằng một đồng tiền thưởng.
(tục ngữ)
Ở làng quê, thói sĩ diện thể hiện trầm trọng ở tục lệ ngôi thứ nơi đình trung là tục chia phần. Các cụ già bảy tám mươi, tuy ăn không ăn được, nhưng vì danh dự (sĩ diện), vẫn có thể to tiếng với nhau vì miếng ăn: Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Thói sĩ diện này đã được Lưu Quang Vũ lấy làm đề tài riêng cho một vở kịch là Bệnh sĩ: “Người Việt Nam coi trọng cái tiếng hơn bất cứ thứ gì trên đời” đó là lời một nhân vật trong vở kịch. Thói sĩ diện đã tạo nên giai thoại “cá gỗ” nổi tiếng về ông đồ xứ nghệ che dấu cái nghèo của mình bằng cách làm những con cá bằng gỗ để bày ra mỗi bữa ăn. Thói sĩ diện buộc người ta phải sống và hành động khác mình, nhiều khi giả dối với chính mình.
Lối sống trọng danh dự, trọng sĩ diện dẫn đến cơ chế tin đồn, tạo nên dư luận như một vũ khí lợi hại bậc nhất của cộng đồng để duy trì sự ổn định của làng xã. Người Việt Nam sợ dư luận tới mức nhà văn Lê Lựu đã viết trong tiểu thuyết Thời xa vắng: “Người ta chỉ dám lựa theo dư luận mà sống chứ ai dám dẫm lên dư luận mà đi theo ý mình”. “Ở đời này người ta chỉ sẵn sàng chết đói, chết rét, chết bom, chết đạn để che chở, nuôi nấng cho con mình tai qua nạn khỏi, con mình được sung sướng, được vinh hoa chứ không ai chịu tai tiếng, chịu sỉ nhục để con mình được tự do theo ý nó”.
1.5.Về CÁCH THỨC GIAO TIẾP, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận.
Lối giao tiếp tế nhị, ý tứ khiến người Việt Nam có thói quen giao tiếp “vòng vo tam quốc”, không bao giờ mở đầu trực tiếp, nói thẳng vào vấn đề như người phương Tây. Truyền thống Việt Nam khi bắt đầu giao tiếp là phải vấn xá cầu điền, hỏi thăm nhà cửa ruộng vườn. Cũng để tạo không khí, để đưa đẩy, người Việt Nam trước đây có truyền thống “miếng trầu làm đầu câu chuyện”. Với thời gian, trong chức năng “mở đầu câu chuyện” này, “miếng trầu” từng được thay thế bằng chén trà, điếu thuốc lá, ly bia…
Để biết người đối thoại với mình còn cha mẹ hay không, người Việt Nam thường hỏi: Các cụ nhà ta vẫn mạnh giỏi cả chứ? Để biết người phụ nữ đang nói chuyện với mình có chồng hay không, người Việt Nam ý tứ sẽ hỏi: Chị về muộn thế liệu anh nhà (hay ông xã) có phàn nàn không? Còn đây là lời tỏ tình rất vòng vo của người con trai Nam Bộ (nơi mà người Việt có tiếng là bộc trực hơn cả) qua một bài ca dao:
Chiếc thuyền giăng câu,
Đậu ngang cồn cát,
Đậu sát mé nhà,
Anh biết em có một mẹ già,
Muốn vô phụng dưỡng, biết là đặng không?
Lối giao tiếp “vòng vo tam quốc” kết hợp với nhu cầu tìm hiểu về đối tượng giao tiếp tạo ra ở người Việt Nam thói quen chào hỏi “chào” đi liền với “hỏi”: “Bác đi đâu đấy?”, “Cụ đang làm gì đấy?”… Ban đầu, hỏi là để có thông tin, dần dần trở thành một thói quen, người ta hỏi mà không cần nghe trả lời và hoàn toàn hài lòng với những câu “trả lời” kiểu: “Tôi đi đằng này một cái” hoặc trả lời bằng cách hỏi lại, chẳng hạn, với câu hỏi: Cụ đang làm gì đấy?, có thể trả lời: Vâng, bác đi đâu đấy?
Lối giao tiếp ưa tế nhị ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư duy coi trọng các mối quan hệ(tư duy tổng hợp, biện chứng). Nó tạo nên một thói quen đắn đo cân nhắc kỹ càng khi nói năng:
– Ăn có nhai, nói có nghĩ.
– Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói.
– Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe.
– Khôn cũng chết, dại cũng chết, ai biết thì sống…
(tục ngữ)
– Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.>
– Trăm người bán, vạn người mua,
Lựa lời mà trả cho vừa lòng nhau.
– Ở sao cho vừa lòng người,
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
– Người khôn ăn nói nửa chừng,
Để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo…
(ca dao)
Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán. Để tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ được sự hòa thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất. “Suy từ nụ cười, chúng ta thấy người Việt Nam có một sự quân bình đặc biệt suốt trong mọi ngành sinh hoạt khiến họ chấp nhận hợp lý được mọi quan niệm, dung hòa đuợc mọi ý kiến dị đồng. Đời sống của dân tộc họ dù có chiến thắng vẫn không có những hân hoan tột độ, và dù chiến bại vẫn không có những bi đát tột cùng” [Pazzi 1970: 12-13].
Tâm lý trọng sự hòa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn nhau: Một sự nhịn là chín sự lành (tục ngữ); Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi nhỏ lửa có đời nào khê (ca dao)…
1.6. Người Việt Nam có một hệ thống NGHI THỨC LỜI NÓI rất phong phú.
Trước hết, đó là sự phong phú trong HỆ THỐNG XƯNG HÔ tiếng Việt: Trong khi các ngôn ngữ khác chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng thì tiếng Việt, ngoài các đại từ nhân xưng (mà số lượng cũng rất phong phú do có nhiều biến thể), còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng (anh, chị – em; ông, bà, bác, cô, gì, chú – cháu, con…) và một số danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ (thầy, cô, bác sĩ, ông cai, ông lý, ông huyện, ông đội…)để thay thế cho đại từ, chúng trở thành các từ đại từ hóa, những từ đại từ hóa này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng.
Trong tiếng Việt có tổng cộng trên 60 từ xưng hô. Hệ thống xưng hô cực kỳ phong phú này thể hiện rất rõ các đặc tính của văn hóa nông nghiệp Việt Nam:
a) Có tính chấtthân mật hóacao (đặc tính trọng tình cảm). Với cách xưng hô này, tất cả mọi người trong cộng đồng đều trở thành bà con họ hàng trong một gia đình.
b) Có tính chấtcụ thể hóacao (tính linh hoạt). Trong hệ thống từ xưng hô này, không có cái “tôi” chung chung: với mỗi người đối thoại khác nhau, người nói ở vào những cương vị khác nhau, những vai khác nhau. Trong hệ thống từ xưng hô này, cũng không có cái “anh” chung chung, cái “nó” chung chung; quan hệ xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp: Cùng là một cặp đối thoại, lúc ở trường học thì người này gọi người kia là thầy, nhưng khi về nhà thì lại gọi là em, vì người thầy kia chính là em trai (hoặc em họ) của người này. Tục ngữ Việt Nam có câu: Chú khi ni, mi khi khác. Cùng là hai người nam nữ, nhưng khi nhỏ thường gọi nhau bằng mày-tao; lớn lên gọi nhau là cậu-tớ; lấy nhau rồi gọi nhau là anh-em, là nhà nó; có con rồi gọi nhau là bố nó – mẹ nó, ba nó – má nó; có cháu rồi gọi nhau là ông nó – bà nó. Còn nhớ, vào những năm 60, có một vị lãnh đạo từng kêu gọi mọi người dùng các đại từ tôi, nó trong giao tiếp, xưng hô như ở các ngôn ngữ khác cho giản tiện và dân chủ, thế nhưng truyền thống văn hóa vẫn mạnh hơn: không một người Việt Nam nào có thể xưng “tôi” với một người cao tuổi, một người bậc trên; cũng như không một người Việt Nam nào có thể gọi một người cao tuổi, một người bậc trên là “nó”.
c) Có tínhxã hội hóacao (tính cộng đồng). Hai người nói chuyện với nhau đấy, xưng hô với nhau đấy, nhưng thực ra vẫn luôn luôn kéo cả những người thứ ba, thứ tư… vào cuộc. Đó là những lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên vợ, tên chồng… Hai vợ chồng gọi nhau là bố nó – mẹ nó, ba nó – má nó,ông nó – bà nó… chẳng là đã lôi cả những người thứ ba là con mình, cháu mình vào cuộc đấy ư? Hai người nói chuyện với nhau đấy nhưng cũng chính là đang thông báo, đang tự giới thiệu cho những người ngoài những người thứ tư biết rằng mình đã có con, có cháu; đã lên bậc cha, bậc mẹ; lên bậc ông, bậc bà…, để những người này nếu muốn nói chuyện với mình thì còn biết đường mà xưng hô!
d) Có tínhđa nghĩacao (tính tổng hợp). Cùng là hai người, nhưng cách xưng hô có thể đồng thời tổng hợp được các quan hệ khác nhau: Lối xưng hô ông-con, chú-con, bác-em… vừa thể hiện quan hệ “ông-cháu”, “chú-cháu”, “bác-cháu”, vừa thể hiện quan hệ “cha-con”, “anh-em”; vừa thể hiện được sự cách biệt về tuổi tác (gọi “ông” là cách biệt rất lớn, ngang tuổi ông mình; gọi “bác” là cách biệt nhiều, ngang tuổi anh bố mình; gọi “chú” là cách biệt ít hơn, ngang tuổi em bố mình), sự cách biệt về vai vế (“ông” bằng vai với ông mình, “chú”, “bác” bằng vai với bố mình), vừa thể hiện được sự gần gũi, thân mật như cha con, anh em. Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai đều cùng xưng là em và đều cùng gọi nhau là chị lối xưng hô ấy không có gì mâu thuẫn, bởi lẽ một người xưng là “em” vì ít tuổi hơn, còn người kia xưng “em” vì có vai vế thấp hơn. Những quan hệ phức tạp khác nhau trong cuộc sống đều được thể hiện rất tài tình trong hệ thống xưng hô của người Việt Nam.
e) Có tínhtôn ty, nhưng đồng thời lại vẫn rấtdân chuû. Tôn ty đây là sự thể hiện đúng quan hệ tuổi tác, thứ bậc trong họ hàng, ngoài xã hội…, và vì thể hiện đúng, cho nên rất dân chủ, công bằng. Dân chủ cho nên mới có chuyện cả hai cùng là chị và cùng là em. Dân chủ cho nên mới có cách gọi theo tên chồng tên vợ: Trong khi ở phương Tây chỉ có cách gọi theo tên chồng thể hiện quyền sở hữu của người chồng, thì ở Việt Nam, bạn bè của chồng có thể gọi vợ là chị Thanh (= “vợ anh Thanh”), bạn bè của vợ có thể gọi chồng là anh Nga (= “chồng chị Nga”).
f) Thể hiện tâm lýnhường nhịn, trọng sự hòa thuận(hiếu hòa). Người Việt Nam xưng và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn(tự xưng thì khiêm nhường còn gọi đối tượng giao tiếp với mình thì tôn kính). Tính khiêm nhường này gắn liền với tính xã hội hóa: khiêm nhường đến mức không có một đại từ ngôi thứ nhất chung chung mà có rất nhiều cách tự thể hiện mình khác nhau: với người ngang hàng thì xưng là tôi, tớ, tao, mình…, với người trên thì xưng là em, con, cháu…, với người dưới thì xưng là anh/chị, cô/chú, bác, ông/baø… Khiêm và tôn đến mức hai trong số các đại từ dùng để tự xưng với người ngang hàng là tôi và tớ vốn bắt nguồn từ hai danh từ tôi và tớ có nghĩa là kẻ hầu người hạ (so sánh các cách nói bầy tôi, kẻ tôi tớ này…).Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: tên riêng xưa kia không phải là cái dùng để gọi nhau (trái với chức năng bẩm sinh của nó!); gọi đến tên riêng, nhất là tên riêng của bố mẹ nhau (tên cái), là một sự xúc phạm ghê gớm – người ta chỉ lôi tên cái ra để “réo” khi chửi nhau. Đặt tên con cần nhất là không được trùng với tên của những người bề trên trong họ hàng cũng như xung quanh hàng xóm. Cũng vì kiêng tên riêng mà người Việt Nam trước đây có tục nhập gia vấn húy: vào nhà ai, phải hỏi tên chủ nhà trước để khi nói chuyện nếu có dùng đến từ đó thì phải nói chệch đi (người phương Tây thì, ngược lại, gặp nhau phải hỏi tên nhau để còn dùng tên ấy mà gọi).
Có trường hợp hai người quen nhau mấy chục năm mà chỉ khi một trong hai người mất, người kia mới biết được tên thật của bạn qua cáo phó; và không phải ngẫu nhiên mà trong một cuộc thi “Ở nhà chủ nhật” của Đài truyền hình VTV3 có câu đố yêu cầu các cháu tham gia cuộc thi nói được tên thậtcủa bà nội mình. Trong cuộc sống, trẻ em luôn giấu tên bố mẹ vì sợ bị các bạn lôi ra chửi.
Một hệ thống xưng hô quá tinh tế và linh hoạt như vậy chỉ gặp trong tiếng Việt và một vài ngôn ngữ Đông Nam Á chứ không có trong các ngôn ngữ phương Tây, Trung Hoa, kể cả những ngôn ngữ mà sự kính trọng người trên đã được ngữ pháp hóa như tiếng Nhật Bản, Hàn Quốc.
Nghi thức lời nói trong lĩnh vực CÁC CÁCH NÓI LỊCH SỰcũng rất phong phú.
Do truyền thống nặng về tình cảm và tính linh hoạt nên người Việt Nam truyền thống không có những từ cảm ơn, xin lỗi khái quát có thể dùng chung cho mọi trường hợp như người phương Tây. Cũng như trong xưng hô, đối với mỗi người, ta có một cách xưng hô khác nhau thì trong việc cảm ơn, xin lỗi, mỗi trường hợp có một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau: Con xin chú! (cảm ơn khi nhận quà), Chị chu đáo quá!, Anh tốt quá! (cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá! (cảm ơn khi được tiếp đón chu đáo), Quý hóa quá! (cảm ơn khi có khách đến thăm), Anh quá khen! (cảm ơn khi được khen), Cậu đã cứu cho tớ một bàn thua trông thấy!, Cháu được như hôm nay là nhờ cô đấy! (cảm ơn khi được giúp đỡ)…; Nói vô phép, Nói khí không phải (xin lỗi khi nói điều gì sơ xuất), Tôi sơ ý (vô ý) quá, Tôi lỡ tay, Mong bác bỏ quá đi cho (xin lỗi khi làm hỏng)…
Tiếng Việt thậm chí còn không có từ nào tương ứng với các khái niệm please, s’il vous plait, ïỵỉàëĩéđịà của các tiếng Anh, Pháp, Nga; khi cần thể hiện nghĩa này, người Việt Nam thường nói: Phiền ông (bà), Ông bà làm ơn, Xin phép cụ, Xin gởi ông, Không dám, Có gì đâu… tùy từng trường hợp.
Trong lĩnh vực NGHI THỨC CHÀO HỎI thì trong khi người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội, theo không gian (hệ thống xưng hô đã nói ở trên) và theo sắc thái tình cảm (Cháu chào ông ạ!; Xin phép ông cháu về; Ông ở lại, cháu về!…) thì người phương Tây lại phân biệt kỹ các lời chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay (tiếng Anh: How do you do, Good-bye; tiếng Pháp: Salut, Au revoir; tiếng Nga: Здравствуйте, Досвидание); chào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối… (tiếng Anh: Good morning, Good afternoon, Good night; tiếng Pháp: Bonjour, Bonsoir, Bonne nuit; tiếng Nga: Доброе утро, Добрый день, Добрый вечер,……). Điều đó cho thấy rõ sự khác biệt giữa văn hóa gốc nông nghiệp ưa sống ổn định (nên vị trí xã hội và tình cảm là quan trọng) với văn hóa gốc du mục ưa hoạt động (nên thời gian là quan trọng). Người Việt Nam nông nghiệp chú trọng quan hệ không gian nhiều hơn, người phương Tây công nghiệp chú trọng quan hệ thời gian nhiều hơn.
2. Tính biểu trưng, tính biểu cảm và tính linh hoạt trong nghệ thuật ngôn từ Việt Nam
Công cụ của giao tiếp là ngôn ngữ. W. Humboldt, nhà văn hóa lớn của nhân dân Đức, từng nói rằng ngôn ngữ là “linh hồn của một dân tộc”. Nhìn vào tiếng Việt, có thể thấy đúng là nó phản ánh rõ hơn đâu đâu hết linh hồn, tính cách của con người Việt Nam và những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam.
2.1. Trước hết, nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có TÍNH BIỂU TRƯNG cao. Tính biểu trưng thể hiện ở xu hướng khái quát hóa, ước lệ hóa, công thức hóa với những cấu trúc cân đối, hài hòa.
Xu hướng ước lệ bộc lộ ở chỗ tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng các con số biểu trưng. Trong khi người Pháp nói de toutes parts (từ tất cả các phía), người Anh nói he opens his eyes (nó mở những con mắt của nó) thì người Việt nói từ ba bề bốn bên, từ khắp bốn phương trời; nó mở to đôi mắt. Ở những trường hợp, khi người châu Âu dùng từ “tất cả” thì người Việt dùng các từ chỉ số lượng ước lệ [Phan Ngọc 1989: 24]: ba thu, nói ba phải, ba mặt một nhời, năm bè bảy mối, tam khoanh tứ đốm, trăm khôn ngàn khéo, tiền trăm bạc vạn, trăm họ, vạn sự, ngàn thu… Nguyễn Bính viết:
Nhà em cách bốn quả đồi,
Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng,
Nhà em xa cách quá chừng,
Em van anh đấy, anh đừng thương em!
Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố, lối sống ổn định có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ – một biểu hiện khác của tính biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt.
Theo nguyên lý cấu trúc loại hình, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết, song nó chứa một khối lượng không nhỏ các từ song tiết; điều quan trọng hơn nữa là mỗi từ đơn tiết lại hầu như đều có thể có những biến thể song tiết, dạng láy, cho nên thực chất trong ngôn từ, lời nói Việt thì cấu trúc song tiếtlại là chủ đạo. Các thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt đều cấu tạo theo cấu trúc có hai vế đối ứng: trèo cao / ngã đau; ăn vóc / học hay; một quả dâu da / bằng ba chén thuốc; biết thì thưa thốt / không biết dựa cột mà nghe…
Tiếng Việt rất phát triển hình thức câu đối là một loại sản phẩm văn chương đặc biệt, nó vừa công phu tỷ mỷ, lại vừa cô đúc ngắn gọn. Trong một tác phẩm “mini” ấy thể hiện đủ cả cái đẹp cân đối nhịp nhàng của hình thức và cái uyên thâm của chiều sâu triết lý phương Đông. Ở Việt Nam xưa kia, nhà nhà, đình đình, chùa chùa… nơi nào cũng đều có treo câu đối. Và trong mọi dịp, người ta đều làm câu đối từ việc hiếu cho đến việc hỷ. Câu đối chữ Hán có, chữ Nôm có,vừa Hán vừa Nôm cũng có.
Đây là đôi câu đối của Nguyễn Khuyến làm cho một người vợ khóc chồng làm nghề thợ nhuộm với đủ mọi kỳ công: vế trước nói về vợ, vế sau nói về chồng; vế trước nói về người sống, vế sau nói về về người chết; nghĩa đen với tình cảm vợ chồng thắm thiết, nghĩa bóng với đủ mọi sắc màu của nghề thợ nhuộm:
Thiếp kể từ lá thắm xe duyên, lúc vận tía, buổi cơn đen, điều dại điều khôn nhờ bố đỏ;
Chàng ở dưới suối vàng có biết, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột với trời xanh.
Kurn Stern trong lời tựa một tập thơ Việt Nam dịch ra tiếng Đức có nhận xét rằng “Việt Nam là đất nước của thơ ca và chiến tranh”. Người Việt Nam, hầu như ai cũng biết làm thơ. Văn hóa gốc nông nghiệp trọng âm, trọng tình cảm tất yếu sẽ có khuynh hướng thiên về thơ; văn hóa gốc du mục trọng dương, trọng lý trí tất yếu dẫn đến khuynh hướng thiên về văn xuôi: truyền thống văn chương phương Tây mạnh về văn xuôi. Trung Hoa cũng thiên về văn xuôi hơn thơ[iii]. Trong khi đó, suốt cả lịch sử mấy nghìn năm văn chương của Việt Nam đều là lịch sử của thơ ca – một thứ thơ ca có cấu trúc chặt chẽ (lục bát, song thất lục bát) và có vần điệu nghiêm ngặt thể hiện sự cân đối hài hòa.
Thống kê trên hai tập Từ điển văn học (NXB KHXH, Hà Nội, 1983-1984) cho thấy trong 198 mục từ về các tác phẩm văn học phương Tây (Châu Âu và Nga) thì có 43 tác phẩm thơ và 155 tác phẩm văn xuôi, tức là văn xuôi chiếm 78,3%. Trong khi đó, trong 95 mục từ tác phẩm văn học Việt Nam (không kể các chuyện cổ tích được nhắc đến riêng rẽ như Trầu Cau, Thánh Gióng…) thì có 69 tác phẩm thơ và 26 tác phẩm văn xuôi, tức là thơ chiếm 72,6% (trong số 26 mục từ văn xuôi này có rất nhiều tác phẩm thuộc các thể loại hịch, chèo, tuồng… là những thể loại mang đậm chất thơ).
Đây là một sự khác biệt mang tính nguyên lý, nó bắt nguồn từ chính sự khác biệt gốc rễ giữa hai loại hình văn hóa: Văn hóa gốc DU MỤC với bản tính ĐỘNG tất thiên về trình bày các nội dung tình tiết, sự kiện với bút pháp tả thực và lối diễn đạt tự do phóng túng – tất cả những đặc trưng đó chỉ có thể tìm thấy sự biểu hiện tập trung trong văn xuôi (ngay cả thơ phương Tây chủ yếu cũng là thơ tự do). Văn hóa gốc NÔNG NGHIỆP với bản tính TĨNH tất thiên về trình bày các nội dung tâm lý, tình cảm với bút pháp biểu trưng và lối diễn đạt cân xứng nhịp nhàng – tất cả những đặc trưng đó chỉ có thể tìm thấy sự biểu hiện tập trung trong thơ.
So sánh Truyện Kiều (TK) của Nguyễn Du là tác phẩm thơ nổi tiếng của Việt Nam với Kim Vân Kiều truyện (KVKT) của Thanh Tâm Tài Nhân là một tác phẩm văn xuôi Trung Hoa mà Nguyễn Du đã mượn làm cốt truyện để sáng tác, ta thấy rất rõ đối lập này: Trong khi KVKT là văn xuôi thì TK là thơ. Những đoạn tả sự kiện, hành động trong KVKT chi tiết, dài dòng bao nhiêu thì trong TK, chúng ngắn gọn, đơn giản bấy nhiêu; với những đoạn tả tâm lý, tình cảm thì diễn ra một tình hình ngược lại: Chẳng hạn, đoạn tả sự kiện Thúc Sinh chuộc Kiều trong KVKT dài trên 1600 chữ thì trong TK chỉ vỏn vẹn có 8 dòng thơ; trong khi đó, đoạn tả nỗi lòng Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích ở KVKT chỉ có khoảng chưa đầy trăm chữ thì ở TK Nguyễn Du đã thể hiện nó dài tới 22 dòng thơ!
Ở Việt Nam, văn xuôi truyền thống cũng là một thứ văn xuôi thơ, thế mạnh đó còn do tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu thanh điệu, tự thân các thanh điệu đã tạo nên tính nhạc cho câu văn rồi. Từ những bài văn xuôi viết theo lối biền ngẫu nhưHịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, hoặc viết theo lối tự do như thơ dụ hàng của Nguyễn Trãi gửi địch, cho tới những lời văn nôm bình dân … khắp nơi, ta đều gặp một lối cấu trúc cân đối, nhịp nhàng, chặt chẽ và có tiết tấu vần điệu.
Đây là một vài câu trong thư của Nguyễn Trãi gửi Vương Thông: “Nhà lớn gần xiêu, một cây gỗ khôn hay chống đỡ; đê dài sắp vỡ, một vốc đất khó thể duy trì. Nếu không lượng sức mà cứ cưỡng làm, thì ít khi không thất bại…”. Còn đây là lời cầu trong trò phụ đồng chổi của trẻ em: “Phụ đồng cái chổi, mau nổi mà lên. Ba bề bốn bên, đồng lên cho chóng. Nhược bằng cửa đóng, cũng phá mà vào; cách sông cách ao, phải vào cho được. Hoặc đồng còn đi quét lá đa, hoặc đồng còn đi xa về gần, hoặc đồng còn đi ân về ái, nghe lời thầy gọi, cũng phải về ngay. Ông chổi đi trước, bà chổi đi sau, dắt díu lấy nhau, nhập vào cái chổi…”.
Thậm chí ngay cả trong việc chửi nhau, người Việt cũng chửi nhau một cách có bài bản, cân đối, nhịp nhàng, đầy chất thơ (không chỉ lời chửi, mà cả cách thức chửi, dáng điệu chửi… cũng mang đầy tính nhịp điệu, xem hình 15.1). Không phải ngẫu nhiên mà ngôn ngữ dân gian Việt Nam vẫn gọi đùa việc chửi bằng các từ chỉ các loại hình nghệ thuật diễn xướng như ca, hát, tế… (ta thường nghe thanh niên nói với nhau: Mày nói vậy, bà ấy tế cho một trận bây giờ; Tao vừa bị mẹ tao ca cho một bài…). Với lối chửi có vần điệu, có cấu trúc chặt chẽ, người Việt có thể chửi từ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác mà không hề nhàm chán. Đây là một “nghệ thuật chửi” độc nhất vô nhị mà có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có được. “Nghệ thuật” này, xưa không ai truyền cho ai, nhưng những cô con gái Việt, do đã nghe mẹ, nghe hàng xóm láng giềng chửi nhiều lần nên ngẫu nhiên đã nhập tâm, sau này khi đi lấy chồng, có gia đình riêng, hễ va chạm với xã hội là cái “nghệ thuật” chửi này lại được dịp phô bày và hoàn thiện.
Ở Việt Nam, văn chương truyền thống là văn chương thơ; và thơ truyền thống là thơ có vần điệu, cấu trúc cân đối, nhịp nhàng. Chỉ có sau này, từ đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của phương Tây, thơ tự do và tiểu thuyết mới xuất hiện. Nhưng ngay trong thể loại tiểu thuyết mới xuất hiện do ảnh hưởng của văn xuôi phương Tây này cũng vẫn bộc lộ rất đậm nét dấu ấn của truyền thống cân đối nhịp nhàng, biểu trưng ước lệ. Đây là những câu văn tả người của Tản Đà: Tiếng nói nhẹ bao nhiêu, dáng người mềm bấy nhiêu; mềm bao nhiêu, chín bấy nhiêu; chín bao nhiêu, tươi bấy nhiêu; tươi bao nhiêu, tình bấy nhiêu. Như ghét, như yêu, như chiều, như ngượng. Lông mày ngài, đôi mắt phượng, cô chờ ai? (Giấc mộng con).
Không chỉ tiểu thuyết mà ngay cả văn chính luận Việt Nam cũng có thể mang đầy chất thơ nhờ sự cấu tạo cân đối nhịp nhàng. Đọc Tuyên ngôn độc lập hay những lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoặc những câu sau đây của Người, ta thấy rất rõ chất thơ đó: “Nếu không có nhân dân thì không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì không ai dẫn đường”; “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh.”
2.2.Đặc điểm thứ hai của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam là nó rất GIÀU CHẤT BIỂU CẢM – sản phẩm tất yếu của một nền văn hóa trọng tình cảm.
Về mặt từ ngữ, chất biểu cảm này thể hiện ở chỗ các từ, bên cạnh yếu tố gốc mang sắc thái nghĩa trung hòa, thường có rất nhiều biến thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm: Bên cạnh màu xanh trung tính, có đủ thứ xanh rì, xanh rờn, xanh rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè, xanh lét… Bên cạnh màu đỏtrung tính thì có đỏ rực, đỏ au, đỏ lòm, đỏ loét, đỏ hoe…
Các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh cũng rất phổ biến trong tiếng Việt (ở phần lớn các ngôn ngữ khác, kể cả tiếng Hán, tuy có phương thức láy, nhưng số lượng từ láy thì hết sức ít ỏi, tới mức không đáng kể): không phải ngẫu nhiên mà trong thơ ca của ta có thể gặp rất nhiều từ láy. Ở trên vừa nói tiếng Việt thiên về thơ, mà thơ là mang đậm chất tình cảm rồi, cho nên từ láy với bản chất biểu cảm rất phù hợp với nó. Chính nhờ sức biểu cảm của các từ láy mà thơ Nguyễn Du đã khắc họa rất đạt một Tú Bà với hình ảnh Nhác trông nhờn nhợt màu da, Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao… Một Mã Giám Sinh với hình ảnh Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao, Trước thầy sau tớ lao xao… Còn ai đã từng đọc thơ Hồ Xuân Hương rồi thì quên làm sao được những hình ảnh: Cầu trắng phau phau…, Nước trong leo lẻo…, Cỏ gà lún phún…, Cá diếc le te…
Về mặt ngữ pháp, tiếng Việt sử dụng rất nhiều các hư từ có sắc thái biểu cảm: à, ư, nhỉ, nhé, chăng, chớ, hả, phỏng, sao, chứ… Cấu trúc “iếc hóa” mang sắc thái đánh giá (sách siếc, bàn biếc…) cũng góp phần quan trọng trong việc tăng cường hệ thống các phương tiện biểu cảm cho tiếng Việt.
Sự phổ biến của thơ hơn văn xuôi đã nói đến ở trên không chỉ là sản phẩm của tính biểu trưng mà rõ ràng cũng đồng thời là sản phẩm của tính biểu cảm. Khuynh hướng biểu cảm còn thể hiện ở chỗ trong lịch sử văn chương truyền thống không có những tác phẩm anh hùng ca ca ngợi chiến tranh; có nói đến chiến tranh chăng thì chỉ là nói đến nỗi buồn của nó (ví dụ: Chinh phụ ngâm, một truyện thơ Nôm dài nói về nỗi lòng của người vợ có chồng đi chinh chiến).
2.3.Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam còn có đặc điểm thứ ba là TÍNH ĐỘNG và LINH HOẠT.
Tính động, linh hoạt này trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp. Trong khi ngữ pháp biến hình của các ngôn ngữ châu Âu là một thứ pháp chặt chẽ tới mức máy móc thì ngữ pháp tiếng Việt tổ chức chủ yếu theo lối dùng các từ hư để biểu hiện các ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp, khiến cho người sử dụng được quyền linh hoạt tối đa. Ngữ pháp của các ngôn ngữ phương Tây là ngữ pháp hình thức, còn ngữ pháp Việt Nam là ngữ pháp ngữ nghĩa.
Nói bằng một ngôn ngữ châu Âu, ta bắt buộc phải chia động từ theo các thể, các ngôi…; phải đặt danh từ vào các giống, các số, các cách…; phải đặt tính từ vào những hình thái phù hợp với danh từ…; tóm lại là phải đáp ứng đầy đủ mọi đòi hỏi tai quái nhất mà hệ thống ngữ pháp của ngôn ngữ đó yêu cầu (ngay cả khi ý nghĩa ngữ pháp đó đã được thể hiện năm bảy lần trong câu bằng những hình thái khác rồi cũng vậy). Còn trong tiếng Việt thì tùy theo ý đồ của người nói mà anh ta có thể diễn đạt, không diễn đạt hay diễn đạt nhiều lần một ý nghĩa ngữ pháp nào đó. Chẳng hạn, để diễn đạt ý nghĩa thời tương lai, tiếng Việt có thể có các cách nói: (Ngày mai) tôi đi Hà Nội; (Ngày mai) tôi sẽ đi Hà Nội, trong khi tiếng Anh chỉ có thể nói: I’ll go to Ha Noi (tomorrow). Để truyền đạt ý nghĩa giống cái, câu tiếng Việt “Coâ giáo trẻ người Nga dạy tôi viết” chỉ cần thể hiện một lần; trong khi câu tiếng Nga tương ứng bắt buộc phải thể hiện tới bốn lần (hai lần bằng tính từ, một lần bằng danh từ và một lần bằng động từ): Ìỵëỵäàÿ ðĩđđêàÿĩ÷èịåëüíèưà íàĩ÷èëà ìåíÿ ïèđàịü. Tiếng phương Tây gán ghép giống cho cả những danh từ biểu thị các sự vật không hề có “giống”, còn tiếng Việt thì cho phép diễn đạt cả những khái niệm có giống dưới dạng không giống chung chung (so sánh: giáo viên, giám đốc với thầy giáo – cô giáo, nữ giám đốc).
Chính vì linh hoạt như vậy mà tiếng Việt có khả năng diễn đạt khái quát rất cao: Chẳng hạn, trong khi người Việt có thể nói một câu không thời, không thể, không ngôi nhưGần mực thì đen, gần đèn thì sáng (tục ngữ), thì người Anh và Pháp bắt buộc phải nói: Near the ink, you are black; near the light, you will shine; Près de l’encre, on se tache; près de la lampe, on bénéficie de sa lumière. Khả năng diễn đạt khái quát, mơ hồ của tiếng Việt chính là điều kiện rất quan trọng cho việc phát triển thơ ca đã nói đến ở trên.
Tính động, linh hoạt của ngôn từ Việt Nam còn bộc lộ ở chỗ trong lời nói, người Việt rất thích dùng cấu trúc động từ: trong một câu có bao nhiêu hành động thì có bấy nhiêu động từ. Trong khi đó thì các ngôn ngữ phương Tây có xu hướng ngược lại – rất thích dùng danh từ. Trong khi người Việt nói: Cảm ơn anh đã tới chơi; Anh ta không bao giờ quên những chi tiết nhỏ nhặt cho nên đã trở thành một điệp viên tài giỏi thì người Anh nói: Thank you for your coming (Cảm ơn về sự đến chơi của anh); Never forgetting these small details made him a good secret agent (Sự không bao giờ quên những chi tiết nhỏ nhặt này làm anh ta trở thành một điệp viên giỏi).
Người phương Tây không chỉ danh hóa các động từ mà còn danh hóa cả các tính từ, các cụm chủ vị: The brilliance of his satires was such as to make even his victims laugh (Sự sắc sảo của những lời châm biếm của ông ấy làm cho đến cả các nạn nhân của ông ta cũng phải cười); Him being a Jesuit was a great surprise (Việc ông ta là một giáo sĩ dòng Tên làm nên một sự ngạc nhiên lớn) – trong những trường hợp như thế này, người Việt Nam sẽ nói đơn giản hơn rất nhiều: Những lời châm biếm của ông ta sắc sảo đến mức ngay cả các nạn nhân cũng phải bật cười; Mọi người rất ngạc nhiên khi biết ông ta là một giáo sĩ dòng Tên.
Khuynh hướng thích dùng danh từ trong các ngôn ngữ châu Âu chính là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện lan tràn các từ dùng làm công cụ để danh từ hóa nhưsự, việc, cuộc, cái, thứ… trong các bài mà người Việt Nam dịch từ các tiếng phương Tây và hiện tượng dùng thừa danh từ ở những người phương Tây học tiếng Việt (kiểu như: Tôi nhớ ngày khi tôi đến Việt Nam).
Tính linh hoạt, năng động còn là nguyên nhân khiến cho tiếng Việt ưa dùng cấu trúc chủ động mà ít dùng cấu trúc bị động. Người Việt thậm chí dùng cấu trúc chủ động ngay cả trong câu bị động: Những câu tiếng Anh như Linda was punished by the teacher; These chairs were made by Jhon mà dịch thành “Lin-đa bị phạt bởi thầy giáo”, “Những cái ghế này được làm bởi Giôn” như ta thường gặp là rất dở. Người Việt Nam không bao giờ nói thế, họ nói một cách đơn giản hơn: Lin-đa bị thầy giáo phạt; Những cái ghế này do Giôn đóng – “thầy giáo phạt”, “Giôn đóng” chính là những cấu trúc chủ động. Cấu trúc bị động thích hợp cho việc diễn đạt lối tư duy hướng ngoại, khách quan (tách rời khỏi người nói) của người Phương Tây, còn cấu trúc chủ động thì thích hợp cho việc diễn đạt lối tư duy hướng nội, chủ quan (gắn bó mật thiết với người nói) của văn hóa nông nghiệp phương Đông.
Như vậy, có thể nói rằng trong giao tiếp, người Việt Nam có thiên hướng nói đến những nội dung tĩnh(tâm lý, tình cảm, dẫn đến nghệ thuật thơ ca và phương pháp biểu trưng) bằng hình thức động (cấu trúc động từ, ngữ pháp ngữ nghĩa linh hoạt). Trong khi đó người phương Tây nói riêng và truyền thống văn hóa trọng dương nói chung lại có thiên hướng nói đến những nội dung động (hành động, sự việc, dẫn đến nghệ thuật văn xuôi và phương pháp tả thực) bằng hình thức tĩnh (cấu trúc danh từ, ngữ pháp hình thức chặt chẽ).
Mới hay, ngôn ngữ thực sự là tấm gương phản chiếu văn hóa dân tộc và tác động của luật âm dương (trong âm có dương, trong dương có âm; âm sinh dương, dương sinh âm) thật là rộng lớn và sâu xa!
Theo VANHOAHOC.VN
Tags: Văn hóa ứng xử, Văn hóa Việt
Tags: Ngôn ngữ