Bánh chưng và bánh tét ở hai miền Nam – Bắc khác nhau như thế nào?

Vào dịp Tết Nguyên đán hằng năm, theo truyền thống của người dân Việt Nam thì các gia đình miền Bắc nhất định phải có những chiếc bánh chưng trong nhà còn với miền Nam sẽ là những chiếc bánh tét. Cùng là loại bánh truyền thống của dân tộc, cùng là nét đẹp của văn hoá Việt Nam, vậy bánh chưng và bánh tét sao lại có tên gọi khác nhau? Chúng có hoàn toàn giống nhau hay khác biệt hoàn toàn? Hãy cùng PATO tìm hiểu trong bài viết sau đây.

NỘI DUNG CHÍNH
[Ẩn]

    Nguồn gốc ra đời của bánh chưng và bánh tét khác nhau như thế nào?

    Nhắc đến sự khác nhau của bánh chưng bắc và bánh chưng tày miền nam thì đầu tiên phải kể đến nguồn gốc ra đời của 2 loại bánh này khác nhau.

    Với bánh chưng: Bắt nguồn từ Sự tích Lang liêu vào đời vua Hùng thứ 6, khi nhà vua muốn tìm một loại lễ vật để dâng cúng Tiên Vương. Trong khi các hoàng tử thi nhau tìm những món ngon, vật lạ, sơn hào hải vị để bày tỏ lòng thành thì Lang Liêu – hoàng tử thứ 18 của vua Hùng đã mang đến hai thứ bánh vừa lạ vừa quen đó là Bánh chưng và bánh dày. Những món bánh độc đáo nhưng được làm ra từ những hạt gạo thứ lương thực quý hoá do trời ban qua đỗi thân thuộc với mọi người. Từ đó bánh chưng trở thành món bánh truyền thống của dân tộc ta cho đến ngày nay và là món bánh không thể thiếu trong mỗi dịp Tết đến xuân về.

    Còn với bánh tét lại có nguồn gốc ra đời muộn hơn bánh chưng đó là vào năm 1789 trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh nhà Nguyễn. Trong lúc vua Quang Trung cho quân lính của mình nghỉ ngơi thì đã có một binh lính dâng lên ông một chiếc bánh kỳ lạ, khi thưởng thức ông đã cảm nhận được hương vị tình yêu cùng sự nhớ thương với người vợ, với quê nhà. Từ đó, Quang Trung đã lệnh cho mọi người hàng năm vào mỗi dịp Tết đều phải gói loại bánh này để thể hiện được tình yêu gia đình, quê hương, đất nước và đặt tên cho loại bánh này là bánh tết. Trải qua nhiều thế hệ, loại bánh này được người dân gọi lái thành bánh tét như ngày nay.

    Dù có nguồn gốc khác nhau nhưng bánh chưng và bánh tét đều là những loại bánh đặc trưng của dân tộc Việt Nam, gắn liền với những sự kiện lịch sử to lớn của đất nước thể hiện nét đẹp văn hoá nước ta.

    >> Xem thêm: Nguồn gốc Tết Nguyên đán là gì? Những điều thú vị về Tết Âm lịch

    Ý nghĩa của bánh chưng và bánh tét

    Tại sao bánh chưng nương bắc và bánh tét là những loại bánh không thể thiếu trong mỗi dịp Tết Nguyên đán? Đáp án chính là ở mỗi loại bánh đều mang trong mình một ý nghĩa đặc biệt mà ít ai biết.

    Ý nghĩa của bánh chưng hương bắc

    – Bánh chưng – biểu tượng của đất: sở hữu hình dáng vuông vức với màu xanh lá hấp dẫn bên trong là những hạt nếp trời ban kết hợp cùng đậu xanh và thịt mỡ. Là loại bánh được làm ra từ những hạt gạo quý giá được trồng trên khắp mọi nơi trên đất nước vì vậy bánh chưng là một biểu tượng cao quý cho đất.

    – Bánh chưng mang đến tình yêu thương: Không phải tự nhiên mà bánh chưng được chọn là món ăn đặc biệt quan trọng trong ngày Tết. Những chiếc bánh được gói vuông vức, tỉ mỉ, những hạt nếp cũng được chọn lọc kỹ lưỡng, phải đều nhau, không bị sạn. Nhân đậu xanh vàng ươm đã tách vỏ, cộng với một ít thịt nạc bỏ mỡ. Nhờ đôi bàn tay khéo léo và tình yêu thương vô bờ bến gói bánh chưng đã khiến chiếc bánh trở nên đặc biệt và quý giá hơn bao giờ hết.

    – Bánh chưng tượng trưng cho nhân sinh, vũ trụ: Theo tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam, bánh chưng tượng trưng cho phần dương và bánh chưng tượng trưng cho phần âm. Trên mâm cúng năm mới, bánh đồng hồ dành cho Cha Long, bánh mặt trời dành cho Mẹ Tiên. Khi hai loại bánh này kết hợp với nhau trong ngày Tết đoàn viên sẽ thể hiện mong muốn lan tỏa ngày càng mạnh mẽ.

    – Bánh chưng thể hiện ước mong cuộc sống no đủ, hạnh phúc: Bánh chưng tượng trưng cho sự dư giả, sung túc: Bánh chưng gồm có các nguyên liệu như thịt mỡ, đỗ xanh, gạo nếp và lá dong. Khi có những chiếc bánh chưng đầy đủ nhân thịt trong nhà mỗi dịp Tết đến là thể hiện mong ước của gia đình trong năm mới sẽ được no đủ, thịnh vượng.

    Ý nghĩa của bánh tét miền Nam

    – Bánh tét biểu tượng của tình yêu quê hương, đất nước, gia đình: Thời đất nước chưa loạn, những chiếc bánh ngọt tuy giản dị nhưng lại có thể làm no bụng, làm ấm lòng những người lính nơi tiền tuyến. Nhờ chiếc bánh tét mà hai vợ chồng thêm gắn bó, thêm yêu quê hương. Ngoài ra, vua Quang Trung không chỉ giỏi đánh giặc mà còn biết nghĩ đến truyền thống dân tộc khi mỗi dịp Tết đến xuân về, ông hạ lệnh nấu bánh chưng mừng Xuân để nhắc nhở con cháu phải biết trân trọng nguồn cội hơn.

    – Không chỉ vậy cũng giống như bánh chưng, bánh tét cũng mang ý nghĩa của tình yêu thương, hạnh phúc, mong muốn một cuộc sống no đủ, thịnh vượng.

    Chính những ý nghĩa của bánh chưng và bánh tét đã giúp cho loại bánh này được mọi người coi trọng và sử dụng trong mỗi dịp lễ tết.

    >> Xem thêm: Các phong tục ngày Tết Nguyên đán của người Việt độc đáo, thú vị

    Sự khác nhau về nguyên liệu làm bánh 

    Bánh chưng bắc và bánh chưng nam không chỉ khác nhau về nguồn gốc và ý nghĩa mà những nguyên liệu làm ra hai loại bánh này cũng khác nhau.

    Bánh chưng thường được làm ra từ các nguyên liệu chính như: Gạo nếp, đỗ xanh, thịt ba chỉ lợn, lá dong, lạt. Ngoài ra để những chiếc bánh chưng trở nên độc đáo hơn người dân miền Bắc còn sử dụng cả gấc, giềng, lá dứa,… để tạo màu cho bánh chưng tạo nên các loại bánh chưng mới lạ như bánh chưng ngũ sắc, bánh chưng nếp cẩm,bánh chưng gấc,…

    Còn đối với bánh Tét, nguyên liệu làm ra chúng cũng tương đối giống với bánh chưng như bao gồm: Gạo nếp, đỗ xanh, thịt ba chỉ lợn, lạt. Tuy nhiên đối với bánh tét người miền Nam thường dùng lá chuối thay vì lá dong. Về phần nhân bánh, không chỉ có thịt lợn mà họ còn dùng các loại nhân ngọt như chuối (người dân thường gọi là bánh chưng nhân chuối) vì khẩu vị của người dân nơi đây thích vị ngọt hơn miền bắc.

    >> Xem thêm: Kinh doanh gì trong dịp Tết Nguyên đán để thu về nhiều lợi nhuận?

    Sự khác nhau về hình dáng của bánh chưng miền Bắc và bánh tét miền Nam 

    Khi nhắc đến những điểm khác nhau của bánh chưng và bánh chưng tày thì chắc có lẽ điều mọi người sẽ nghĩ ngay đến đó là hình dạng của chúng.

    Cụ thể, bánh chưng có hình vuông tượng trưng cho mặt đất. Điều này có thể được giải thích từ “Truyền thuyết về Bánh chưng và bánh dày” của Lang Liêu – hoàng thử thứ 18 dưới đời vua Hùng thứ 6 nổi tiếng ở Việt Nam đã được người dân truyền miệng nhau từ xa xưa cho đến tận ngày nay.

    Ngược lại, bánh tét miền Nam có hình trụ. Sở dĩ bánh tét có hình trụ là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa Việt Cộng, đồng thời cũng có thể là sự kế thừa những giá trị tiền nhân để lại. Khi người Việt bắt đầu khai hoang vùng đất phía nam Tân Cương, do tiếp thu các yếu tố tín ngưỡng của văn hóa Chămpa, trong đó có tín ngưỡng thờ thần lúa, cư dân Việt sau này đã sáng tạo ra loại bánh như ngày nay.

    >> Xem thêm: Cách gói bánh chưng bằng khuôn thông minh cho người mới bắt đầu

    Như vậy có thể thấy rằng bánh chưng và bánh tét mặc dù đều là loại bánh truyền thống của Việt Nam trong mỗi dịp Tết đến xuân về nhưng lại những điểm khác biệt riêng mà ít ai biết được. PATO đã mang đến cho các độc giả những thông tin mới mẻ về loại bánh cổ truyền của dân tộc, nếu bạn muốn biết thêm nhiều điều thú vị thì hãy theo dõi ngay chuyên mục Văn hoá Việt Nam tại BLOG PATO.