Chế độ hôn nhân không tự do trong pháp luật phong kiến Việt Nam

Vài nét khái quát về quan hệ hôn nhân? Chế độ hôn nhân không tự do trong pháp luật phong kiến Việt Nam? Sự kết hợp hôn nhân không tự do? Quan hệ vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thể hiện nguyên tắc không tự do? Chấm dứt hôn nhân thể hiện nguyên tắc không tự do?

    Hôn nhân – gia đình là một trong những vấn đề nổi trội của xã hội, nên chế định này đã được các nhà làm luật trên thế giới, ghi nhận ngay trong những bộ luật đầu tiên của nhân loại như: bộ luật Hammurabi của Lưỡng Hà, bộ luật Manu của Ấn Độ … Đặc biệt, là sự ảnh hưởng của nho giáo và pháp luật phong kiến Trung Hoa, nên pháp luật phong kiến Việt Nam có sự tiếp thu phát triển. Bên cạnh đó, những quy định của pháp luật nước ta có sự sáng tạo, độc lập với pháp luật các nước khác, tiêu biểu trong lĩnh vực hôn nhân. Ở nước ta, chế độ hôn nhân được xác lập theo nguyên tắc không tự do, phụ quyền, gia trưởng, đa thê – không bình đẳng. Trong phạm vi bài luận này, em xin đi sâu trình bày nguyên tắc hôn nhân không tự do trong pháp luật phong kiến nước ta.

    1. Vài nét khái quát về quan hệ hôn nhân:

      “Hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một người nam và một người nữ với tư cách là vợ chồng”. Nhà làm luật khi đưa ra khái niệm hôn nhân đều xuất phát từ vị trí của hôn nhân là một thiết chế xã hội: “Việc một người đàn ông và một người đàn bà cam kết sống chung với nhau với những quyền và nghĩa vụ đối với nhau cũng như đối với con cái”. Trong thời kì phong kiến, hôn nhân ở một số nước Châu Á nói chung và ở Việt Nam nói riêng là sự thể chế hóa những quan điểm, lễ nghi nho giáo. Mà hôn nhân không tự do, đa thê và xác lập chế độ gia đình phụ quyền, gia trưởng là nguyên tắc cơ bản, nổi trội trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình của pháp luật phong kiến Việt Nam(được quy định trong các bộ luật của Việt Nam thời phong kiến, tiêu biểu là Quốc triều hình luật và Hoàng việt luật lệ).

    2. Chế độ hôn nhân không tự do trong pháp luật phong kiến Việt Nam:

    2.1. Sự kết hợp hôn nhân không tự do:

    Thể hiện rõ nhất ở điều kiện kết hôn. Theo tinh thần và nội dung của nhiều điều khoản trong hai bộ luật này, việc kết hôn phải tuân theo các nguyên tắc sau:

     Việc kết hôn phải có sự đồng ý của cha, mẹ. Đây là một nội dung quan trọng thê hiện nguyên tặc hôn nhân không tự do trong cổ luật Việt Nam. Cả hai bộ luật đều quy định rất chặt chẽ về nội dung này. Tại điều 314 Quốc triều hình luật quy định “ người kết hôn mà không đủ sính lễ đến nhà cha mẹ người con gái ( nếu cha mẹ chết thì đem đến người nhà trưởng họ hay nhà người trưởng làng) để xin, mà thành hôn với nhau một cách cẩu thả thì phải biếm một tư và theo lệ sang hèn phải bắt nộp tiền tạ( tạ: là xin lỗi ), cho cha mẹ nếu cha mẹ chết thì nộp cho trưởng họ hay trưởng làng, người con gái phai chịu phạt 50 roi” theo tinh thần của điều luật này thì việc kết hôn nhất thiết phải có sự đồng ý của hai bên cha mẹ nếu cha mẹ đã chết thì phải được sự đồng ý của bậc thân thuộc hoặc trưởng thôn. Có thể coi đây là điều kiện cơ bản nhất, loại trừ hẳn quyền kết hôn tự do của hai đương sự. Điều kiện này xuất phát từ quan điểm phong kiến cho rằng hôn nhân là một loại quan hệ phải xuất phát từ quyền lợi của gia đình, dòng họ nhằm giao hiếu giữa hai dòng họ và kế truyền dòng dòng dống tông tộc.do đó việc hôn nhân phải được đặt dươi sự xem xét và quyết định của người gia trưởng loại trừ sự tự do cá nhân của hai bên đương sự. Tuy vậy tại điều 94 Hoàng việt luật lệ quy định trường hợp ngoại lệ pháp luật thừa nhận trường hợp thành hôn mà chưa có ý kiến của ông bà, cha mẹ khi làm ăn buôn bán hoặc làm ăn ở xa. Quy định này phù hợp với điều kiện lãnh thổ rộng lớn đi lại khó khăn. 

    che-do-hon-nhan-khong-tu-do-trong-phap-luat-phong-kien-viet-namche-do-hon-nhan-khong-tu-do-trong-phap-luat-phong-kien-viet-nam

    Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

    Cổ luật Việt Nam còn nghiêm cấm việc kết hôn khi đang có tang cha, mẹ hoặc tang chồng. Có điều này là xuất phát từ việc đảm bảo đạo đức phong kiến, tại điều 137 bộ Quốc triều hình luật quy định: “ người nào đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy vợ hoặc lấy chồng thì xử tội đồ người khác biết mà vấn cứ kết hôn thì bị xử  ba tư đôi vợ chồng mới cưới phải chia lìa”. Điều kiện này nhằm đề cao đạo hiếu của con cái đối với cha mẹ, chữ “tiết” của vợ đối với chồng.

    Cấm kết hôn khi ông bà cha mẹ đang bị giam cầm tù tội. Điều 318 bộ Quốc triều hình luật viết “trong khi ông bà, cha mẹ bị giam cầm tù tội mà lấy vợ, lấy chồng thì đều bị xử 3 tư và đôi vợ chồng phải ly dị”. Điều kiện này cũng nhằm đề cao chữ hiếu của con cháu đối với ông bà cha mẹ.

    Cổ luật Việt Nam cũng quy định rất rõ cấm kết hôn giữa những người trong họ hàng thân thích; Cấm anh lấy vợ goá của em, em lấy vợ goá của anh trò lấy vợ goá của thầy “ là anh, là em, là học trò lấy vợ của anh, của em của thầy học đã chết đều xử lưu, người đàn bà bị xử giảm một bậc, đều phải ly dị. Điều này nhằm bảo vệ đạo anh em, nghĩa thầy trò.

    Cấm nô tì lấy dân tự do: luật quy định rằng “ Phàm gia trưởng cưới vợ cho nô bộc là con gái nhà lành thì phạt 80 trượng người nô bộc tự cưới thì cũng thế. Mạo lão nô tì là lương nhân để cùng lương nhân làm chông vơn phạt 100 trượng”.( điều 107 bộ Quốc triều hình luật). Quy định này thể hiện rõ quan điểm phân biệt đẳng cấp ngăn câm nô tì có quan hệ hôn nhân với thường nhần thể hiện sự phân tần xã hội nghiêm ngặt.

    Cấm sư nam đạo sĩ kết hôn: Tăng, đạo cứơi thê thiếp phạt 80 trượng, buộc phai ly dị, chủ hôn nhà gái phai chịu tội, phải li dị. Cấm đàn bà con gái có tội đang trốn tránh thì không được kết hôn.

    Cấm mệnh phụ phu nhân cải giá: Mệnh phụ phu nhân( vợ quan chức ) mà chồng chết tuy mãn tang mà tái giá phạt 80 truy thu bằng sắc vua khen trước đây, bắt phải li dị tiền cưới cho vào quan.

    Cấm quan lại lấy con gái ở địa phương mà mình đương chức, cấm con của trấn giữ biên ải kết hôn với con của tù trưởng địa phương, cấm các quan thuộc lại, con chaú các quan kết hôn với đàn bà con gái lam nghề hát xướng, đã kết hôn thì đều phai li dị ( những quy định này được nghi nhận tại các điều 316, 334, 323 của bộ Quốc triều hình luật). Có thể nói những điều kiện kết hôn như đã phân tích ở trên đã thể hiện phần nào nguyên tắc hôn nhân không tự do trong cổ luật phong kiến Việt Nam.

    2.2. Quan hệ vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thể hiện nguyên tắc không tự do:

    Nghĩa vụ phải chung sống tại một nơi và phải có trách nhiệm với nhau. tại điều 321 bộ Quốc triều hình luật quy định “ vợ cả, vợ lẽ tự tiện bỏ nhà đi, thì xử tội đồ làm xuy thất tỳ, đi rồi mà lấy chồng khác thì phải đồ thung thất tuỳ, người vạ gia sản phải trả về nhà chồng”. Theo tinh thần của điều luật này, người vợ phải có nghĩa vụ về ở với nhà chồng tại địa điểm do cha mẹ chồng và người chồng lựa chon. Người vợ không vì bất cứ lý do gì để tự tiện bỏ nhà chồng ra đi và nếu hành động đó xẩy ra, sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Đầy là một nguyên tắc thể hiện nguyên tăc hôn nhân không tự do trong pháp luật cổ việt nam.

    – Nghĩa vụ phục tùng chồng: Theo tinh thần nhiều điều luật đã thể hiện nghĩa vụ của người vợ phải theo chồng và tôn trọng mọi quyết định của chồng bên cạnh nghĩa vụ phục tùng chông còn có nghĩa vụ chung thuỷ người vợ phải có nghĩa vụ tuyệt đối chung thuỷ với chồng nếu vi phạm nguyên tắc này thì không những bị coi là một trong bảy duyên cớ để người chồng buộc phai ly hôn mà còn phải chịu hình phạt nghiêm khắc. Đây cũng là những nguyên tắc thể hiện hôn nhân không tự do trong cổ luật Việt Nam.

    – Nghĩa vụ để tang: khi chồng chết người vợ phải có nghĩa vụ để tang chồng trong ba năm và phai tuân thủ những quy định nghiêm ngặt nếu người vợ vi phạm nghĩa vụ này sẽ bị khép vào tội thập ác. Điều này thể hiện nguyên tắc không tự do hôn nhân trong pháp luật phong kiến Việt Nam. Quy định này thể hiện quan hệ hôn nhân đối với người phụ nữ chưa chấm dứt ngay khi chồng chết, mà sau khi chồng chết người phụ nữ còn phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà chồng. Điều này đã làm mất quyền tự do của người phụ nự trong việc xây dựng hạnh phúc mới.

    Trong cổ luật Việt Nam thường đặt người vợ bên cạnh người chồng với tư cách là cha mẹ. Luật không quy định về tài sản riêng của vợ, người vợ phụ thuộc vào chộng và gia đình chồng. Như vậy qua nghiên cứu về quan hệ vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ta thấy những quy định này thể hiện rất rõ nguyên tắc không tự do hôn nhân trong cổ luật Việt Nam

    2.3. Chấm dứt hôn nhân thể hiện nguyên tắc không tự do:

    Việc hôn nhân chấm dứt khi xẩy ra một trong hai trường hợp: do một bên vợ hoặc chồng chết trước, do ly hôn.

    Theo tinh thần của nhiều điều quy định trong cổ luật Việt Nam thì nếu người vợ nghe thấy tin chồng chết mà không chịu tang lại cứ vui chơi ăn mặc như thường lệ, đi lấy chồng khác ngay thì bị khép vào trọng tội bất nghĩa

    Trường hợp phải ly hôn cho dù người vợ hoặc chồng có muốn hay không điều này cũng nói lên nguyên tắc hôn nhân không tự do đựơc quy định trong cổ luật Việt Nam. Thứ nhất pháp luật buộc phai ly hôn vì hôn nhân đã vi phạm những điều cấm kết hôn. Thứ hai nhóm trường hợp buộc người chồng phải ly hôn vì người vợ có lỗi điều 310 của Quốc triều hình luật quy định “ vợ cả, vợ lẽ phạm phải điều nghĩa tuyệt (như thất xuất) mà người chồng chịu giấu thì bị xử tội biếm, tuỳ theo việc nặng nhẹ”. Theo tinh thần của điều luật này, người chông buộc phải bỏ vợ cho dù vợ, chồng có muốn hay không. Như vậy ta thấy những quy định trong cổ luật như đã nêu trên thì việc chấm dứt hôn nhân cũng thể hiện nguyên tắc không tự do trong hôn nhân. Việc chấm dứt hôn nhân không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của hai bên đương sự mà phụ thuộc vào nhưng quy định của pháp luật.

    Qua nghiên cưu vấn đề hôn nhân trong cổ luật Việt Nam ta thấy các nhà làm lụât phong kiến đã có những quy định rất chặt chẽ về vấn đề này với những quy tắc thể hiện sự nghiêm khắc và nhằm đảm bảo đạo đức phong kiến. Một trong những nguyên tắc đó chính là nguyên tắc không tự do trong hôn nhân mà có thể nói chủ thể mất tự do nhiều nhất đó chính là phụ nữ.