Đề tài Tìm hiểu ẩm thực đường phố tại thành phố hồ chí minh phục vụ phát triển du lịch sdt/ ZALO 09345 497 28

  1. BỘ GIÁO DỤC

    VÀ ĐÀO TẠO
    TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
    ——————————-
    ISO 9001:2015
    KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
    NGÀNH : VIỆT NAM HỌC (VĂN HÓA DU LỊCH)
    Sinh viên : Nguyễn Thanh Hương
    Giảng viên hướng dẫn: Đào Thị Thanh Mai
    HẢI PHÒNG – 2019

  2. BỘ GIÁO DỤC

    VÀ ĐÀO TẠO
    TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
    ———————————–
    TÌM HIỂU ẨM THỰC ĐƯỜNG PHỐ TẠI THÀNH PHỐ
    HỒ CHÍ MINH PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
    KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY
    NGÀNH: VIỆT NAM HỌC (VĂN HÓA DU LỊCH)
    Sinh viên : Nguyễn Thanh Hương
    Giảng viên hướng dẫn: Đào Thị Thanh Mai
    HẢI PHÒNG – 2019

  3. BỘ GIÁO DỤC

    VÀ ĐÀO TẠO
    TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
    ————————————–
    NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
    Sinh viên: Nguyễn Thanh Hương Mã SV: 1412402094
    Lớp : VH1802 Ngành: Việt Nam học (Văn hóa du lịch)
    Tên đề tài: Tìm hiểu ẩm thực đường phố tại Thành phố Hồ Chí Minh – phục
    vụ phát triển du lịch

  4. NHIỆM VỤ ĐỀ

    TÀI
    1. Nội dung và các yêu cầu cần giải quyết trong nhiệm vụ đề tài tốt
    nghiệp
    ………………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………….
    2. Các tài liệu, số liệu cần thiết
    ………………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………….
    3. Địa điểm thực tập tốt nghiệp
    Khách sạn DASOM
    333 Văn Cao, Đằng Lâm, Hải An, Hải Phòng.

  5. CÁN BỘ HƯỚNG

    DẪN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
    Họ và tên : Đào Thị Thanh Mai
    Học hàm, học vị : ThS
    Cơ quan công tác : Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    Nội dung hướng dẫn: Tìm hiểu ẩm thực đường phố tại Thành phố Hồ Chí
    Minh – phục vụ phát triển du lịch
    Đề tài tốt nghiệp được giao ngày 24 tháng 12 năm 2018
    Yêu cầu phải hoàn thành xong trước ngày 05 tháng 04 năm 2019
    Đã nhận nhiệm vụ ĐTTN Đã giao nhiệm vụ ĐTTN
    Sinh viên Giảng viên hướng dẫn
    Nguyễn Thanh Hương ThS. Đào Thị Thanh Mai
    Hải Phòng, ngày 05 tháng 04 năm 2019
    HIỆU TRƯỞNG
    GS.TS.NGƯT Trần Hữu Nghị

  6. CỘNG HÒA XÃ

    HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
    PHIẾU NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN TỐT NGHIỆP
    Họ và tên giảng viên: ThS. Đào Thị Thanh Mai
    Đơn vị công tác: Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thanh Hương Chuyên ngành: Văn hóa du lịch
    Đề tài tốt nghiệp: Tìm hiểu ẩm thực đường phố tại Thành phố Hồ Chí Minh -phục vụ phát triển
    du lịch
    1. Tinh thần thái độ của sinh viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp
     Thực hiện nghiêm túc các yêu cầu để phục vụ nội dung nghiên cứu.
     Có ý thức kỷ luật tốt, chăm chỉ, chịu khó học hỏi.
     Hoàn thành đề tài đúng thời hạn.
    2. Đánh giá chất lượng của khóa luận
    – Về lý luận, tác giả đã nêu khái quát, phân tích và đưa ra các cơ sở lý luận về du
    lịch nông nghiệp.
    – Về thực tiễn, tác giả đã nêu và đánh giá thực trạng và có giải pháp để phát triển
    du lịch nông nghiệp.
    – Đề tài đáp ứng yêu cầu đề ra về lý luận và thực tiễn, đạt chất lượng tốt của khóa
    luận tốt nghiệp đại học ngành Việt Nam học (Văn hóa du lịch).
    3. Ý kiến của giảng viên hướng dẫn tốt nghiệp
    Được bảo vệ Không được bảo vệ Điểm
    hướng dẫn
    Hải Phòng, ngày 05 tháng 04 năm 2019
    Giảng viên hướng dẫn
    ThS. Đào Thị Thanh Mai

  7. MỤC LỤC
    Lời mở

    đầu ………………..….……………………………….…….…………
    1. Lý do chọn đề tài……….………………………………………..…………
    2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài…………..……………………..…………
    3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu……….………………..……………
    4. Phương pháp nghiên cứu …………………………………….…………..
    5. Bố cục của bài khóa luận…………………………………………………
    Chương 1: Tổng quan về loại hình du lịch ẩm thực và du lịch ẩm thực đường phố
    …………………………………………………..……………
    1.1. Cơ sở lý luận về loại hình du lịch ẩm thực ………………………….
    1.1.1. Khái niệm về ẩm thực……………….…………………………………
    1.1.2. Khái niệm về du lịch ẩm thực và du lịch ẩm thực đường phố….
    1.1.2.1. Khái niệm du lịch về ẩm thực ……………………………………….
    1.1.2.2. Khái niệm về du lịch ẩm thực đường phố…………………………
    1.1.3. Mối quan hệ giữa Ẩm thực và Du lịch……………………………..
    1.2. GiớithiệudulịchẩmthựcđườngphốởViệtNamvàtrênthếgiới………
    1.2.1. Một số khu ẩm thực đường phố ở Việt Nam ………………………
    1.2.1.1. Ẩm thực đường phố ở Hà Nội………………..……………………..
    1.2.1.2. Ẩm thực đường phố ở Hải Phòng ………………….………………
    1.2.1.3. Ẩm thực đường phố ở Đà Nẵng …………………….…..…………
    1.2.1.4. Ẩm thực đường phố ở Đà Lạt ………………………………………
    1.2.2. Một số khu ẩm thực đường phố trên thế giới ……………………..
    1.2.2.1. Ẩm thực đường phố ở Trung Quốc …………………………………
    1.2.2.2. Ẩm thực đường phố ở Mỹ….………………………………………..
    1.2.2.3. Ẩm thực đường phố ở Australia …………………………………….
    1.2.2.4. Ẩm thực đường phố ở Anh…………………………………………..
    1.3. Tiểu kết chương 1 …………………………………………..……………
    Chương 2: Thực trạng khai thác ẩm thực đường phố tại thành phố Hồ Chí Minh –
    phục vụ phát triển du lịch……….………….……………
    1
    1
    2
    3
    3
    3
    4
    4
    4
    5
    5
    6
    7
    8
    8
    8
    9
    10
    11
    12
    12
    12
    13
    13
    14
    15

  8. 2.1. Khái quát

    về thành phố Hồ Chí Minh……………………………….
    2.1.1. Vị trí địa lý – Điều kiện tự nhiên……………………………………..
    2.1.1.1. Vị trí địa lý……………………………………………………………..
    2.1.1.2. Điều kiện tự nhiên ………………..……………………………………
    2.1.2. Lịch sử hình thành – tổ chức hành chính và kinh tế – xã hội…..
    2.1.2.1. Lịch sử hình thành……………………………..…………………….
    2.1.2.2. Tổ chức hành chính…………………………………………..………
    2.1.2.3. Kinh tế…………………….……………………………………………
    2.1.2.4. Dân cư – xã hội………………………………………………….…….
    2.1.3. Tài nguyên du lịch nhân văn ở Thành phố Hồ Chí Minh ………
    2.1.3.1. Tài nguyên vật thể …………………………………………….………
    2.1.3.2. Tài nguyên phi vật thể ………………….………………………….…
    2.2. Tìm hiểu về ẩm thực đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh…..……
    2.2.1. Một số món ăn phổ biến từ trước năm 1975… … … … … … … …
    2.2.1.1. Sủi cảo………………………………………………………………….
    2.2.1.2. Phá lấu ……..…………………….…………………………………….
    2.2.1.3. Hủ tiếu ………………………………………………………………….
    2.2.1.4. Bột chiên ……………..…………………………………………………..
    2.2.1.5. Phở ……………………………………………..………………………
    2.2.1.6. Bánh xèo……………….……………………………………………….
    2.2.1.7. Bánh mỳ Sài Gòn ……………………………………………………..
    2.2.1.8. Cơm Tấm …………….…………………………………………………
    2.2.2. Một số món ăn phổ biến ngày nay …..………………………………
    2.2.2.1. Bánh tráng……….……………………………………………………..
    2.2.2.2. Ốc…………….…………………………………………………………
    2.2.2.3. Gỏi cuốn………………………………………………………………..
    2.2.2.4. Súp cua…………………..…………………………………………….
    2.2.2.5. Bánh kếp Thái ……..………………………………………………….
    2.2.2.6. Bạch tuộc viên Nhật Bản………………………….…………………
    15
    15
    15
    16
    19
    19
    19
    20
    22
    23
    23
    32
    35
    35
    35
    35
    36
    36
    37
    37
    37
    38
    38
    38
    39
    39
    40
    40
    41

  9. 2.2.2.7. Kimbap Hàn

    Quốc……………………………………………………
    2.2.2.8. Kem……………………………………………………………………..
    2.3. Đánh giá thực trạng khai thác ẩm thực đường phố ở thành phố Hồ Chí
    Minh………………………………………………………………..…
    2.3.1. Đặc trưng của ẩm thực Thành phố Hồ Chí Minh…………………
    2.3.2. Thực trạng khai thác ẩm thực đường phố trên một vài địa điểm tại Thành phố Hồ
    Chí Minh…………………………………………………
    2.3.2.1. Chợ Bến Thành, Lê Lợi – quận 1……………………………………
    2.3.2.2. Con đường bán trái cây đĩa Nguyễn Cảnh Chân – quận 1………
    2.3.2.3. Đường Nguyễn Thượng Hiền – quận 3..……………………………
    2.3.2.4. Đường Cao Thắng – quận 3……………………………….………..
    2.3.2.5. Hẻm 14, Trần Bình Trọng – quận 4……………………………..…
    2.3.2.6. Phố ốc Vĩnh Khánh – quận 4……………………………………..…
    2.3.2.7. Đường An Dương Vương – quận 5…………………………………
    2.3.2.8. Phố Sủi Cảo Hà Tôn Quyền – quận 11…………….………………
    2.3.3. Sự giống và khác nhau ở một vài món ăn đường phố ……………
    2.3.3.1. Cơm tấm Sài Gòn và Kimbap Hàn Quốc ……………….…………
    2.3.3.2. Bánh xèo và bánh kếp Thái Lan……………………………………
    2.3.4. Ưu điểm của ẩm thực đường phố tại Thành phố Hồ Chí Minh trong phát triển du
    lịch……………………………………………………….
    2.3.5. Hạn chế của ẩm thực đường phố tại Thành phố Hồ Chí Minh trong phát triển du
    lịch…………………………………………………………
    2.4. Tiểu kết chương 2 ……………………………….………………………
    Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác ẩm thực đường phố phục vụ phát
    triển du lịch Thành phố Hồ Chí Minh…………….
    3.1. Định hướng phát triển du lịch thành phố Hồ Chí Minh đến năm
    2030………………………………………………………………………..
    3.1.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển du lịch…………………………….
    3.1.2. Tiềm năng, thế mạnh của ẩm thực đường phố trong chính sách phát triển du lịch
    ………………………….……………………………………
    41
    41
    42
    42
    43
    43
    44
    44
    44
    45
    45
    45
    46
    46
    46
    49
    52
    53
    54
    55
    55
    55
    56

  10. 3.2. Các giải

    pháp cụ thể…………………………………………………….
    3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý…………………….
    3.2.2. Giải pháp về xúc tiến quảng bá………………………………………
    3.2.3. Giải pháp về tổ chức hoạt động ẩm thực đường phố …………….
    3.2.4. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch ẩm thực……………………………
    3.2.5. Kết nối ẩm thực đường phố với các tuyến điểm du lịch trên địa bàn Thành phố Hồ
    Chí Minh………………………………………………..
    3.3. Tiểu kết chương 3……………………………………………………….
    Kết luận ………………………………………………………………………….
    Danh mục tài liệu ……………………………………………………………..
    Phụ lục ………………………………………….……………………………….
    58
    58
    61
    63
    64
    65
    68
    69
    70
    71

  11. LỜI CẢM ƠN
    Em

    xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo của trường Đại học Dân
    Lập Hải Phòng bởi suốt quãng thời gian bắt đầu học tập tại giảng đường đại học
    đến nay, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ, đặc biệt là các thầy cô
    trong Khoa Du lịch đã tận tình truyền đạt kiến thức cho em trong những năm
    học vừa qua. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học tập em tin rằng
    đó chính là hành trang quý báu cho con đường sự nghiệp của mình trong tương
    lai. Không chỉ vậy, để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này, em xin tỏ lòng
    tri ân sâu sắc đến Thạc sĩ Đào Thị Thanh Mai. Cô đã tận tình hướng dẫn em
    trong việc lựa chọn đề tài nghiên cứu, hướng tiếp cận và giúp em chỉnh sửa
    những điều còn thiếu sót. Trong quá trình nghiên cứu, do trình độ lý luận và
    kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế gây ảnh hưởng đến bài khóa luận, em
    rất mong sẽ nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô để em có thể
    hoàn thiện tốt hơn.
    Lời cuối cùng em xin kính chúc các thầy cô luôn dồi dào sức khỏe.
    Em xin chân thành cảm ơn !

  12. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    1
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    LỜI MỞ ĐẦU
    1. Lý do chọn đề tài
    “Nước Mỹ đã sinh ra những nhà hàng di động nhưng Việt Nam mới là
    thiên đường ẩm thực đường phố. Không đâu lại có văn hóa ẩm thực đa dạng
    như nơi này. Qua ẩm thực, một phần bản sắc văn hóa của Việt Nam đã được
    gìn giữ và phát huy trong quá trình hội nhập, giao lưu văn hóa quốc tế”. Đó
    là nhận định của tờ báo CNNGo (Mỹ) về ẩm thực Việt Nam.Văn hóa ẩm
    thực Việt Nam luôn độc đáo và phong phú trên mọi phương diện. “Một đất
    nước nhỏ bé mà thức ăn lại tinh tế và đa đạng đến đáng kinh ngạc. Mỗi
    thành phố, thậm chí mỗi ngôi làng đều có món đặc sản riêng”. Đây cũng là
    ấn tượng chung của nhiều du khách sau khi thưởng thức những món ăn dân
    dã tại Việt Nam.Và trong con mắt những du khách ấy, có một phần không
    thể bỏ qua đó chính là ẩm thực đường phố, đặc biệt là trên những con phố
    của mảnh đất Hồ Chí Minh. Cùng với đó, hãng thông tấn CNN đã đánh giá
    Thành phố Hồ Chí Minh là thủ đô ẩm thực của nước ta.Không chỉ vậy từ
    nhiều năm trước, ẩm thực đường phố ở Việt Nam nói chung và ở Thành phố
    Hồ Chí Minh nói riêng đã được rất nhiều tạp chí nước ngoài nhắc đến như:
    Tạp chí ẩm thực thế giới Food and Wine đã bình chọn Thành phố Hồ Chí
    Minh là một trong những thành phố có món ăn đường phố ngon hàng đầu,
    trong đó món chả giò, bánh mì được nhiều tạp chí bình chọn là một trong 12
    món ăn ngon nhất thế giới.
    Với thành tích trên, văn hóa ẩm thực có một vai trò đóng góp không
    nhỏ trong việc thu hút khách du lịch quốc tế và nội địa. Với cách tiếp cận
    kinh tế và giao lưu văn hóa vùng miền trong nước và quan hệ quốc tế,
    nghiên cứu văn hóa ẩm thực nói chung và văn hóa ẩm thực đường phố nói
    riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh là một vấn đề cấp thiết để phát triển du lịch
    trong quá trình đổi mới hiện nay và cho tương lai. Đặc biệt là ở các đô thị
    đông dân khi mà giá cả sinh hoạt tăng cao khiến nhiều người dân chấp nhận

  13. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    2
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    sử dụng các loại thức ăn đường phố. Theo một số liệu điều tra của Trung
    tâm dinh dưỡng Thành phố Hồ Chí Minh thì tại đây có tới 95,5% người dân
    đang sử dụng thức ăn đường phố trong đó 51% dùng làm bữa ăn hàng ngày,
    82% dùng làm bữa ăn sáng. Sở dĩ các món ẩm thực đường phố hấp dẫn đến
    thế, bởi tất cả chúng đều rất dễ dàng để thưởng thức. Chỉ cần bước chân vào,
    ngồi xuống và sẽ có người mang ra. Tất cả nguyên liệu đều thật sự đơn giản
    và không khó kiếm tìm nhưng lại được kết hợp với nhau rất tinh tế đến khó
    tin. Mỗi món đi kèm với một loại gia vị, nước chấm đặc trưng thể không
    thay thế. Các món ăn nhiều rau củ quả, không nhiều dầu mỡ như đồ ăn
    Trung Quốc, không cay như đồ ăn Thái Lan cũng không nhiều thịt như đồ
    ănTây Âu.
    Có thể nói văn hóa ẩm thực đã và đang trở thành một trong những bậc
    thang quan trọng nhất đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam đến
    với bạn bè quốc tế. Và trong bậc thang ấy, văn hóa ẩm thực đường phố có lẽ
    là viên gạch vững chắc nhất. Ẩm thực không đơn thuần là món ăn, nó là cái
    hồn của đất nước, của dân tộc. Những điều được trình bày trên đây chính là
    lý do em chọn “Tìm hiểu ẩm thực đường phốThành phố Hồ Chí Minh – phục
    vụ phát triển du lịch” để làm đề tài cho bài khóa luận của mình với mong
    muốn đem lại cái nhìn toàn diện về ẩm thực đường phố Hồ Chí Minh, góp
    phần giúp cho ẩm thực đường phố ngày càng được quan tâm đầu tư và khai
    thác hiệu quả hơn.
    2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
    Trước hết, đề tài tìm hiểu cơ sở lý luận về du lịch ẩm thực và du lịch
    ẩm thực đường phố, cung cấp những ví dụ điển hình về các khu ẩm thực
    đường phố ở Việt Nam và trên thế giới.
    Mục đích chính của đề tài là tìm hiểu ẩm thực đường phố Sài Gòn và
    khai thác thực trạng để từ đó đưa ra các đề xuất, giải pháp phát triển ẩm thực
    đườngphố Hồ Chí Minh, phục vụ phát triển du lịch thành phố.

  14. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    3
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
    Phạm vi nghiên cứu: Thành phố Hồ Chí Minh.
    Đối tượng nghiên cứu:Tìm hiểu ẩm thực đường phố Thành phố Hồ
    Chí Minh nhằm phục vụ phát triển du lịch.
    4. Phương pháp nghiên cứu
    Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Là một trong những phương
    pháp quan trọng được sử dụng trong đề tài nghiên cứu khoa học cũng như
    trong khóa luận. Trên cơ sở thu thập thông tin tư liệu từ nhiều nguồn khác
    nhau như: sách, báo, đài, tivi, tạp chí, mạng internet…, từ đó người viết có
    cái nhìn chọn lọc, xử lý thông tin đưa ra những nhận xét đánh giá ban đầu
    với những kết luận về vấn đề nghiên cứu cụ thể là ẩm thực đường phố ở
    Thành phố Hồ Chí Minh.
    Phương pháp so sánh, thống kê, phân tích và tổng hợp các thông tin
    số liệu liên quan đến đề tài, từ đó tìm ra định hướng, giải pháp phát triển du
    lịch mang hiệu quả cao, mang tính khoa học và thực tiễn trong phạm vi
    nghiên cứu mà đề tài thực hiện.
    5. Bố cục của bài khoá luận
    Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
    chính của đề tài có bố cục gồm ba chương:
    Chương 1: Tổng quan về loại hình du lịch ẩm thực và du lịch ẩm thực
    đường phố.
    Chương 2: Thực trạng khai thác ẩm thực đường phố tại Thành phố Hồ
    Chí Minh – phục vụ phát triển du lịch
    Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác ẩm thực đường phố
    -phục vụ phát triển du lịch Thành phố Hồ Chí Minh.

  15. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    4
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    CHƯƠNG I
    TỔNG QUAN VỀ LOẠI HÌNH DU LỊCH ẨM THỰC
    VÀ DU LỊCH ẨM THỰC ĐƯỜNG PHỐ
    1.1. Cơ sở lý luận về loại hình du lịch ẩm thực
    1.1.1. Khái niệm ẩm thực
    Ngay từ khi những bước chân đầu tiên của con người in dấu trên Trái
    Đất, ngay từ thời kì bình minh của nhân loại, việc ăn uống đã được coi như
    là một nhu cầu cần thiết để duy trì sự sống của sinh vật sống nói chung và
    con người nói riêng. Tuy nhiên ở thời kì cổ đại đó, thực phẩm vẫn còn khan
    hiếm buộc con người không có quyền lựa chọn thức ăn. Sau này, trải qua
    hàng trăm triệu năm tiến hóa, thế giới ngày một văn minh hơn. Do đó,
    những tri thức cơ bản đầu tiên về lĩnh vực ăn uống được hình thành, tạo nên
    khái niệm đầu tiên về văn hóa ăn uống: ẩm thực.
    Nghĩa hẹp: theo nghĩa Hán Việt thì ẩm nghĩa là uống, thực nghĩa là
    ăn, nghĩa hoàn chỉnh là ăn uống, là một hệ thống đặc biệt về quan điểm
    truyền thống và thực hành nấu ăn, nghệ thuật bếp núc, nghệ thuật chế biến
    thức ăn, thường gắn liền với một nền văn hóa cụ thể. Nó thường được đặt
    tên theo vùng hoặc nền văn hóa hiện hành. Một món ăn chủ yếu chịu ảnh
    hưởng của các thành phần có sẵn tại địa phương hoặc thông qua thương mại,
    buôn bán trao đổi.
    Nghĩa rộng: ẩm thực có nghĩa là nền văn hóa ăn uống của một dân
    tộc, đã trở thành một tập tục, thói quen. Ẩm thực không chỉ nói về “văn hóa
    vật chất” mà còn nói về cả mặt “văn hóa tinh thần”. Những thực phẩm mang
    màu sắc tôn giáo cũng mang nhiều ảnh hưởng rất lớn tới ẩm thực.

  16. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    5
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    Theo tác giả Nguyễn Văn Dương nghiên cứu về ẩm thực trong ngôn
    ngữ, thì từ “ăn” trong tiếng việt có số lượng ngữ nghĩa và số lượng từ ghép
    rất phong phú, có đến 15/20 ngữ nghĩa được nêu trong từ điển tiếng việt có
    liên quan đến “ăn”.Sở dĩ từ ăn chiếm vị trí lớn ngôn ngữ và tư duy người
    việt vì từ xưa đến đến đầu thế kỷ XX, nước ta đất hẹp, kỹ thuật chưa phát
    triển, mức sống còn thấp do đó cái ăn luôn là yếu tố quan trọng nhất: “có
    thực mới vực mới vực được đạo”, “dĩ thực vi tiên”. Bên cạnh ăn thì uống
    không chiếm vị trí quan trọng trong ngôn ngữ Việt Nam. Ngoài nghĩa thông
    thường là uống cho hết khát, từ “uống” trong từ ghép “ăn uống”có nghĩa là
    uống rượu.
    Theo PGS.TS Phan Thị Thu Hiền, Trường Đại học Khoa học Xã hội
    và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh: Ẩm thực là chế
    biến đồ ăn thức uống có đủ dinh dưỡng, đủ năng lượng và có sức hấp dẫn
    đối với nhiều đối tượng khác nhau. Đặc biệt trong tình trạng hiện nay, ẩm
    thực phải đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong chuỗi cung ứng từ
    đồng ruộng đến bàn ăn. Như vậy, ẩm thực vừa có tính nghệ thuật, vừa có
    tính văn hóa và vừa mang tính xã hội.(Theo Tạp chí Khoa học Đại học Văn
    Lang).
    1.1.2. Khái niệm về du lịch ẩm thực và du lịch ẩm thực đường phố.
    1.1.2.1. Khái niệm về du lịch ẩm thực
    Năm 1985, Wilbur Zelinsky đã dùng thuật ngữ “Gastronomic
    Tourism” với ý nghĩa là du lịch trải nghiệm ẩm thực. Năm 1998, Lucy M.
    Long đưa ra thuật ngữ “Culinary Tourism” để chỉ hình thức du lịch khám
    phá ẩm thực, đi sâu vào chế biến thực phẩm. Năm 2001, Colin Michael
    Hall và Richard Michell sửdụng thuật ngữ “Food Tourism” để chỉ hình
    thức du lịch tiếp xúc với người chế biến thực phẩm, tham gia lễ hội
    ẩm thực, thưởng thức đồ ăn, thức uống đặc sản của địa phương. Năm 2015,
    Ontario Culinary Tourism Alliance (OCTA) lại dùng thuật ngữ “Food

  17. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    6
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    Tourism” với ý nghĩa du lịch tìm hiểu, đánh giá ẩm thực có tính văn hóacủa
    địa phương hay dân tộc. Do đó, du lịch ẩm thực là loại hình du lịch tổ chức
    và hướng dẫn du khách đến các điểm du lịch để tìm hiểu, thưởng thức, trải
    nghiệm đồ ăn, thức uống có tínhnghệ thuật và văn hóa đặc thù của địa
    phương, vùng miền, quốc gia. Thuật ngữ “Food Tourism” có thể được sử
    dụng để chỉ loại hình du lịch ẩm thực.
    Theo PGS.TS Phan Thị Thu Hiền, trường Đại học Khoa học Xã hội
    và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh: Du lịch ẩm thực
    là quảng bá, tiếp thị, tổ chức, hướng dẫn du khách đến các điểm du lịch có
    ẩm thực đặc sắc, độc đáo của địa phương, vùng miền, quốc gia.(Theo Tạp
    chí Khoa học Đại học Văn Lang).
    1.1.2.2. Khái niệm về du lịch ẩm thực đường phố
    Ẩm thực đường phố hay thức ăn vỉa hè, thức ăn lề đường là các
    loạithức ăn, đồ uống đã chế biến sẵn hay sẵn sàng chế biến và phục vụ tại
    chỗ theo yêu cầu của khách hàng được bày bán trên vĩa hè, lề đường ở
    các đường phố, khu phố đông người hoặc những nơi công cộng khác, chẳng
    hạn như một siêu thị, công viên, khu du lịch, điểm giải trí, khu phố ăn
    uống ngoài trời… thông thường thức ăn đường phố được bày bán trên các
    tiệm ăn di động, quán ăn tạm thời hay là từ một gian hàng di động cho đến
    các loại xe đẩy. Theo khái niệm của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), thức ăn
    đường phố là những đồ ăn, thức uốngđược làm sẵn hoặc chế biến, nấu
    nướng tại chỗ, có thể ăn ngay và được bày bán trên đường phố, những nơi
    công cộng.
    Du lịch ẩm thực đường phố là hành động du khách rời khỏi nơi cư trú
    thường xuyên đi đến một nơi khác (có thể là một tỉnh thành khác hoặc thậm
    chí là một quốc gia khác) để kết hợp việc thưởng thức các món ăn đường
    phố với việc tậnhưởng kỳ nghỉ của họ nhằm tìm hiểu và khám phá tự nhiên,
    văn hóa, lịch sử,conngười tại nơi họ đến.

  18. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    7
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    1.1.3. Mối quan hệ giữa ẩm thực và du lịch
    Du lịch ẩm thực nhiều hơn chỉ là thưởng thức một bữa ăn ngon, một
    chút bia hay một ly rượu vang trong suốt chuyến đi. Đó là cách chúng ta hòa
    mình vào nền văn hóa và di sản của một khu vực, tạo ra những kỷ niệm
    không thể quên theo một cách hoàn toàn khác biệt.
    Theo báo cáo toàn cầu về du lịch ẩm thực của Tổ chức du lịch thế
    giới, trung bình 1/3 ngân sách của khách du lịch được dành cho ẩm thực.
    Điều này chỉ ra rằng yếu tố này là một phần trải nghiệm của khách du lịch.
    Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng không phải tất cả khách du lịch chỉ
    đến đó để thưởng thức những đồ ăn ngon, cũng không phải tất cả các doanh
    nghiệp kinh doanh ẩm thực sẽ cung cấp dịch vụ này.
    Trong ẩm thực ẩn chứa những giá trị văn hóa phi vật thể cốt lõi của
    điểm đến và thông qua việc thưởng thức chúng, du khách có thể khám phá,
    cảm nhận rõ nét bản sắc văn hóa chính thống của người dân địa phương. Khi
    có cơ hội thưởng thức các món ăn mới lạ và hấp dẫn trong chuyến đi của
    mình, du khách sẵn sàng đón nhận, bởi lẽ đó là một trong những hoạt động
    trải nghiệm thú vị nhất gắn với tâm lý và sinh hoạt hàng ngày của mỗi con
    người. Bên cạnh các yếu tố có thể làm thỏa mãn nhu cầu khách như thời tiết,
    dịch vụ lưu trú, phong cảnh tham quan… thì ẩm thực góp phần gia tăng
    đáng kể giá trị cho chuyến đi của khách du lịch cũng như tạo dựng hình ảnh
    tốt đẹp về điểm đến đó. Đồng thời, ngoài việc là yếu tố tạo sức hấp dẫn, ẩm
    thực còn đóng vai trò vô cùng quan trọng, tạo dấu ấn khác biệt giữa quốc gia
    này với quốc gia khác. Bởi lẽ, bên cạnh bản sắc độc đáo của hương vị và
    nghệ thuật chế biến tinh tế của từng món ăn, khi quảng bá, chúng thường
    được đi kèm với tên thương hiệu của mỗi quốc gia. Ví dụ như: Ẩm thực Việt
    Nam, ẩm thực Pháp, ẩm thực Mê Xi Cô,… Điều này giúp dễ dàng khắc sâu
    vào tâm trí của du khách, dù đã từng hay chưa được trải nghiệm nhưng cũng
    khiến họ phải quan tâm tìm hiểu và lưu giữ được những cảm nhận ban đầu

  19. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    8
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    khó quên về điểm đến du lịch, qua đó góp phần tạo thêm động lực để họ
    quyết định đi thăm cũng như quay trở lại điểm đến du lịch.
    1.2. Giới thiệu ẩm thực đường phố ở Việt Nam và trên thế giớii
    1.2.1. Một số khu ẩm thực đường phố ở Việt Nam
    1.2.1.1. Ẩm thực đường phố ở Hà Nội
    Phố ẩm thực Hàng Buồm
    Phố Hàng Buồm được ví như một Hà Nội thu nhỏ hiện đại, tấp nập và
    đông đúc.Thực khách có thể thưởng thức đồ ăn tại quán hoặc mang đi, vừa
    dạo chơi phố cổ vừa nhâm nhi. Ngoài ra, cũng có nhiều loại chè hay nước ép
    trái cây cho thực khách lựa chọn. Do hoạt động trùng với chợ đêm Hà Nội
    nên phố ẩm thực Hàng Buồm thu hút rất nhiều các tín đồ ẩm thực trong
    nước và du khách quốc tế.
    Chợ Đồng Xuân
    Đây là ngôi chợ lâu năm, nổi tiếng và đông đúc vào bậc nhất đất Hà
    Thành. Không chỉ với người Hà Nội, chợ Đồng Xuân còn là địa chỉ ẩm thực
    yêu thíchcủa rất nhiều du khách. Vào bất kì thời điểm nào cũng có thể tới
    đây để tìm kiếm và thưởng thức vô vàn món ngon gồm cả bữa chính cùng
    các món trángmiệng béo ngậy, giòn tan. Sau đó là món bún chả kẹp que tre
    chuẩn chất Hà Nội, từ nguyên liệu tới cách chế biến đều cầu kì, tỉ mỉ. Nước
    chua gia giảm của quán không phải chế từ dấm mà là sấu dầm tự làm, vị dịu
    dàng vô cùng độc đáo.
    PhốLý Quốc Sư
    Một trong những thương hiệu phở nổi tiếng ở Hà Nội, được nhiều
    người biết đến nhất nằm trên phố Lý Quốc Sư. Phở ở đây chỉ chuyên về bò
    nhưng có đủ các loại tái, chín, nạm, gầu,.. tạo cho khách hàng mới đến lần

  20. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    9
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    đầu có nhiều sự lựa chọn và khách hàng trung thành sẽ không bị nhàm chán.
    Nước dùng phở rất đặc trưng, thơm mùi gia vị mà không bị béo. Ngoài ra
    phải kể đến trà chanh. Dễ thấy hình ảnh du khách tấp nập đi lại và các bạn
    trẻ tụ tập bên những quán trà chanh, nhất là những ngày cuối tuần.Trà
    chanh, me muối, mơ muối là lựa chọn phổ biến. Mùa nào thức đấy, những ly
    sấu đá hè có thể thay bằng ly ca cao, cà phê ấm nóng khi tiết trời Hà Nội
    chuyển lạnh.
    Phố Nhà Thờ
    Ở phố Nhà Thờ, bạn có thể vừa ăn kem dừa kiểu Thái, vừa thưởng
    thức món đồ ăn Nhật Bản, sau đó nhâm nhi một chiếc bánh pizza. Nếu
    không, cũng có rất nhiều các hàng quán đồ ăn Việt hấp dẫn.Khu phố này
    cũng có cả những quán cà phê kiểu Pháp xinh xắn, sang trọng, nằm ẩn mình
    dưới những tán cây già cỗi. Thưởng thức ly cà phê nóng bên ban công, lặng
    ngắm khu phố nhỏ, bạn sẽ có một buổi chiều thật tuyệt vời.
    1.2.1.2. Ẩm thực đường phố Hải Phòng
    Phố Cầu Đất
    Là một trong những con đường trung tâm của thành phố Cảng, Cầu
    Đất được biết đến với món Bánh đa cua nổi tiếng. Du khách có thể đến quán
    Bánh đa cua Bà Cụ ở số 179 hay quán Bánh đa cua bể ở số 195, chắc chắn
    sẽ làm hài lỏng cả những người khó tính nhất. Ngoài ra thực khách cũng có
    thể thưởng thức món Bánh rán Bà Lạnghoặc nhiều loạibánh ngọt trong các
    cửa tiệm lâu đời như: Kim Thanh, Thanh Lịch, Lâm Hương,…trên dọc con
    phố này.
    Phố Văn Cao
    Người Hải Phòng hay nói vui rằng: “Muốn ăn lẩu hãy đến Văn Cao,
    muốn ăn nướng hãy đến Hoàng Minh Thảo”. Nói như vậy để thấy được rằng
    Lẩu chính là món ăn được bán phổ biến ở con phố này, đặc biệt là Lẩu cua

  21. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    10
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    đồng. Ngoài ra đây còn là nơi sinh sống của rất nhiều người nước ngoài nên
    đến đây du khách sẽ được trải nghiệm những món ăn độc đáo trong các nhà
    hàng Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản,…
    Chợ Cát Bi
    Là khu chợ nổi tiếng với ẩm thực phong phú, chợ Cát Bi chính là
    thiên đường ẩm thực của thành phố Hoa Phượng đỏ với khu nhà ăn rộng lớn
    ngay chính trung tâm của chợ. Tại đây du khách sẽ được thưởng thức rất
    nhiều món ăn hấp dẫn như: Giá bể xào, bánh đa, bánh bèo, cháo, ốc, các loại
    chè,…Từ tầm 3 giờ chiều trở đi là khoảng thời gian thích hợp nhất để du
    khách có thể thưởng thức tất cả các món ngon ở nơi đây.
    1.2.1.3. Ẩm thực đường phố Đà Nẵng
    Khu ẩm thực Phạm Hồng Thái
    Khu phố ẩm thực Đà Nẵng này thường hoạt động náo nhiệt vào buổi
    chiều khoảng từ 5h chiều cho đến 11h đêm. Đây là khu phố rất tuyệt vời
    chonhững ai thích ăn khuya đa dạng nhiều món khác nhau vừa ngon bổ mà
    lại rẻ nữa. Khu phố hội tụ tất cả những đặc sản của miền Trung vô cùng hấp
    dẫn như: Bánh xèo, ốc hút, ram bắp,…Ngoài ra còn có những quán nhậu hải
    sản bình dân rất được lòng thực khách.
    Khu ẩm thực chợ Cồn
    Đây là khu chợ có quy mô lớn ở Đà Nẵng là một địa điểm tham quan
    mua sắm cũng như ăn uống tuyệt vời dành cho khách du lịch khi tới Đà
    Nẵng. Đến phố ẩm thực Đà Nẵng này bạn tha hồ thưởng thức những món ăn
    vặt nổi tiếng mực rim, ốc hút, chè, nem,..Bên cạnh đó khu chợ còn có rất
    nhiều gian hàng bán đặc sản dành cho du khách mang về làm quà.

  22. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    11
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    Khu ẩm thực Ngũ Hành
    Khu ẩm thực này được mở hàng ngày nhân dịp pháo hoa quốc tế. Đến
    đây bạn có thể tham gia trò chơi và thưởng thức các món ăn đặc sản của Đà
    Nẵng. Với diện tích rộng và có thể đáp ứng cho 4.000 khách hàng cùng sự
    góp mặt của nhiều đầu bếp nổi tiếng như Thanh Hòa, Minh Nhật,…của
    chương trình Master ChefViệt Nam, chắc chắn đây sẽ là một điểm dừng
    chân thú vị.
    Đường Bạch Đằng
    Con đường này là một trong những đường đẹp nhất của thành phố,
    nằm kề bên bờ sông Hàn. Du khách có thể lân la ở các quán ăn, quán cafe
    như quán souvenir & cafe nằm ở địa chỉ 34 Bạch Đằng, quận Hải Châu, Đà
    Nẵng. Bên cạnh đó còncó đặc sản dừa rất ngon ngọt, hay rau câu dừa, kem
    xôi dừa,…địa chỉ 198, Bạch Đằng, Đà Nẵng.
    1.2.1.4. Ẩm thực đường phố Đà Lạt
    Khu ẩm thực truyền thống tại Đà Lạt Center
    Nằm ở tầng 2 của khu chợ mới Đà Lạt Center với 16 quầy hàng liền
    kề nhau là 16 mái nhà tranh. Ở đó phục vụ các món ăn như: Bún, phở, mì
    Quảng, cơm, cháo, xắp xắp, bánh tráng trộn, bánh tráng nướng, bánh cuốn,
    nem, bánh mì, hủ tiếu,…Tại khu ẩm thực truyền thống, ngoài các món ăn,
    du khách còn có thể lựa chọn các loại chè đa dạng hay nước giải khát, nước
    ép trái cây đặc trưng của Đà Lạt. Đó sẽ là lựa chọn khá lý tưởng để vừa tản
    bộ, vừa có nhiều thứ để nhâm nhi.
    Chợ đêm Đà Lạt
    Chợ đêm nhộn nhịp, thu hút rất nhiều khách du lịch tới tham quan,
    nơiđây luôn là một trong những địa điểm du lịch Đà Lạt được yêu thích. Du
    kháchđến đây có thể để mua sắm đồ lưu niệm, quần áo hay thưởng thức
    những mónăn vặt vừa ngon vừa rẻ làm nên danh tiếng của ẩm thực Đà Lạt

  23. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    12
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    như: Bánh trángnướng, xiên nướng, sữa đậu nành, bánh bột lọc chén, bánh
    ướt lòng gà,…
    1.2.2. Một số khu ẩm thực đường phố trên thế giới
    1.2.2.1. Ẩm thực đường phố ở Trung Quốc
    Được UNESCO công nhận là “Thành phố ăn ngon” đầu tiên của
    Châu Á vào năm 2010, Thành Đô được biết đến nhiều nhất với món lẩu và
    món cay cùng loại gia vị địa phương hòa quyện với vị mặn, chua, ngọt vừa
    phải. Ngoài ra, du khách có thể thưởng thức ẩm thực đường phố với danh
    sách hơn 100 món ăn vặt tại các khu chợ Chendu Spice ( Thành Đô), chợ
    Lan Châu ( Cam Túc),…Hay địa danh Turpan (Tân Cương). Rất nhiều nhà
    hàng ngoài trời phục vụ khách dulịch bên cạnh khu nhà hàng sặc sỡ. Cừu
    kawop, ổ bánh mỳ siêu lớn xuất hiện ở bất kỳ quán ăn vỉa hè nào, cùng với
    các món ít phổ biến hơn như banshi – thịt cừu nấu với cà chua, đậu đen và
    rau mùi, hoặc thịt cừu chế biến với nghệ, sữa chua cho đến khi thịt chín
    mềm. Du khách có thể kết thúc bữa ăn với một chén sữa chua mát lành.
    1.2.2.2. Ẩm thực đường phố ở Mỹ
    New Orleán thuộc bang Louisiana không chỉ tuyệt vời bởi di sản văn
    hóa đa dạng mà ẩm thực nơi đây cũng cực kỳ độc đáo với hương vị từ ẩm
    thực Mỹ bản địa hay người Pháp cho tớinhững người Châu Phi sinh sống ở
    nơi đây,…Những món ăn nổi tiếng có thể kể đến như: Sandwich Po-Boy với
    nguyên liệu tôm tươi rán hay thịt bò kẹp trong bánh mì Pháp. Món Gumbo
    quả mướp tây, một loại rau vùng Tây Mỹ ăn với cơm cùng với bánh rán
    vuông rán vàng phủ bột đường,… Ngoài ra phải kể đến Seattle thuộc bang
    Washington cũng hấp dẫn du khách với các đặc sản như: cà phê, quả
    anh đào, đồ nướng, hải sản đều nằm trong danh sách những món ăn địa
    phương nhất định phải thử một lần trong đời nếu có dịp thăm vùng đất
    xinh đẹp này.

  24. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    13
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    1.2.2.3. Ẩm thực đường phố ở Australia
    Thành phố lớn thứ haicủa Australia là nơi có thể tìm thấy được
    mọi khẩu vị đến từ nhiều nơi trên thế giới. Với một lịch sử phong phú
    về những người nhập cư vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Melbourne
    có các khu ẩm thực cùng những món ăn đặc sắc nhất của Châu Âu, Mỹ
    Latin, Châu Á và Châu Phi. Đi xuống đường Londsdale để thưởng thức
    một vài món Hy Lạp ngon khó cưỡng hay tới Lygon Street để thưởng
    thức món Ý hoặc lang thang tới các khu phố người Hoa lâu đời nhất
    nằm trong Little Bourke Street, nơi mà bạn sẽ tìm thấy những quán ăn
    được mở từ những năm 1860.
    1.2.2.4. Ẩm thực đường phố ở Anh
    Vương quốc Anh là nơi tập trung văn hóa ẩm thực phong phú . Đầu
    tiên phải kể đến địa danh Stockbridge. Phố Stockbridge nằm ở trung tâm
    thung lũng Test, vốn là thị trấn chợ cổ và giờ đây là một điểm đến tuyệt vời
    cho những người yêu thích ẩm thực. Stockbridge không chỉ có quầy thịt, cửa
    hàng rượu tư,một số món cá ngon nhất nước Anh mà còn có một chuỗi quán
    rượu nổi tiếng. Đây chính là con phố ẩm thực số một của đất nước Sương
    mù. Ngoài ra thủ đô London cũng là một địa chỉ không thể bỏ qua bởi
    những khu chợ tấp nập như: Chợ Broadway được mệnh danh là thiên đường
    ẩm thực với hơn 100 quầy hàng ăn. Du khách có thể tìm thấy từ phô mai hảo
    hạng, đủ loại xúc xích, ô liu, thịt rừng và dưa muối tại khu chợ Broadway
    này hay chợ Borough là khu chợ rau và hoa quả cổ nhất ở London. Đây là
    một trong những điểm dừng chân lý tưởng hấp dẫn tất cả các đầu bếp, người
    nấu ăn, quản lý nhà hàng và những người yêu thích nấu nướng. Đến với khu
    chợ, du khách sẽ bị hấp dẫn bởi các loại thực phẩm, các quầy bán đồ ăn sẵn.
    Đặc biệt chợ Borough cũng nổi tiếng là nơi cung cấp các loại nông sản tươi
    của địa phương và những loại nguyên liệu tốt nhất trên thế giới.

  25. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    14
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    1.3. Tiểu kết chương 1
    Du lịch ẩm thực những năm vừa qua có vai trò quan trọng trong sự
    phát triển của đất nước, đóng góp lớn vào nguồn thu của ngành du lịch. Tiêu
    biểu là ẩm thực đường phố bởi trong đó, mỗi món ăn đều đem lại nhiều giá
    trị sâu sắc. Nó không chỉ là thực phẩm đáp ứng nhu cầu của con người mà ở
    đó mỗi món ăn còn là biểu tượng, là đặc sản vùng miền. Vi vậy ẩm thực
    đường phố ngày nay đang ngày càng phát triển trở thành một loại hình du
    lịch không chỉ ở Việt Nam mà còn cả trên thế giới. Từ châu Âu, châu Mỹ
    cho đến châu Á, châu Đại Dương, ẩm thực đường phố luôn đem đến sựhào
    hứng và bất ngờ cho mỗi vị khách du lịch.
    Ẩm thực đường phố là một kênh quảng bá tiềm năng và khá hiệu quả
    cho Du lịch Việt Nam. Nhiều kênh truyền hình và tạp chí ẩm thực thế giới
    đã làm phóng sự về ẩm thực Việt Nam như : Tạp chí Food and Wine, kênh
    truyền hình CNN, kênh NAT GEO Adventure…, trong đó ẩm thực đường
    phố được chú ý một cách đặc biệt bởi sự độc đáo và hấp dẫn. Những năm
    trở lại đây các khu ẩm thực đường phố được mở rộng ngày càng nhiều, thu
    hút lượng khách đông đảo đã góp phần đưa hình ảnh, đất nước con người
    Việt Nam gần hơn tới bạn bè quốc tế. Theo xu hướng phát triển của du lịch
    ẩm thực đặc biệt là ẩm thực đường phố, Hồ Chí Minh là một trong những
    thành phố năng động, hiện đại của nước ta có nhiều khu phố ẩm thực nổi
    tiếng, được du khách trong và ngoài nước biết đến, hứa hẹn là điểm đến
    không thể bỏ qua trong mỗi chuyến du lịch khi đến vùng đất Đông Nam Bộ.

  26. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    15
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    CHƯƠNG 2
    THỰC TRẠNG KHAI THÁC ẨM THỰC ĐƯỜNG PHỐ
    TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
    PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
    2.1. Khái quát về thành phố Hồ Chí Minh
    Thành phố Hồ Chí Minh (vẫn còn phổ biến với tên gọi cũ là Sài Gòn)
    là thành phố lớn nhất của Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những
    trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục quan trọng nhất cả nước.
    Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc Trung ương, được
    xếp loại đô thị đặc biệt cùng với thủ đô Hà Nội.
    2.1.1. Vị trí địa lý – Điều kiện tự nhiên
    2.1.1.1. Vị trí địa lý
    Thành phố Hồ Chí Minh có toạ độ 10°22′ – 11°22′ Bắc và 106°01′ –
    107°01′ Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, phía Đông giáp
    tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, phía Tây giáp tỉnh Long An, phía Nam
    giáp biển Đông và Tiền Giang. Nằm ở miền Nam Việt Nam, Thành phố Hồ
    Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm thành phố cách
    bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với vị trí gần tâm điểm của khu
    vực Đông Nam Á, thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan
    trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong
    vùng và còn là một cửa ngõ quốc tế.
    Thành phố Hồ Chí Minh gồm có bốn điểm cực: Cực Bắc là xã Phú
    Mỹ Hưng, huyện Củ Chi. Cực Tây là xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi. Cực Nam
    là xã Long Hòa, huyện Cần Giờ. Cực Đông là xã Thạnh An, huyện Cần Giờ.

  27. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    16
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    2.1.1.2. Điều kiện tự nhiên
    Địa hình, địa chất
    Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng
    sông Cửu Long, địa hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây
    sang Đông. Vùng cao nằm ở phía Bắc – Đông Bắc và một phần Tây Bắc,
    trung bình từ 10 đến 25m. Xen kẽ có một số gò đồi, cao nhất lên tới 32m
    như đồi Long Bình ở Quận 9. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía nam – Tây
    Nam và Ðông Nam thành phố, có độ cao trung bình trên dưới 1m, nơi thấp
    nhất là 0,5m. Các khu vực trung tâm, một phần các quận Thủ Đức, quận 2,
    toàn bộ huyện Hóc Môn và quận 12 có độ cao trung bình khoảng 5 tới 10m.
    Địa chất Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm chủ yếu là hai tướng trầm
    tích Pleistocen và Holocen lộ ra trên bề mặt. Trầm tích Pleistocen chiếm hầu
    hết phần Bắc, Tây Bắc và Đông Bắc thành phố. Dưới tác động của các yếu
    tố tự nhiên và hoạt động của con người, trầm tích phù sa cổ hình thành
    nhóm đất đặc trưng riêng là đất xám. Với hơn 45 nghìn hecta, tức khoảng
    23,4% diện tích thành phố, đất xám ở Thành phố Hồ Chí Minh có ba loại:
    đất xám cao, đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng và hiếm hơn là đất xám gley.
    Trầm tích Holocen ở Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều nguồn gốc: biển,
    vũng vịnh, sông biển, bãi bồi… hình thành nhiều loại đất khác nhau: nhóm
    đất phù sa biển với 15.100 ha, nhóm đất phèn với 40.800 ha và đất phèn
    mặn với 45.500 ha. Ngoài ra còn có một diện tích khoảng hơn 400 ha là
    “giồng” cát gần biển và đất feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng
    đồi gò.
    Thủy văn
    Về thủy văn, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai – Sài Gòn,
    Thành phố Hồ Chí Minh có mạng lưới sông ngòi và kênh rạch rất đa dạng.
    Sông Ðồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, hợp lưu bởi

  28. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    17
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    nhiều sông khác, có lưu vực lớn, khoảng 45.000 km². Với lưu lượng bình
    quân 20 – 500 m³/s, hàng năm cung cấp 15 tỷ m³ nước, sông Đồng Nai trở
    thành nguồn nước ngọt chính của thành phố. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ
    vùng Hớn Quản, chảy qua Thủ Dầu Một đến Thành phố Hồ Chí Minh,
    với chiều dài 200 km và chảy dọc trên địa phận thành phố dài 80km. Sông
    Sài Gòn có lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m³/s, bề rộng tại thành phố
    khoảng 225m đến 370m, độ sâu tới 20m. Nhờ hệ thống kênh Rạch Chiếc,
    hai con sông Đồng Nai và Sài Gòn nối thông ở phần nội thành mở rộng.
    Một con sông nữa của Thành phố Hồ Chí Minh là sông Nhà Bè, hình thành
    ở nơi hợp lưu hai sông Đồng Nai và Sài Gòn, chảy ra biển Đông bởi hai ngả
    chính Soài Rạp và Gành Rái. Trong đó, ngả Gành Rái là đường thủy chính
    cho tàu ra vào bến cảng Sài Gòn. Ngoài các con sông chính, Thành phố Hồ
    Chí Minh còn có một hệ thống kênh rạch chằng chịt như: Láng The, Bàu
    Nông, Rạch Tra, Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc-Thị
    Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm, Kênh Tẻ – Kênh Đôi, Tàu Hủ,… Hệ thốngsông,
    kênh rạch giúp Thành phố Hồ Chí Minh trong việc tưới tiêu, nhưng do chịu
    ảnh hưởng dao động triều bán nhật của biển Ðông, thủy triều thâm nhập sâu
    đã gây nên những tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu
    thoát nước ở khu vực nội thành.
    Nhờ trầm tích Pleistocen, khu vực phía bắc Thành phố Hồ Chí Minh
    có được lượng nước ngầm khá phong phú. Nhưng về phía nam, trên trầm
    tích Holocen, nước ngầm thường bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Khu vực nội
    thành cũ có lượng nước ngầm đáng kể, tuy chất lượng không thực sự tốt
    nhưng vẫn được khai thác, chủ yếu ở ba tầng: 0 – 20 m, 60 – 90 m và 170 –
    200 m (tầng trầm tích Miocen). Tại quận 12, huyện Hóc Môn và huyện Củ
    Chi, chất lượng nước tốt, trữ lượng dồi dào, thường được khai thác ở tầng 60
    -90 m, trở thành nguồn nước bổ sung quan trọng.

  29. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    18
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    Thời tiết, khí hậu
    Nằm trong vùng nhiệt đới xavan, cũng như một số tỉnh Nam Bộ khác,
    Thành phố Hồ Chí Minh không có bốn mùa: xuân, hạ,thu, đông. Nhiệt
    độ cao đều và mưa quanh năm (mùa khô ít mưa). Trong năm, Thành phố Hồ
    Chí Minh có 2 mùa là biến thể của mùa hè: mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa
    mưa được bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11 (khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ cao
    mưa nhiều), còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau (khí hậu khô,
    nhiệt độ cao và mưa ít). Trung bình, Thành phố Hồ Chí Minh có 160 tới 270
    giờ nắng/tháng, nhiệt độ trung bình 27 °C, cao nhất lên tới 40 °C, thấp nhất
    xuống 13,8 °C. Hàng năm, thành phố có 330 ngày nhiệt độ trung bình 25 tới
    28 °C. Lượng mưa trung bình của thành phố đạt 1.949 mm/năm, trong đó
    năm 1908 đạt cao nhất 2.718 mm, thấp nhất xuống 1.392 mm vào năm 1958.
    Một năm, ở thành phố có trung bình 159 ngày mưa, tập trung nhiều nhất vào
    các tháng từ 5 tới 11, chiếm khoảng 90%, đặc biệt hai tháng 6 và 9. Trên
    phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố không đều, khuynh
    hướng tăng theo trục Tây Nam – Ðông Bắc. Các quận nội thành và các
    huyện phía bắc có lượng mưa cao hơn khu vực còn lại.
    Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là
    gió mùa Tây – Tây Nam và Bắc – Ðông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ
    Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Gió Bắc – Ðông Bắc
    từ biển Đông, tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào mùa khô. Ngoài ra còn có gió
    mậu dịch theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5,
    trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không
    có gió bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào
    mùa mưa (80%), và xuống thấp vào mùa khô (74,5%). Bình quân độ ẩm
    không khí đạt 79,5%/năm.
    Với những biến đổi khí hậu, Hồ Chí Minh thuộc danh sách 10 thành
    phố trên thế giới bị đe dọa vì nguy cơ mực nước biển dâng cao. Theo dự tính

  30. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    19
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    của Liên Hiệp Quốc thì đến năm 2050 nước biển sẽ dâng 26 cm và 70% khu
    đô thị Thành phố Hồ Chí Minh sẽ bị ngập lụt. Ngân hàng Phát triển Á
    châu ước lượng hậu quả là thiệt hại kinh tế lên đến hàng tỷ USD.
    2.1.2. Lịch sử hình thành – tổ chức hành chính và kinh tế – xã hội.
    2.1.2.1. Lịch sử hình thành
    Vùng đất này ban đầu được gọi là Prey Nokor, thành phố sau đó hình
    thành nhờ công cuộc khai phá miền Nam của nhà Nguyễn.
    Năm 1698,Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời
    của thành phố. Khi Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác
    thuộc địa, thành phố được thành lập với tên gọi Sài Gòn và nhanh
    chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam.
    Sài Gòn cũng là thủ đô của Liên bang Đông Dương giai đoạn 1887 –
    1901 (về sau, Pháp chuyển thủ đô Liên bang Đông Dương ra Hà Nội).
    Năm 1949, Sài Gòn trở thành thủ đô của Quốc gia Việt Nam, một chính
    thể thuộc Liên bang Đông Dương và sau này là thủ đô của Việt Nam Cộng
    hòa. Kể từ đó, thành phố này trở thành một trong những đô thị quan trọng nhất
    của miền Nam Việt Nam. Sau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trong sự kiện 30
    tháng 4 năm 1975, lãnh thổ nước ta được hoàn toàn thống nhất. Ngày 2 tháng
    7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên Sài
    Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh, theo tên vị Chủ tịch nước đầu tiên của
    nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
    2.1.2.2. Tổ chức hành chính
    Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là một trong 5 thành phố trực thuộc
    Trung ương của Việt Nam. Về mặt hành chính, thành phố được chia thành
    19 quận và 5 huyện. Trong đó có 322 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm
    259 phường, 58 xã và 5 thị trấn. Hệ thống quản lý hành chính nhà nước trên
    địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 976 địa chỉ, trong đó 47 thuộc trung

  31. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    20
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    ương, 73 thuộc thành phố, 549 thuộc các quận, huyện và 307 thuộc cấp
    phường xã. Các tổ chức đoàn thể, chính trị bao gồm cấp trung ương và thành
    phố có 291 địa chỉ, các đơn vị sự nghiệp có 2.719 địa chỉ.
    2.1.2.3. Kinh tế
    Sau khi các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất trong tháng 12/2018 để
    chuẩn bị hàng dự trữ, phục vụ nhu cầu tiêu dùng Tết dương lịch và Tết
    nguyên đán, sang tháng 01/2019 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước
    tính chỉ bằng 92,39% so với tháng trước. Trong đó, hoạt động khai khoáng
    giảm 59,93%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 7,44%; ngành cung cấp
    nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,47%; ngành sản xuất và
    phân phối điện giảm 0,94%. Tuy nhiên, chỉ số sản xuất toàn ngành công
    nghiệp ước tính tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng của
    năm 2018. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 7,51%; ngành công nghiệp
    chế biến, chế tạo tăng 5,1%; ngành sản xuất và phân phối điện có mức tăng
    trưởng cao nhất 10,82%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải,
    nước thải tăng 1,25%.
    Về 4 ngành công nghiệp trọng điểm: Chỉ số sản xuất công nghiệp của
    4 ngành trọng điểm tháng 1 tăng 1,23% so với tháng trước và tăng 5,13% so
    với tháng cùng kỳ, cao hơn chỉ số chung toàn ngành. Ngành chế biến lương
    thực thực phẩm, đồ uống có mức tăng 3,91% so với cùng kỳ, trong đó sản
    xuất sữa và các sản phẩm từ sữa; sản xuất sản phẩm mì, phở, bún, miến cháo
    ăn liền tăng cao. Ngành hóa dược tăng chậm 1,37% so với cùng kỳ vì một số
    công ty sản xuất hóa chất đã chuyển nhà máy khỏi thành phố hoặc thu hẹp
    sản xuất để chuyển sang các tỉnh khác, mặt khác công ty ngành dược gặp
    khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Ngành cơ khí tăng 3,55% so với
    cùng kỳ. Ngành sản xuất hàng điện tử tăng 17,73%, là ngành có chỉ số sản
    xuất tăng cao nhất do có thị trường tiêu thụ ổn định và các doanh nghiệp
    thường xuyên ứng dụng các công nghệ mới, hiện đại. Trong đó nổi bật là

  32. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    21
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    những loại sản phẩm điện tử sử dụng chip thương hiệu Việt (bo mạch điều
    khiển chiếu sáng đường, khóa xe container…) và một số sản phẩm đầu cuối
    đã được đưa vào sản xuất đại trà được các công ty khu công nghệ cao của
    thành phố thực hiện. Ngoài ra vốn đầu tư xây dựng thuộc ngân sách thành
    phố tháng 1/2019 ước thực hiện 415,6 tỷ đồng, bằng 93,3% so với cùng kỳ
    năm trước. Cấp thành phố ước thực hiện 329,2 tỷ đồng, chiếm 79,2%; cấp
    quận huyện ước thực hiện 185,4 tỷ đồng, chiếm 20,8%.
    Từ ngày 1/1/2019 đến ngày 20/1/2019, trên địa bàn thành phố đã có
    68 dự án có vốn nước ngoài được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn
    đăng ký đạt 32,7 triệu USD. Trong đó, hình thức đầu tư 100% vốn nước
    ngoài có 59 dự án, vốn đầu tư 20,9 triệu USD, liên doanh 9 dự án, vốn đầu
    tư 11,8 triệu USD. Điều chỉnh vốn đầu tư có 11 dự án (bao gồm các dự án
    tăng và giảm vốn), số vốn tăng 4,7 triệu USD. Tổng vốn đầu tư cấp phép
    mới và điều chỉnh vốn đến ngày 20/1/2019 đạt 37,4 triệu USD, bằng 39,4%
    so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, thành phố đã có 191 dự án góp vốn,
    mua cổ phần, mua lại phần vốn góp là 452,7 triệu USD, tăng gấp 3,8 lần so
    với cùng kỳ năm trước.
    Tổng kim ngạch xuất khẩu bao gồm dầu thô ước thực hiện tháng 01/
    2019 đạt 2.848,7 triệu USD, tăng 2,2% so tháng trước và giảm 7,4% so cùng
    kỳ. Loại trừ dầu thô ước tính tháng 1 đạt 2.619,7 triệu USD, giảm 7,6% so
    cùng kỳ. Chia ra: Thành phần kinh tế nhà nước đạt 359,7 triệu USD, chiếm
    tỷ trọng 12,6%, tăng 15,9%. Thành phần kinh tế ngoài nhà nước đạt 892,5
    triệu USD, chiếm tỷ trọng 31,3%, giảm 17,6%. Thành phần kinh tế có vốn
    đầu tư nước ngoài đạt 1.596,4 triệu USD, chiếm tỷ trọng 56,0%, giảm 5,1%.
    Thị trường xuất khẩu chủ yếu: đứng đầu là Trung Quốc với 558,7 triệu
    USD, chiếm tỷ trọng 19,6%, giảm 0,6% so cùng kỳ; vị trí thứ 2 là Hoa Kỳ
    với 498,8 triệu USD, chiếm 17,5%, giảm 6,0%; vị trí thứ 3 là Nhật Bản với
    282,5 triệu USD, chiếm 9,9%, tăng 3,0%; vị trí thứ 4 là Hồng Kông với

  33. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    22
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    135,3 triệu USD, chiếm 4,7%, giảm 12,4%; vị trí thứ 5 là Hàn Quốc với
    130,3 triệu USD, chiếm 4,6%, giảm 13,2% so với cùng kỳ.
    Tổng kim ngạch nhập khẩu tháng 01/2019 ước đạt 3.838,7 triệu USD,
    tăng 2,4% so với tháng trước và tăng 7,9% so cùng kỳ. Chia ra: Thành phần
    kinh tế nhà nước đạt 126,2 triệu USD, chiếm tỷ trọng 3,3%, giảm 22,0%.
    Thành phần kinh tế ngoài nhà nước đạt 2.079,9 triệu USD, chiếm tỷ trọng
    54,2%, tăng 3,7%. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1.632,5
    triệu USD, chiếm tỷ trọng 42,5%, tăng 17,4%; Thị trường nhập khẩu chủ
    yếu: đứng đầu là Trung Quốc với 1.363,9 triệu USD, chiếm tỷ trọng 35,5%,
    tăng 30,0% so cùng kỳ; vị trí thứ 2 là Singapore với 352,4 triệu USD, chiếm
    9,2%, giảm 3,8%; vị trí thứ 3 là Hàn Quốc với 289,5 triệu USD, chiếm
    7,5%, giảm 8,7%; vị trí thứ 4 là Thái Lan với 239,5 triệu USD, chiếm 6,2%,
    giảm 16,4%; vị trí thứ 5 là Hoa Kỳ với 197,3 triệu USD, chiếm 5,1%, tăng
    16,0% so cùng kỳ.
    2.1.2.4. Dân cư – Xã hội
    Theo kết quả tổng hợp sơ bộ do Ban chỉ đạo Tổng điều tra thành phố
    công bố, dân số của thành phố đến thời điểm 23/01/2019 là 8.859.688 người,
    tăng 64.823 người so với thời điểm 30/6/2018 (số liệu dân số của thành phố
    đến thời điểm 30/6/2018 là 8.794.865 người). Như vậy trong thời kỳ khoảng
    10 năm 2009 – 2019 tốc độ tăng dân số bình quân của thành phố là 2,15%
    năm. Bình quân một năm thành phố tăng khoảng 170.000 người. Trong các
    thập niên gần đây, thành phố Hồ Chí Minh luôn có tỷ số giới tính thấp
    nhất Việt Nam, luồng nhập cư từ các tỉnh khác vào Thành phố Hồ Chí Minh
    luôn có số nữ nhiều hơn số nam. Thành phố Hồ Chí Minh gặp phải tình
    trạng quá tải dân số, tạo áp lực lớn lên nền kinh tế và đời sống người dân.
    Sự phân bố dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh không đồng đều. Trong
    khi một số quận như 4, 5, 10 và 11 có mật độ lên tới trên 40.000 người/km²,
    thì huyện ngoại thành như Cần Giờ có mật độ tương đối thấp 98 người/km.

  34. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    23
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    Về mức độ gia tăng dân số, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên khoảng 1,07% thì tỷ
    lệ tăng cơ học lên tới 2,5%. Những năm gần đây,dân số các quận trung tâm
    có xu hướng giảm, trong khi dân số các quận mới lập vùng ven tăng nhanh,
    do đón nhận dân từ trung tâm chuyển ra và người nhập cư từ các tỉnh đến
    sinh sống.
    Những khu vực tập trung nhiều người nước ngoài hay Việt kiều sinh
    sống tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo thành một nét rất riêng đó là những
    khu chợ, cửa hàng,dịch vụ, món ăn đặc sản của nước đó. Có thể kể đến: Phố
    Mã Lai tập trung người Mã Lai, người Chăm tại đường Nguyễn An Ninh;
    phố Hàn Quốc tại đường Hậu Giang đến các đường lân cận thuộc Phường 4,
    quận Tân Bình; phố Nhật Bản tại giao lộ Thái Văn Lung – Lê Thánh Tôn
    thuộc phường Bến Nghé, quận 1, khu đô thị Phú Mỹ Hưng (Năm 2018, Phú
    Mỹ Hưng có trên 30.000 người sinh sống, chiếm hơn 50% là người nước
    ngoài đến từ hàng chục quốc gia, đông hơn cả vẫn là công dân các nước và
    vùng lãnh thổ châu Á, nhiều nhất đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,
    Trung Quốc,…)
    2.1.3. Tài nguyên du lịch nhân văn ở Thành phố Hồ Chí Minh
    2.1.3.1. Tài nguyên vật thể
    Cho đến tháng 5/2017, thành phố đã có 172 di tích được xếp hạng
    gồm: 56 di tích quốc gia, trong đó có 24 di tích lịch sử, 30 di tích kiến trúc
    nghệ thuật, 2 di tích quốc gia đặc biệt và 114 di tích cấp thành phố. Trong
    đó tiêu biểu là các công trình, di tích sau đây:
    Di tích Giồng Cá Vồ
    Giồng Cá Vồ là một di tích khảo cổ nằm ở ấp Hòa Hiệp, xã Long
    Hòa, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đây nằm trên một giồng
    đất đỏ, có diện tích khoảng 7.000 mét vuông, cao hơn khoảng 1,5 mét so với
    mặt đất hiện tại, phần chân giồng thường xuyên bị ngập mặn.

  35. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    24
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    Cách cửa biển 5km, Cần Giờ có nhiều gò nổi, người dân địa phương
    gọi là Giồng. Một số Giồng có diện tích lớn như: Giồng cá vồ, Giồng phệt,
    Giồng cá trăng,… Cá Vồ là một Giồng đất đỏ rộng 7. 000m2
    , cao 1,5m nằm
    tả ngạn sông Hà Thanh, cách bờ sông chừng 100m. Các nhà khảo cổ đã phát
    hiện năm 1993. Đến năm 1994, tiến hành khai quật 230m2
    diện tích. Tầng
    văn hoá dày đến 1,50m, gồm 4 lớp: đất canh tác đến độ sâu 0,3m; đất đỏ
    bazan từ 0,3-0,7m; đất đen xốp lẫn nhiều gốm than tro từ 0,7 -0,9m; đất đỏ
    vàng nhiều gốm từ 0,9m-1,5m. Qua 2 lần đào thám sát và khai quật, các nhà
    khảo cổ bước đầu xác nhận đây là di chỉ cư trú sản xuất gốm là khu mộ táng
    của người xưa và phát hiện có 38 ngôi mộ chum trong đó 23 mộ có di cốt
    người. Bên cạnh đó còn phát hiện được nhiều đồ tùy táng bằng gốm, đá,
    thủy tinh, vỏ nhuyễn thể, sắt,… hiện vật chủ yếu là đồ trang sức. Ngày 2
    tháng 4 năm 1994, Bộ Văn hóa Thông tin đã ban ban hành giấy phép số
    181/VHQĐ để kịp thời bảo vệ di tích trước sự phá hủy của tự nhiên và quá
    trình canh tác ở địa phương. Từ ngày 26 tháng 4 năm 1995 đến ngày 21
    tháng 6 năm1995, các nhà Khảo cổ học Bảo tàng Lịch sử Việt Nam thành
    phố Hồ Chí Minh, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Viện Khảo cổ học đã
    tiến hành khai quật di tích này. Hiện đã tìm thấy gần 350 mộ chum và 10 mộ
    đất. Di vật trong mộ là hài cốt người, đặc biệt trong các mộ chum còn khá
    nguyên vẹn. Phần lớn di cốt trong chum được người cổ mai táng theo tư thế
    ngồi bó gối. Chum mai táng ở Giồng Cá Vồ có hai loại mộ cổ và mộ đất,
    trong đó mộ đất chiếm ưu thế trên 90% và hai loại này đều chưa thấy trong
    bất kỳ một di tích mộ chum nào ở Đông Nam Á. Số lượng chum nhiều, với
    sự thống nhất của phương thức và đồng nhất của loại hình chum mai táng
    cho thấy táng thức của cư dân Giồng Cá Vồ đã tồn tại khá lâu dài và ổn định
    như một truyền thống độc đáo ở khu vực Đông Nam Á. Các nhà khảo cổ xác
    định: đây là khu mộ táng thuộc văn hoá tiền khảo cổ học Sa Huỳnh, chủ
    nhân là cư dân bản địa, thể hiện rõ nét của chủng Mongoloid. Hiện nay, các
    di vật từ cuộc khai quật khảo cổ di tích ở nơi đây đang được lưu giữ và trưng

  36. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    25
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    bày tại một số bảo tàng lớn như Bảo tàng Lịch sử quốc gia ở Hà Nội, Bảo
    tàng Lịch sử Việt Nam ở Thành phố Hồ Chí Minh và Bảo tàng Lịch sử-Văn
    hóa Nam bộ thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc
    gia Thành phố Hồ Chí Minh, nhằm giới thiệu về lịch sử Việt Nam trong giai
    đoạn tiền sơ sử trong những thế kỷ cuối TCN.
    Ngày 13 tháng 4 năm 2000, giồng Cá Vồ được công nhận là di tích
    khảo cổ học cấp quốc gia theo Quyết định số 06/2000-QĐ-BVHTT của Bộ
    Văn hóa Thông tin.
    Dinh Thống Nhất
    Đây là một trong những di tích ghi dấu sự kiện chính trị quan trọng,
    có ý nghĩa quyết định đến định hướng phát triển của thành phố. Dinh Độc
    Lập (tên gọi trước đây là dinh Norodom, ngày nay còn gọi là dinh Thống
    Nhất hay hội trường Thống Nhất) là một công trình kiến trúc, tòa nhà ở
    Thành phố Hồ Chí Minh. Nó từng là nơi ở và làm việc củaTổng thống Việt
    Nam Cộng hòa. Hiện nay, nó đã được chính phủ Việt Namxếp hạng di tích
    quốc gia đặc biệt. Công trình được thiết kế xây dựng trên diện tích 4.500 m²,
    trên khuôn viên đất rộng 120.000 m², gồm: 1 tầng nền, 3 tầng chính, 1 sân
    thượng, 2 gác lửng, 1 tầng hầm kiên cố gồm 100 phòng: phòng làm việc của
    Tổng thống, phòng khánh tiết, phòng họp hội đồng nội các, phòng làm việc,
    phòng trình ủy nhiệm thư, phòng đại yến,… Ngoài tòa nhà chính, dinh còn
    có hồ sen bán nguyệt, bồn hoa, vườn cây cảnh. Dinh cao 26m, tọa lạc trong
    khuôn viên rộng 12 ha rợp bóng cây. Giữa những năm 1960, đây là công
    trình có quy mô lớn nhất miền Nam và có chi phí xây dựng cao nhất
    (khoảng 150.000 lượng vàng).
    Địa đạo Củ Chi
    Đây là một trong những di tích ghi dấu chiến công chống xâm lược
    của quân và dân ta. Địa đạo Củ Chi là một hệ thống phòng thủ trong lòng

  37. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    26
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    đất ở huyện Củ Chi, cách Thành phố Hồ Chí Minh hơn 70km về hướng tây-
    bắc, nằm giữa sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông. Hệ thống này được
    Việt Minh và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Namđào trong
    thời kỳ Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam. Hệ thống địa
    đạo bao gồm bệnh xá, nhiều phòng ở, nhà bếp, kho chứa, phòng làm việc, hệ
    thống đường ngầm dưới lòng đất. Hệ thống bí mật này được đào từ năm
    1948 với khoảng 17km. Sau năm 1960, hệ thống tiếp tục được củng cố và
    phát triển dài hơn 200 km. Địa đạo Củ Chi được xây dựng trên vùng đất
    được mệnh danh là “đất thép thành đồng”, nằm ở điểm cuối Đường mòn Hồ
    Chí Minh. Trong Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, Mặt trận Dân tộc Giải
    phóng miền Nam Việt Nam đã sử dụng hệ thống địa đạo này để tấn công
    vào Sài Gòn. Địa đạo đào trên một khu vực đất sét pha đá ong nên có độ bền
    cao, ít bị sụt lở. Hệ thống địa đạo nằm sâu dưới lòng đất, có thể chịu được
    sức công phá của các loại bom tấn lớn nhất của quân đội Mỹ. Không khí
    được lấy vào địa đạo thông qua các lỗ thông hơi. Các khu vực khác nhau của
    địa đạo có thể được cô lập khi cần. Ðường hầm sâu dưới đất từ 3 – 10m,
    chiều cao chỉ đủ cho một người đi lom khom. Căn hầm đầu tiên ở ngay bìa
    rừng có giếng ngầm cung cấp nguồn nước uống và sinh hoạt cho toàn khu
    vực địa đạo. Hệ thống địa đạo gồm 3 tầng, từ đường “xương sống” toả ra vô
    số nhánh dài, nhánh ngắn ăn thông nhau, có nhánh trổ ra tận sông Sài Gòn.
    Tầng một cách mặt đất 3m, chống được đạn pháo và sức nặng của xe tăng,
    xe bọc thép. Tầng 2 cách mặt đất 5m, có thể chống được bom cỡ nhỏ. Còn
    tầng cuối cùng cách mặt đất 8-10m. Ðường lên xuống giữa các tầng hầm
    được bố trí bằng các nắp hầm bí mật. Bên trên nguỵ trang kín đáo, nhìn như
    những ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ thông hơi. Liên hoàn với địa đạo có
    các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực, có giếng nước,
    có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ huy, hầm giải phẫu… Còn có cả hầm lớn,
    mái lợp thoáng mát, nguỵ trang khéo léo để xem phim, văn nghệ.

  38. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    27
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    Năm 2015, khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi đón nhận danh
    hiệu Anh hùng Lao động do có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động,
    sáng tạo. Trong 20 năm hoạt động, khu di tích đón hơn 20 triệu lượt khách
    trong và ngoài nước tới tham quan, tìm hiểu. Ngày 12 tháng 2 năm 2016,
    khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi đón nhận Bằng xếp hạng Di tích quốc gia
    đặc biệt. Ngày nay, địa đạo Củ Chi còn khoảng 120 km được bảo vệ và đã
    trở thành một điểm du lịch hấp dẫn cho du khách đến thăm Thành phố Hồ
    Chí Minh. Du khách, đặc biệt là các vị lãnh đạo Đảng, nguyên thủ Quốc gia
    của Việt Nam và các nước cùng nhiều cựu chiến binh,… thường chọn điểm
    tham quan này khi đến thăm Thành phố Hồ Chí Minh.
    Bưu điện Thành phố
    Bưu điện trung tâm Sài Gòn là một trong những công trình kiến
    trúc tiêu biểu tại Thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc tại số 2, Công trường
    Công xã Paris, quận 1. Đây là tòa nhà được người Pháp xây dựng vào năm
    1886 đến năm 1890 thì khánh thành với phong cách châu Âu theo đồ án
    thiết kế của kiến trúc sư Villedieu cùng phụ tá Foulhoux. Đây là công trình
    kiến trúc mang phong cách phương Tây kết hợp với nét trang trí phương
    Đông.Nếu hệ thống cửa sổ của khối nhà hai bên đều có hình vòm cung hoặc
    hơi vòm thì riêng tại khối nhà giữa, các cửa sổ lại có hình chữ nhật. Trên các
    ô có đắp hình các nam nữ đội vòng nguyệt quế, trên vòng cung ngôi nhà có
    chiếc đồng hồ lớn. Những đường viền, đường chỉ hay hoa văn chạy ngang
    như muốn kéo thấp tòa nhà Bưu điện Trung tâm Thành phố, tạo thành
    những đường trang trí khỏe khoắn và đăng đối, gợi nhớ đến những nhà ga xe
    lửa ở châu Âu. Vào phía trên trong, hai bên tường cao là hai bản đồ lịch sử
    mang tên: Saigon et ses environs, 1892 và Lignes télégraphiques du Sud
    Vietnam et du Cambodge, 1936.Tại đây hiện có 35 quầy phục vụ khách
    hàng với đủ các dịch vụ bưu phẩm cùng mạng lưới điện báo rộng khắp đến
    các địa phương trong nước và các nước trên thế giới. Trần nhà hình vòm

  39. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    28
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    cung tương ứng với cửa ra vào được nâng đỡ bởi hai hàng trụ và hệ thống vĩ
    kèo bằng sắt, nổi bật với thiết kế công phu có các đấu nối là những hoa văn
    đẹp. Hệ thống cột, trụ của phần mặt tiền đều có kết cấu hình khối vuông
    vắn, trên đầu trụ có gắn những mảng phù điêu với hoa văn đắp nổi rất công
    phu. Riêng ở phần trụ khoảng giữa tầng hai và tầng trệt của tòa nhà Bưu
    điện Trung tâm Thành phố, các mảng phù điêu lại ôm trọn phiến đá hình
    chữ nhật, trên mỗi phiến đá ghi tên một nhà khoa học đã có những đóng góp
    to lớn cho nền văn minh nhân loại trong lĩnh vực điện và điện tín.
    Trải qua hơn trăm năm tồn tại, tòa nhà Bưu điện Trung tâm Sài Gòn
    hiện vẫn là một công trình kiến trúc đẹp và ấn tượng, tạo nên điểm nhấn độc
    đáo cho thành phố Hồ Chí Minh.
    Nhà thờ Đức Bà
    Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn – tên chính thức: Vương cung
    thánh đường chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội là nhà thờ chính
    tòa củaTổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, một trong những công
    trình kiến trúc độc đáo đối với du khách trong và ngoài nước.
    Công trình được khởi công xây dựng ngày 7/10/1877 và được khánh
    thành vào ngày 11/4/1880 với tổng kinh phí là 2,5 triệu Phờ-răng. Nội thất
    thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai
    dãy nhà nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 133m. Chiều ngang nơi
    rộng nhất là 35 m. Chiều cao của tháp là 57 m, sáu đại hồng chung nặng
    25,850kg đặt dưới 2 lầu chuông. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới
    1.200 người. Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi
    bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Bàn thờ nơi Cung Thánh
    làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng
    vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm
    điêu khắc diễn tả thánh tích. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang và kế
    đó là nhiều nhà nguyện nhỏ với những bàn thờ về các thánh (hơn 20 bàn

  40. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    29
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    thờ) cùng các bệ thờ 14 chặng Đàng Thánh Giá làm bằng đá trắng khá tinh
    xảo. Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc
    sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng
    kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét,
    gờ chỉ, hoa văn đều tuân thủ theo hình thức Roman và Gôtich, tôn nghiêm
    và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn bốn cửa là
    nguyên vẹn như xưa, còn các cửa kính màu khác đều đã được làm lại. Mặt
    trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo thành
    hình thánh giá. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình
    (hay Nữ vương Hòa bình). Bức tượng cao 4,6 m và nặng 8 tấn, làm bằng
    đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không
    đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết
    điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu,
    trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn, mắt
    Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho
    thế giới được hoà bình.
    Chùa Giác Lâm
    Chùa Giác Lâm là một trong những ngôi chùa cổ nhất củaThành phố
    Hồ Chí Minh. Đây chính là tổ đình của phái Thiền Lâm Tế Tông ở miền
    Nam Việt Nam.
    Chùa tọa lạc tại số 565 (số cũ 118) đường Lạc Long Quân, thuộc
    phường 10, quận Tân Bình và đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa –
    Thông tin) công nhận là di tích lịch sử – văn hóa quốc gia của Việt Nam theo
    quyết định số 1288-VH/QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988.
    Chùa Giác Lâm hiện nay có lối kiến trúc chữ Tam (Ξ) gồm ba dãy
    nhà ngang nối liền nhau: chính điện, giảng đường và nhà trai. Chùa nguyên
    thủy không có cổng tam quan (cổng tam quan chỉ mới được xây dựng vào
    năm 1955), mái chùa gồm 4 vạt và các sống mái đều thẳng. Năm 2007, khởi

  41. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    30
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    công xây dựng khu giảng đường và tăng xá. Chính điện với kiểu nhà dân
    gian truyền thống một gian hai chái, bốn cột chính hay còn gọi là tứ trụ. Bên
    trong điện khá rộng và sâu, có 56 cột to hơn vòng tay ôm màu nâu sẫm. Cột
    nào cũng được chạm khắc câu đối, thiếp vàng công phu. Giữa các hàng cột
    là các cửa võng, cũng được thiếp vàng, chạm trổ các đề tài trang trí truyền
    thống như tứ linh, tứ quý, hoa điểu,…Trong chính điện bày trí theo kiểu “tiên
    bái Phật, hậu bái Tổ”. Phía trước chính điện thờ các tượng A Di Đà, Thích
    Ca, Di Lặc. Hai bàn thờ hai bên phải trái, có tượng Quan Thế Âm và Thế
    Chí. Ngoài ra, ở đây còn có tượng Cửu Long, dọc hai bên tường có bộ
    tượng Thập Bát La Hán, bộ tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng Tổ Bồ Đề
    Đạt Ma và tượng Long Vương. Đằng sau chính điện là bàn thờ Tổ, thờ các
    vị Hòa thượng đã trụ trì tại chùa Giác Lâm. Đối diện với bàn thờ Tổ là các
    bàn thờ: Phật Chuẩn Đề, Phật A Di Đà và sau cùng là bàn thờ Thập Điện
    Diêm Vương.Ở gian này, vào thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và
    đế quốc Mỹ, được dùng làm cơ sở hậu cần, nuôi chứa cán bộ, làm công tác
    trinh sát nội thành. Trước chùa là bảo tháp xá lợi gồm bảy tầng hình lục
    giác. Tháp được khởi công xây dựng từ năm 1970 theo bản vẽ của kiến trúc
    sư Vĩnh Hoằng, đến năm 1975 thì tạm ngưng cho đến 1993 mới được tiếp
    tục. Bên trái của chùa là khu mộ tháp của các vị hòa thượng đã trụ trì ở đây,
    trong số ấy có tháp Tổ Phật Ý-Linh Nhạc, tháp Thiền sư Tổ Tông-Viên
    Quang. Ngoài ra, trước sân chùa có đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát dưới
    bóng cây bồ đề. Cây do Đại đức Narada mang từ Sri Lanka (Tích Lan) sang
    trồng vào ngày 18 tháng 6 năm 1953.
    Trên các cột chính của chùa đều có khắc câu đối (gồm 86 câu) thếp
    vàng công phu. Đáng chú ý có câu đối của Hiệp trấn Trịnh Hoài Đức (treo ở
    gian thờ Tổ) và câu đối của Mộc Ân đệ tử phụng cúng vào năm Gia
    Long thứ 3 (1804).

  42. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    31
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    Khu du lịch văn hóa Đầm Sen
    Công viên Văn hoá Đầm Sen là công viên giải trí nằm trên đường
    Hòa Bình, quận 11. Công viên có diện tích 50 hecta gồm 20% là mặt hồ và
    60% cây xanh và vườn hoa, giáp đường Lạc Long Quân và Hòa Bình. Toàn
    công viên trải dài trên một diện tích rộng gồm 30 khu vực: Khu trò chơi điện
    tử, Sân khấu cổ tích, Lâu đài cổ tích, Sân khấu quảng trường, Hồ Tây thu
    nhỏ, Nam tú thượng uyển, Non bộ – thủy cung, Ðảo khiêu vũ, Khu trò
    chơi thiếu nhi, Ðèn tạo hình, Cầu cửu khúc, Nhà ga Monorail,…
    Hòn non bộ cao 22m với nhiều thác ghềnh mà tầng hang động lớn
    nhất được bố trí thành thủy cung với đủ các loài cá nhiều màu. Rồi Nam tú
    thượng uyển với một hệ thống vườn phong lan phong phú và đa dạng. Với
    đối tượng thiếu niên ưa hiếu động trong công viên có khá nhiều sân chơi hấp
    dẫn: sân trượt patanh, xe ô tô điện, tàu trượt cao tốc, công viên nước… Ngồi
    trên tàu chạy trên cao 5m so với mặt đất và với chiều dài gần 2.000m du
    khách có thể quan sát toàn bộ cảnh trí công viên Ðầm Sen với góc nhìn đẹp
    nhất. Công trình gây ấn tượng nhiều nhất có lẽ là vườn châu Âu – Quảng
    trường La Mã: đây là hệ thống vườn hoa kiểu châu Âu được tạo dáng bằng
    các bồn hoa hồng nhiều màu sắc, các cột trụ La Mã uy nghi, những tượng đá
    duyên dáng và sân khấu nhạc nước gồm 3.000 chỗ ngồi.
    Sân khấu Laser Nhạc Nước được xây dựng năm 2005 với số vốn đầu
    tư 12 tỷ đồng, vị trí nằm phía sau vườn hoa châu Âu, sân khấu có mái che
    với sức chứa 3.000 chỗ ngồi. Sân khấu Laser Nhạc Nước là một loại hình
    nghệ thuật độc đáo, hiện đại duy nhất tại Việt Nam mà các kỹ sư Đầm Sen
    đã học được từ mô hình nhạc nước ở đảo Sentosa (Singapore). Đây là sự kết
    hợp giữa chương trình ca nhạc với sân khấu thiết kế chuyên biệt có hệ thống
    phun nước và đèn laser, chiếu phim trên màn hình nước cao 28m. Phối hợp
    yếu tố nghệ thuật với kỹ thuật, những vòi phun nước chuyển động huyền ảo
    với ánh sáng, màu sắc và âm nhạc. Đầm Sen là một trong những khu du lịch

  43. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    32
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    lớn đặc sắc nhất nước Việt Nam. Kiến trúc được kết hợp một cách hoàn mĩ
    nền văn hóa Đông – Tây và một chút vẻ đẹp thời La Mã. Ngoài những khu
    vui chơi, Đầm Sen còn có những nhà hàng, khách sạn và hàng chục các loại
    hình khác để phục vụ khách du lịch. Đầm Sen là nơi vui chơi giải trí rất hấp
    dẫn cho du khách trong và ngoài nước.
    2.1.3.2. Tài nguyên phi vật thể
    Nghệ thuật đờn ca tài tử
    Đờn ca tài tử Nam bộ là dòng nhạc dân tộc của Việt Nam đã
    đượcUNESCOcông nhận là di sản văn hóa phi vật thể. Đờn ca tài tử xuất
    hiện hơn 100 năm trước, là loại hình diễn tấu có ban nhạc gồm bốn loại là
    đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu (gọi là tứ tuyệt), sau này có cách tân
    bằng cách thay thế độc huyền cầm bằng cây guitar phím lõm.
    Tại Thành phố Hồ Chí Minh, đề án nhằm bảo tồn giá trị của Nghệ
    thuật Đờn ca tài tử về bài bản cũng như phong cách trình diễn, sinh hoạt và
    mục đích hoạt động nghệ thuật của nghệ nhân, tài tử. Đồng thời thử nghiệm,
    tìm tòi xây dựng những hình thức trình diễn mới phù hợp với điều kiện phát
    triển kinh tế – văn hóa và du lịch của Thành phố, phát huy các hình thức sinh
    hoạt, truyền nghề, thi đua sáng tạo, tranh tài nghệ thuật để không ngừng
    nâng cao chất lượng đờn ca và sáng tạo ra các giá trị mới cho Đờn ca tài tử.
    Sở Văn hóa và Thể thao sẽ triển khai các hoạt động giới thiệu, quảng bá,
    tuyên truyền về nghệ thuật Đờn ca tài tử đến mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là
    học sinh, sinh viên và công nhân, truyền dạy thí điểm ở một số quận, huyện
    hiện có hoạt động này phát triến mạnh điển hình, vận động sáng tác, tố chức
    trại sáng tác, tố chức đi thực tế các cơ sở kinh tế, giáo dục, đi về nguồn cho
    nghệ nhân, nhạc sĩ hưởng ứng tham gia vận động sáng tác, ưu tiên sáng tác
    lời mới cho các bài bản nhạc cổ,… Cuối năm 2018, toàn Thành phố có 221
    câu lạc bộ Đờn ca tài tử đang hoạt động, với số thành viên là 2.677 người ở
    hầu hết các quận-huyện, duy trì sinh hoạt và biểu diễn phục vụ nhân dân.

  44. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    33
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    Ngoài ra, Uý ban Nhân dân Thành phố cũng sẽ ban hành chế độ chính sách
    đãi ngộ vật chất và tinh thần cho lực lượng hoạt động Đờn ca tài tử; nghiên
    cứu, ban hành chính sách đãi ngộ, tôn vinh những cá nhân đã có những đóng
    góp cho nghệ thuật Đờn ca tài tử. Hằng năm, trung tâm Văn hóa Thành phố
    Hồ Chí Minh thường tổ chức các chương trình liên hoan Đờn ca tài tử như:
    giải “Hoa sen vàng”, “ Búp sen vàng”,…giành cho mọi lứa tuổi nhằm phát
    triển loại hình nghệ thuật này.
    Lễ hội nghinh Ông
    Hàng năm,từ ngày 15 dến 17 tháng 8 âm lịch tại lăng Ông Thủy tướng
    được vua Tự Đức ban sắc phong: “Nam Hải tướng quân” thuộc Xã Cần
    Thạnh, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh đều diễn ra lễ tế rất trang
    trọng của ngư dân Cần Giờ để tưởng nhớ công ơn cá “Ông”. Lễ hội còn có
    các tên gọi khác như: Lễ rước cốt Ông, Lễ cầu ngư, Lễ tế cá Ông, Lễ cúng
    Ông, Lễ nghinh Ông, Lễ nghinh Ông Thủy tướng… Nhưng tất cả đều có
    chung một quan niệm rằng cá “Ông” là thần bảo trợ nghề cá và các nghề trên
    biển nói chung, và từ đó trở thành tín ngưỡng của ngư dân.
    Ngày 15/8 không khí lễ hội đã diễn ra nhộn nhịp ở bên ngoài lăng với
    nhiều hoạt động văn hoá sôi nổi. Sang ngày 16/8, các vị trong hội lăng trong
    trang phục chỉnh tề làm lễ rước kiệu của Nam hải Tướng quân xuống thuyền
    rồng ra biển. Đoàn ghe nghinh xuất phát tại bến đò Cần Giờ. Dọc theo
    đường rước, ngư dân sống trên biển và bà con hai bên phố bày lễ vật nghênh
    đón, khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thuỷ tướng, có hàng
    trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển
    nghênh ông. Trước mũi ghe là hương án và mâm lễ vật. Trên các ghe lớn
    nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước
    đi khoảng hai giờ thì quay về bến nơi xuất phát, rước Ông về lăng ông Thuỷ
    tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng.
    Khi rước ông vào lăng, các nghi thức đón và tế diễn ra trang trọng, đúng với

  45. Khóa luận tôt

    nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
    34
    SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
    nghi thức cổ truyền. Các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng
    ông Thuỷ tướng. Ngoài lăng, có các hoạt động văn hoá văn nghệ. Sáng 17/8
    tại lăng ông Thuỷ tướng diễn ra lễ tôn vương ông Thuỷ tướng theo sắc
    phong. Lễ cúng có hát thờ. Sau phần lễ tôn ông theo sắc phong cũng là lúc
    chấm dứt lễ hội.
     Một số làng nghề thủ công truyền thống
    Làng nem Thủ Đức
    Đất Thủ Đức là để chỉ các quận Thủ Đức, quận 2, quận 9 bây giờ. Để
    đáp ứng cho nhu cầu của khách đối với món nem danh tiếng, xứ Thủ Đức đã
    từng có tới hàng trăm lò nem, mà điểm tập trung đông nhất là ven chợ Thủ
    Đức. Mỗi lò nem có bí quyết riêng, nhưng cũng có những nguyên tắc chung
    để có thể cùng nhau giữ gìn thanh danh làng nghề. Nhiều lò nem dựng gần
    nhau, tạo thành một làng nghề, gọi là làng nem Thủ Đức. Người ta tới Thủ
    Đức, thường ghé vô các quán này ăn nem, lại còn phải mua mấy đùm về làm
    quà biếu, để chứng tỏ với bà con là cái món mà mình và các bậc tiền bối vẫn
    hay ca ngợi kia không phải hữu danh vô thực.
    Làng hoa Gò Vấp
    Danh gọi “Làng Hoa Gò Vấp” xuất phát từ những gia đình nghệ nhân
    lâu đời về hoa Kiểng. Trải qua hàng trăm năm, trồng hoa và làm hoa kiểng
    với đủ thế dáng có thu nhập cao đã trở thành một nghề truyền thống mang
    tính uyên bác đầy tài năng, thể hiện vẻ đẹp nghệ thuật trong tâm hồn vốn
    yêu thiên nhiên của người dân Gò Vấp, khiến nơi đây trở thành vùng cung
    cấp hoa kiểng chủ lực cho Thành phố. Hoa Gò Vấp qua sự mở rộng làm ăn
    của các gia đình làm nghề đã du ngoạn không chỉ trong Thành phố mà còn
    đến khắp các vùng miền đất nước, thậm chí giao lưu với cả những xứ sở nổi
    tiếng về hoa trên thế giới như: Pháp, Hà Lan, Đài Loan, Singapo, Nhật,
    Thụy Sĩ,… Các nhà sản xuất hoa của nước bạn thường đặt mối hợp tác với