Đề tài Tìm hiểu ẩm thực đường phố tại thành phố hồ chí minh phục vụ phát triển du lịch sdt/ ZALO 09345 497 28
- BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
——————————-
ISO 9001:2015
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH : VIỆT NAM HỌC (VĂN HÓA DU LỊCH)
Sinh viên : Nguyễn Thanh Hương
Giảng viên hướng dẫn: Đào Thị Thanh Mai
HẢI PHÒNG – 2019 - BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
———————————–
TÌM HIỂU ẨM THỰC ĐƯỜNG PHỐ TẠI THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY
NGÀNH: VIỆT NAM HỌC (VĂN HÓA DU LỊCH)
Sinh viên : Nguyễn Thanh Hương
Giảng viên hướng dẫn: Đào Thị Thanh Mai
HẢI PHÒNG – 2019 - BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG
————————————–
NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hương Mã SV: 1412402094
Lớp : VH1802 Ngành: Việt Nam học (Văn hóa du lịch)
Tên đề tài: Tìm hiểu ẩm thực đường phố tại Thành phố Hồ Chí Minh – phục
vụ phát triển du lịch - NHIỆM VỤ ĐỀ
TÀI
1. Nội dung và các yêu cầu cần giải quyết trong nhiệm vụ đề tài tốt
nghiệp
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
2. Các tài liệu, số liệu cần thiết
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
3. Địa điểm thực tập tốt nghiệp
Khách sạn DASOM
333 Văn Cao, Đằng Lâm, Hải An, Hải Phòng. - CÁN BỘ HƯỚNG
DẪN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
Họ và tên : Đào Thị Thanh Mai
Học hàm, học vị : ThS
Cơ quan công tác : Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
Nội dung hướng dẫn: Tìm hiểu ẩm thực đường phố tại Thành phố Hồ Chí
Minh – phục vụ phát triển du lịch
Đề tài tốt nghiệp được giao ngày 24 tháng 12 năm 2018
Yêu cầu phải hoàn thành xong trước ngày 05 tháng 04 năm 2019
Đã nhận nhiệm vụ ĐTTN Đã giao nhiệm vụ ĐTTN
Sinh viên Giảng viên hướng dẫn
Nguyễn Thanh Hương ThS. Đào Thị Thanh Mai
Hải Phòng, ngày 05 tháng 04 năm 2019
HIỆU TRƯỞNG
GS.TS.NGƯT Trần Hữu Nghị - CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
PHIẾU NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN TỐT NGHIỆP
Họ và tên giảng viên: ThS. Đào Thị Thanh Mai
Đơn vị công tác: Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thanh Hương Chuyên ngành: Văn hóa du lịch
Đề tài tốt nghiệp: Tìm hiểu ẩm thực đường phố tại Thành phố Hồ Chí Minh -phục vụ phát triển
du lịch
1. Tinh thần thái độ của sinh viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp
Thực hiện nghiêm túc các yêu cầu để phục vụ nội dung nghiên cứu.
Có ý thức kỷ luật tốt, chăm chỉ, chịu khó học hỏi.
Hoàn thành đề tài đúng thời hạn.
2. Đánh giá chất lượng của khóa luận
– Về lý luận, tác giả đã nêu khái quát, phân tích và đưa ra các cơ sở lý luận về du
lịch nông nghiệp.
– Về thực tiễn, tác giả đã nêu và đánh giá thực trạng và có giải pháp để phát triển
du lịch nông nghiệp.
– Đề tài đáp ứng yêu cầu đề ra về lý luận và thực tiễn, đạt chất lượng tốt của khóa
luận tốt nghiệp đại học ngành Việt Nam học (Văn hóa du lịch).
3. Ý kiến của giảng viên hướng dẫn tốt nghiệp
Được bảo vệ Không được bảo vệ Điểm
hướng dẫn
Hải Phòng, ngày 05 tháng 04 năm 2019
Giảng viên hướng dẫn
ThS. Đào Thị Thanh Mai - MỤC LỤC
Lời mởđầu ………………..….……………………………….…….…………
1. Lý do chọn đề tài……….………………………………………..…………
2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài…………..……………………..…………
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu……….………………..……………
4. Phương pháp nghiên cứu …………………………………….…………..
5. Bố cục của bài khóa luận…………………………………………………
Chương 1: Tổng quan về loại hình du lịch ẩm thực và du lịch ẩm thực đường phố
…………………………………………………..……………
1.1. Cơ sở lý luận về loại hình du lịch ẩm thực ………………………….
1.1.1. Khái niệm về ẩm thực……………….…………………………………
1.1.2. Khái niệm về du lịch ẩm thực và du lịch ẩm thực đường phố….
1.1.2.1. Khái niệm du lịch về ẩm thực ……………………………………….
1.1.2.2. Khái niệm về du lịch ẩm thực đường phố…………………………
1.1.3. Mối quan hệ giữa Ẩm thực và Du lịch……………………………..
1.2. GiớithiệudulịchẩmthựcđườngphốởViệtNamvàtrênthếgiới………
1.2.1. Một số khu ẩm thực đường phố ở Việt Nam ………………………
1.2.1.1. Ẩm thực đường phố ở Hà Nội………………..……………………..
1.2.1.2. Ẩm thực đường phố ở Hải Phòng ………………….………………
1.2.1.3. Ẩm thực đường phố ở Đà Nẵng …………………….…..…………
1.2.1.4. Ẩm thực đường phố ở Đà Lạt ………………………………………
1.2.2. Một số khu ẩm thực đường phố trên thế giới ……………………..
1.2.2.1. Ẩm thực đường phố ở Trung Quốc …………………………………
1.2.2.2. Ẩm thực đường phố ở Mỹ….………………………………………..
1.2.2.3. Ẩm thực đường phố ở Australia …………………………………….
1.2.2.4. Ẩm thực đường phố ở Anh…………………………………………..
1.3. Tiểu kết chương 1 …………………………………………..……………
Chương 2: Thực trạng khai thác ẩm thực đường phố tại thành phố Hồ Chí Minh –
phục vụ phát triển du lịch……….………….……………
1
1
2
3
3
3
4
4
4
5
5
6
7
8
8
8
9
10
11
12
12
12
13
13
14
15 - 2.1. Khái quát
về thành phố Hồ Chí Minh……………………………….
2.1.1. Vị trí địa lý – Điều kiện tự nhiên……………………………………..
2.1.1.1. Vị trí địa lý……………………………………………………………..
2.1.1.2. Điều kiện tự nhiên ………………..……………………………………
2.1.2. Lịch sử hình thành – tổ chức hành chính và kinh tế – xã hội…..
2.1.2.1. Lịch sử hình thành……………………………..…………………….
2.1.2.2. Tổ chức hành chính…………………………………………..………
2.1.2.3. Kinh tế…………………….……………………………………………
2.1.2.4. Dân cư – xã hội………………………………………………….…….
2.1.3. Tài nguyên du lịch nhân văn ở Thành phố Hồ Chí Minh ………
2.1.3.1. Tài nguyên vật thể …………………………………………….………
2.1.3.2. Tài nguyên phi vật thể ………………….………………………….…
2.2. Tìm hiểu về ẩm thực đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh…..……
2.2.1. Một số món ăn phổ biến từ trước năm 1975… … … … … … … …
2.2.1.1. Sủi cảo………………………………………………………………….
2.2.1.2. Phá lấu ……..…………………….…………………………………….
2.2.1.3. Hủ tiếu ………………………………………………………………….
2.2.1.4. Bột chiên ……………..…………………………………………………..
2.2.1.5. Phở ……………………………………………..………………………
2.2.1.6. Bánh xèo……………….……………………………………………….
2.2.1.7. Bánh mỳ Sài Gòn ……………………………………………………..
2.2.1.8. Cơm Tấm …………….…………………………………………………
2.2.2. Một số món ăn phổ biến ngày nay …..………………………………
2.2.2.1. Bánh tráng……….……………………………………………………..
2.2.2.2. Ốc…………….…………………………………………………………
2.2.2.3. Gỏi cuốn………………………………………………………………..
2.2.2.4. Súp cua…………………..…………………………………………….
2.2.2.5. Bánh kếp Thái ……..………………………………………………….
2.2.2.6. Bạch tuộc viên Nhật Bản………………………….…………………
15
15
15
16
19
19
19
20
22
23
23
32
35
35
35
35
36
36
37
37
37
38
38
38
39
39
40
40
41 - 2.2.2.7. Kimbap Hàn
Quốc……………………………………………………
2.2.2.8. Kem……………………………………………………………………..
2.3. Đánh giá thực trạng khai thác ẩm thực đường phố ở thành phố Hồ Chí
Minh………………………………………………………………..…
2.3.1. Đặc trưng của ẩm thực Thành phố Hồ Chí Minh…………………
2.3.2. Thực trạng khai thác ẩm thực đường phố trên một vài địa điểm tại Thành phố Hồ
Chí Minh…………………………………………………
2.3.2.1. Chợ Bến Thành, Lê Lợi – quận 1……………………………………
2.3.2.2. Con đường bán trái cây đĩa Nguyễn Cảnh Chân – quận 1………
2.3.2.3. Đường Nguyễn Thượng Hiền – quận 3..……………………………
2.3.2.4. Đường Cao Thắng – quận 3……………………………….………..
2.3.2.5. Hẻm 14, Trần Bình Trọng – quận 4……………………………..…
2.3.2.6. Phố ốc Vĩnh Khánh – quận 4……………………………………..…
2.3.2.7. Đường An Dương Vương – quận 5…………………………………
2.3.2.8. Phố Sủi Cảo Hà Tôn Quyền – quận 11…………….………………
2.3.3. Sự giống và khác nhau ở một vài món ăn đường phố ……………
2.3.3.1. Cơm tấm Sài Gòn và Kimbap Hàn Quốc ……………….…………
2.3.3.2. Bánh xèo và bánh kếp Thái Lan……………………………………
2.3.4. Ưu điểm của ẩm thực đường phố tại Thành phố Hồ Chí Minh trong phát triển du
lịch……………………………………………………….
2.3.5. Hạn chế của ẩm thực đường phố tại Thành phố Hồ Chí Minh trong phát triển du
lịch…………………………………………………………
2.4. Tiểu kết chương 2 ……………………………….………………………
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác ẩm thực đường phố phục vụ phát
triển du lịch Thành phố Hồ Chí Minh…………….
3.1. Định hướng phát triển du lịch thành phố Hồ Chí Minh đến năm
2030………………………………………………………………………..
3.1.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển du lịch…………………………….
3.1.2. Tiềm năng, thế mạnh của ẩm thực đường phố trong chính sách phát triển du lịch
………………………….……………………………………
41
41
42
42
43
43
44
44
44
45
45
45
46
46
46
49
52
53
54
55
55
55
56 - 3.2. Các giải
pháp cụ thể…………………………………………………….
3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý…………………….
3.2.2. Giải pháp về xúc tiến quảng bá………………………………………
3.2.3. Giải pháp về tổ chức hoạt động ẩm thực đường phố …………….
3.2.4. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch ẩm thực……………………………
3.2.5. Kết nối ẩm thực đường phố với các tuyến điểm du lịch trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh………………………………………………..
3.3. Tiểu kết chương 3……………………………………………………….
Kết luận ………………………………………………………………………….
Danh mục tài liệu ……………………………………………………………..
Phụ lục ………………………………………….……………………………….
58
58
61
63
64
65
68
69
70
71 - LỜI CẢM ƠN
Emxin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo của trường Đại học Dân
Lập Hải Phòng bởi suốt quãng thời gian bắt đầu học tập tại giảng đường đại học
đến nay, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ, đặc biệt là các thầy cô
trong Khoa Du lịch đã tận tình truyền đạt kiến thức cho em trong những năm
học vừa qua. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học tập em tin rằng
đó chính là hành trang quý báu cho con đường sự nghiệp của mình trong tương
lai. Không chỉ vậy, để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này, em xin tỏ lòng
tri ân sâu sắc đến Thạc sĩ Đào Thị Thanh Mai. Cô đã tận tình hướng dẫn em
trong việc lựa chọn đề tài nghiên cứu, hướng tiếp cận và giúp em chỉnh sửa
những điều còn thiếu sót. Trong quá trình nghiên cứu, do trình độ lý luận và
kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế gây ảnh hưởng đến bài khóa luận, em
rất mong sẽ nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô để em có thể
hoàn thiện tốt hơn.
Lời cuối cùng em xin kính chúc các thầy cô luôn dồi dào sức khỏe.
Em xin chân thành cảm ơn ! - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
1
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Nước Mỹ đã sinh ra những nhà hàng di động nhưng Việt Nam mới là
thiên đường ẩm thực đường phố. Không đâu lại có văn hóa ẩm thực đa dạng
như nơi này. Qua ẩm thực, một phần bản sắc văn hóa của Việt Nam đã được
gìn giữ và phát huy trong quá trình hội nhập, giao lưu văn hóa quốc tế”. Đó
là nhận định của tờ báo CNNGo (Mỹ) về ẩm thực Việt Nam.Văn hóa ẩm
thực Việt Nam luôn độc đáo và phong phú trên mọi phương diện. “Một đất
nước nhỏ bé mà thức ăn lại tinh tế và đa đạng đến đáng kinh ngạc. Mỗi
thành phố, thậm chí mỗi ngôi làng đều có món đặc sản riêng”. Đây cũng là
ấn tượng chung của nhiều du khách sau khi thưởng thức những món ăn dân
dã tại Việt Nam.Và trong con mắt những du khách ấy, có một phần không
thể bỏ qua đó chính là ẩm thực đường phố, đặc biệt là trên những con phố
của mảnh đất Hồ Chí Minh. Cùng với đó, hãng thông tấn CNN đã đánh giá
Thành phố Hồ Chí Minh là thủ đô ẩm thực của nước ta.Không chỉ vậy từ
nhiều năm trước, ẩm thực đường phố ở Việt Nam nói chung và ở Thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng đã được rất nhiều tạp chí nước ngoài nhắc đến như:
Tạp chí ẩm thực thế giới Food and Wine đã bình chọn Thành phố Hồ Chí
Minh là một trong những thành phố có món ăn đường phố ngon hàng đầu,
trong đó món chả giò, bánh mì được nhiều tạp chí bình chọn là một trong 12
món ăn ngon nhất thế giới.
Với thành tích trên, văn hóa ẩm thực có một vai trò đóng góp không
nhỏ trong việc thu hút khách du lịch quốc tế và nội địa. Với cách tiếp cận
kinh tế và giao lưu văn hóa vùng miền trong nước và quan hệ quốc tế,
nghiên cứu văn hóa ẩm thực nói chung và văn hóa ẩm thực đường phố nói
riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh là một vấn đề cấp thiết để phát triển du lịch
trong quá trình đổi mới hiện nay và cho tương lai. Đặc biệt là ở các đô thị
đông dân khi mà giá cả sinh hoạt tăng cao khiến nhiều người dân chấp nhận - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
2
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
sử dụng các loại thức ăn đường phố. Theo một số liệu điều tra của Trung
tâm dinh dưỡng Thành phố Hồ Chí Minh thì tại đây có tới 95,5% người dân
đang sử dụng thức ăn đường phố trong đó 51% dùng làm bữa ăn hàng ngày,
82% dùng làm bữa ăn sáng. Sở dĩ các món ẩm thực đường phố hấp dẫn đến
thế, bởi tất cả chúng đều rất dễ dàng để thưởng thức. Chỉ cần bước chân vào,
ngồi xuống và sẽ có người mang ra. Tất cả nguyên liệu đều thật sự đơn giản
và không khó kiếm tìm nhưng lại được kết hợp với nhau rất tinh tế đến khó
tin. Mỗi món đi kèm với một loại gia vị, nước chấm đặc trưng thể không
thay thế. Các món ăn nhiều rau củ quả, không nhiều dầu mỡ như đồ ăn
Trung Quốc, không cay như đồ ăn Thái Lan cũng không nhiều thịt như đồ
ănTây Âu.
Có thể nói văn hóa ẩm thực đã và đang trở thành một trong những bậc
thang quan trọng nhất đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam đến
với bạn bè quốc tế. Và trong bậc thang ấy, văn hóa ẩm thực đường phố có lẽ
là viên gạch vững chắc nhất. Ẩm thực không đơn thuần là món ăn, nó là cái
hồn của đất nước, của dân tộc. Những điều được trình bày trên đây chính là
lý do em chọn “Tìm hiểu ẩm thực đường phốThành phố Hồ Chí Minh – phục
vụ phát triển du lịch” để làm đề tài cho bài khóa luận của mình với mong
muốn đem lại cái nhìn toàn diện về ẩm thực đường phố Hồ Chí Minh, góp
phần giúp cho ẩm thực đường phố ngày càng được quan tâm đầu tư và khai
thác hiệu quả hơn.
2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Trước hết, đề tài tìm hiểu cơ sở lý luận về du lịch ẩm thực và du lịch
ẩm thực đường phố, cung cấp những ví dụ điển hình về các khu ẩm thực
đường phố ở Việt Nam và trên thế giới.
Mục đích chính của đề tài là tìm hiểu ẩm thực đường phố Sài Gòn và
khai thác thực trạng để từ đó đưa ra các đề xuất, giải pháp phát triển ẩm thực
đườngphố Hồ Chí Minh, phục vụ phát triển du lịch thành phố. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
3
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng nghiên cứu:Tìm hiểu ẩm thực đường phố Thành phố Hồ
Chí Minh nhằm phục vụ phát triển du lịch.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Là một trong những phương
pháp quan trọng được sử dụng trong đề tài nghiên cứu khoa học cũng như
trong khóa luận. Trên cơ sở thu thập thông tin tư liệu từ nhiều nguồn khác
nhau như: sách, báo, đài, tivi, tạp chí, mạng internet…, từ đó người viết có
cái nhìn chọn lọc, xử lý thông tin đưa ra những nhận xét đánh giá ban đầu
với những kết luận về vấn đề nghiên cứu cụ thể là ẩm thực đường phố ở
Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp so sánh, thống kê, phân tích và tổng hợp các thông tin
số liệu liên quan đến đề tài, từ đó tìm ra định hướng, giải pháp phát triển du
lịch mang hiệu quả cao, mang tính khoa học và thực tiễn trong phạm vi
nghiên cứu mà đề tài thực hiện.
5. Bố cục của bài khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của đề tài có bố cục gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về loại hình du lịch ẩm thực và du lịch ẩm thực
đường phố.
Chương 2: Thực trạng khai thác ẩm thực đường phố tại Thành phố Hồ
Chí Minh – phục vụ phát triển du lịch
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác ẩm thực đường phố
-phục vụ phát triển du lịch Thành phố Hồ Chí Minh. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
4
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ LOẠI HÌNH DU LỊCH ẨM THỰC
VÀ DU LỊCH ẨM THỰC ĐƯỜNG PHỐ
1.1. Cơ sở lý luận về loại hình du lịch ẩm thực
1.1.1. Khái niệm ẩm thực
Ngay từ khi những bước chân đầu tiên của con người in dấu trên Trái
Đất, ngay từ thời kì bình minh của nhân loại, việc ăn uống đã được coi như
là một nhu cầu cần thiết để duy trì sự sống của sinh vật sống nói chung và
con người nói riêng. Tuy nhiên ở thời kì cổ đại đó, thực phẩm vẫn còn khan
hiếm buộc con người không có quyền lựa chọn thức ăn. Sau này, trải qua
hàng trăm triệu năm tiến hóa, thế giới ngày một văn minh hơn. Do đó,
những tri thức cơ bản đầu tiên về lĩnh vực ăn uống được hình thành, tạo nên
khái niệm đầu tiên về văn hóa ăn uống: ẩm thực.
Nghĩa hẹp: theo nghĩa Hán Việt thì ẩm nghĩa là uống, thực nghĩa là
ăn, nghĩa hoàn chỉnh là ăn uống, là một hệ thống đặc biệt về quan điểm
truyền thống và thực hành nấu ăn, nghệ thuật bếp núc, nghệ thuật chế biến
thức ăn, thường gắn liền với một nền văn hóa cụ thể. Nó thường được đặt
tên theo vùng hoặc nền văn hóa hiện hành. Một món ăn chủ yếu chịu ảnh
hưởng của các thành phần có sẵn tại địa phương hoặc thông qua thương mại,
buôn bán trao đổi.
Nghĩa rộng: ẩm thực có nghĩa là nền văn hóa ăn uống của một dân
tộc, đã trở thành một tập tục, thói quen. Ẩm thực không chỉ nói về “văn hóa
vật chất” mà còn nói về cả mặt “văn hóa tinh thần”. Những thực phẩm mang
màu sắc tôn giáo cũng mang nhiều ảnh hưởng rất lớn tới ẩm thực. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
5
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
Theo tác giả Nguyễn Văn Dương nghiên cứu về ẩm thực trong ngôn
ngữ, thì từ “ăn” trong tiếng việt có số lượng ngữ nghĩa và số lượng từ ghép
rất phong phú, có đến 15/20 ngữ nghĩa được nêu trong từ điển tiếng việt có
liên quan đến “ăn”.Sở dĩ từ ăn chiếm vị trí lớn ngôn ngữ và tư duy người
việt vì từ xưa đến đến đầu thế kỷ XX, nước ta đất hẹp, kỹ thuật chưa phát
triển, mức sống còn thấp do đó cái ăn luôn là yếu tố quan trọng nhất: “có
thực mới vực mới vực được đạo”, “dĩ thực vi tiên”. Bên cạnh ăn thì uống
không chiếm vị trí quan trọng trong ngôn ngữ Việt Nam. Ngoài nghĩa thông
thường là uống cho hết khát, từ “uống” trong từ ghép “ăn uống”có nghĩa là
uống rượu.
Theo PGS.TS Phan Thị Thu Hiền, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh: Ẩm thực là chế
biến đồ ăn thức uống có đủ dinh dưỡng, đủ năng lượng và có sức hấp dẫn
đối với nhiều đối tượng khác nhau. Đặc biệt trong tình trạng hiện nay, ẩm
thực phải đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong chuỗi cung ứng từ
đồng ruộng đến bàn ăn. Như vậy, ẩm thực vừa có tính nghệ thuật, vừa có
tính văn hóa và vừa mang tính xã hội.(Theo Tạp chí Khoa học Đại học Văn
Lang).
1.1.2. Khái niệm về du lịch ẩm thực và du lịch ẩm thực đường phố.
1.1.2.1. Khái niệm về du lịch ẩm thực
Năm 1985, Wilbur Zelinsky đã dùng thuật ngữ “Gastronomic
Tourism” với ý nghĩa là du lịch trải nghiệm ẩm thực. Năm 1998, Lucy M.
Long đưa ra thuật ngữ “Culinary Tourism” để chỉ hình thức du lịch khám
phá ẩm thực, đi sâu vào chế biến thực phẩm. Năm 2001, Colin Michael
Hall và Richard Michell sửdụng thuật ngữ “Food Tourism” để chỉ hình
thức du lịch tiếp xúc với người chế biến thực phẩm, tham gia lễ hội
ẩm thực, thưởng thức đồ ăn, thức uống đặc sản của địa phương. Năm 2015,
Ontario Culinary Tourism Alliance (OCTA) lại dùng thuật ngữ “Food - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
6
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
Tourism” với ý nghĩa du lịch tìm hiểu, đánh giá ẩm thực có tính văn hóacủa
địa phương hay dân tộc. Do đó, du lịch ẩm thực là loại hình du lịch tổ chức
và hướng dẫn du khách đến các điểm du lịch để tìm hiểu, thưởng thức, trải
nghiệm đồ ăn, thức uống có tínhnghệ thuật và văn hóa đặc thù của địa
phương, vùng miền, quốc gia. Thuật ngữ “Food Tourism” có thể được sử
dụng để chỉ loại hình du lịch ẩm thực.
Theo PGS.TS Phan Thị Thu Hiền, trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh: Du lịch ẩm thực
là quảng bá, tiếp thị, tổ chức, hướng dẫn du khách đến các điểm du lịch có
ẩm thực đặc sắc, độc đáo của địa phương, vùng miền, quốc gia.(Theo Tạp
chí Khoa học Đại học Văn Lang).
1.1.2.2. Khái niệm về du lịch ẩm thực đường phố
Ẩm thực đường phố hay thức ăn vỉa hè, thức ăn lề đường là các
loạithức ăn, đồ uống đã chế biến sẵn hay sẵn sàng chế biến và phục vụ tại
chỗ theo yêu cầu của khách hàng được bày bán trên vĩa hè, lề đường ở
các đường phố, khu phố đông người hoặc những nơi công cộng khác, chẳng
hạn như một siêu thị, công viên, khu du lịch, điểm giải trí, khu phố ăn
uống ngoài trời… thông thường thức ăn đường phố được bày bán trên các
tiệm ăn di động, quán ăn tạm thời hay là từ một gian hàng di động cho đến
các loại xe đẩy. Theo khái niệm của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), thức ăn
đường phố là những đồ ăn, thức uốngđược làm sẵn hoặc chế biến, nấu
nướng tại chỗ, có thể ăn ngay và được bày bán trên đường phố, những nơi
công cộng.
Du lịch ẩm thực đường phố là hành động du khách rời khỏi nơi cư trú
thường xuyên đi đến một nơi khác (có thể là một tỉnh thành khác hoặc thậm
chí là một quốc gia khác) để kết hợp việc thưởng thức các món ăn đường
phố với việc tậnhưởng kỳ nghỉ của họ nhằm tìm hiểu và khám phá tự nhiên,
văn hóa, lịch sử,conngười tại nơi họ đến. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
7
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
1.1.3. Mối quan hệ giữa ẩm thực và du lịch
Du lịch ẩm thực nhiều hơn chỉ là thưởng thức một bữa ăn ngon, một
chút bia hay một ly rượu vang trong suốt chuyến đi. Đó là cách chúng ta hòa
mình vào nền văn hóa và di sản của một khu vực, tạo ra những kỷ niệm
không thể quên theo một cách hoàn toàn khác biệt.
Theo báo cáo toàn cầu về du lịch ẩm thực của Tổ chức du lịch thế
giới, trung bình 1/3 ngân sách của khách du lịch được dành cho ẩm thực.
Điều này chỉ ra rằng yếu tố này là một phần trải nghiệm của khách du lịch.
Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng không phải tất cả khách du lịch chỉ
đến đó để thưởng thức những đồ ăn ngon, cũng không phải tất cả các doanh
nghiệp kinh doanh ẩm thực sẽ cung cấp dịch vụ này.
Trong ẩm thực ẩn chứa những giá trị văn hóa phi vật thể cốt lõi của
điểm đến và thông qua việc thưởng thức chúng, du khách có thể khám phá,
cảm nhận rõ nét bản sắc văn hóa chính thống của người dân địa phương. Khi
có cơ hội thưởng thức các món ăn mới lạ và hấp dẫn trong chuyến đi của
mình, du khách sẵn sàng đón nhận, bởi lẽ đó là một trong những hoạt động
trải nghiệm thú vị nhất gắn với tâm lý và sinh hoạt hàng ngày của mỗi con
người. Bên cạnh các yếu tố có thể làm thỏa mãn nhu cầu khách như thời tiết,
dịch vụ lưu trú, phong cảnh tham quan… thì ẩm thực góp phần gia tăng
đáng kể giá trị cho chuyến đi của khách du lịch cũng như tạo dựng hình ảnh
tốt đẹp về điểm đến đó. Đồng thời, ngoài việc là yếu tố tạo sức hấp dẫn, ẩm
thực còn đóng vai trò vô cùng quan trọng, tạo dấu ấn khác biệt giữa quốc gia
này với quốc gia khác. Bởi lẽ, bên cạnh bản sắc độc đáo của hương vị và
nghệ thuật chế biến tinh tế của từng món ăn, khi quảng bá, chúng thường
được đi kèm với tên thương hiệu của mỗi quốc gia. Ví dụ như: Ẩm thực Việt
Nam, ẩm thực Pháp, ẩm thực Mê Xi Cô,… Điều này giúp dễ dàng khắc sâu
vào tâm trí của du khách, dù đã từng hay chưa được trải nghiệm nhưng cũng
khiến họ phải quan tâm tìm hiểu và lưu giữ được những cảm nhận ban đầu - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
8
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
khó quên về điểm đến du lịch, qua đó góp phần tạo thêm động lực để họ
quyết định đi thăm cũng như quay trở lại điểm đến du lịch.
1.2. Giới thiệu ẩm thực đường phố ở Việt Nam và trên thế giớii
1.2.1. Một số khu ẩm thực đường phố ở Việt Nam
1.2.1.1. Ẩm thực đường phố ở Hà Nội
Phố ẩm thực Hàng Buồm
Phố Hàng Buồm được ví như một Hà Nội thu nhỏ hiện đại, tấp nập và
đông đúc.Thực khách có thể thưởng thức đồ ăn tại quán hoặc mang đi, vừa
dạo chơi phố cổ vừa nhâm nhi. Ngoài ra, cũng có nhiều loại chè hay nước ép
trái cây cho thực khách lựa chọn. Do hoạt động trùng với chợ đêm Hà Nội
nên phố ẩm thực Hàng Buồm thu hút rất nhiều các tín đồ ẩm thực trong
nước và du khách quốc tế.
Chợ Đồng Xuân
Đây là ngôi chợ lâu năm, nổi tiếng và đông đúc vào bậc nhất đất Hà
Thành. Không chỉ với người Hà Nội, chợ Đồng Xuân còn là địa chỉ ẩm thực
yêu thíchcủa rất nhiều du khách. Vào bất kì thời điểm nào cũng có thể tới
đây để tìm kiếm và thưởng thức vô vàn món ngon gồm cả bữa chính cùng
các món trángmiệng béo ngậy, giòn tan. Sau đó là món bún chả kẹp que tre
chuẩn chất Hà Nội, từ nguyên liệu tới cách chế biến đều cầu kì, tỉ mỉ. Nước
chua gia giảm của quán không phải chế từ dấm mà là sấu dầm tự làm, vị dịu
dàng vô cùng độc đáo.
PhốLý Quốc Sư
Một trong những thương hiệu phở nổi tiếng ở Hà Nội, được nhiều
người biết đến nhất nằm trên phố Lý Quốc Sư. Phở ở đây chỉ chuyên về bò
nhưng có đủ các loại tái, chín, nạm, gầu,.. tạo cho khách hàng mới đến lần - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
9
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
đầu có nhiều sự lựa chọn và khách hàng trung thành sẽ không bị nhàm chán.
Nước dùng phở rất đặc trưng, thơm mùi gia vị mà không bị béo. Ngoài ra
phải kể đến trà chanh. Dễ thấy hình ảnh du khách tấp nập đi lại và các bạn
trẻ tụ tập bên những quán trà chanh, nhất là những ngày cuối tuần.Trà
chanh, me muối, mơ muối là lựa chọn phổ biến. Mùa nào thức đấy, những ly
sấu đá hè có thể thay bằng ly ca cao, cà phê ấm nóng khi tiết trời Hà Nội
chuyển lạnh.
Phố Nhà Thờ
Ở phố Nhà Thờ, bạn có thể vừa ăn kem dừa kiểu Thái, vừa thưởng
thức món đồ ăn Nhật Bản, sau đó nhâm nhi một chiếc bánh pizza. Nếu
không, cũng có rất nhiều các hàng quán đồ ăn Việt hấp dẫn.Khu phố này
cũng có cả những quán cà phê kiểu Pháp xinh xắn, sang trọng, nằm ẩn mình
dưới những tán cây già cỗi. Thưởng thức ly cà phê nóng bên ban công, lặng
ngắm khu phố nhỏ, bạn sẽ có một buổi chiều thật tuyệt vời.
1.2.1.2. Ẩm thực đường phố Hải Phòng
Phố Cầu Đất
Là một trong những con đường trung tâm của thành phố Cảng, Cầu
Đất được biết đến với món Bánh đa cua nổi tiếng. Du khách có thể đến quán
Bánh đa cua Bà Cụ ở số 179 hay quán Bánh đa cua bể ở số 195, chắc chắn
sẽ làm hài lỏng cả những người khó tính nhất. Ngoài ra thực khách cũng có
thể thưởng thức món Bánh rán Bà Lạnghoặc nhiều loạibánh ngọt trong các
cửa tiệm lâu đời như: Kim Thanh, Thanh Lịch, Lâm Hương,…trên dọc con
phố này.
Phố Văn Cao
Người Hải Phòng hay nói vui rằng: “Muốn ăn lẩu hãy đến Văn Cao,
muốn ăn nướng hãy đến Hoàng Minh Thảo”. Nói như vậy để thấy được rằng
Lẩu chính là món ăn được bán phổ biến ở con phố này, đặc biệt là Lẩu cua - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
10
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
đồng. Ngoài ra đây còn là nơi sinh sống của rất nhiều người nước ngoài nên
đến đây du khách sẽ được trải nghiệm những món ăn độc đáo trong các nhà
hàng Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản,…
Chợ Cát Bi
Là khu chợ nổi tiếng với ẩm thực phong phú, chợ Cát Bi chính là
thiên đường ẩm thực của thành phố Hoa Phượng đỏ với khu nhà ăn rộng lớn
ngay chính trung tâm của chợ. Tại đây du khách sẽ được thưởng thức rất
nhiều món ăn hấp dẫn như: Giá bể xào, bánh đa, bánh bèo, cháo, ốc, các loại
chè,…Từ tầm 3 giờ chiều trở đi là khoảng thời gian thích hợp nhất để du
khách có thể thưởng thức tất cả các món ngon ở nơi đây.
1.2.1.3. Ẩm thực đường phố Đà Nẵng
Khu ẩm thực Phạm Hồng Thái
Khu phố ẩm thực Đà Nẵng này thường hoạt động náo nhiệt vào buổi
chiều khoảng từ 5h chiều cho đến 11h đêm. Đây là khu phố rất tuyệt vời
chonhững ai thích ăn khuya đa dạng nhiều món khác nhau vừa ngon bổ mà
lại rẻ nữa. Khu phố hội tụ tất cả những đặc sản của miền Trung vô cùng hấp
dẫn như: Bánh xèo, ốc hút, ram bắp,…Ngoài ra còn có những quán nhậu hải
sản bình dân rất được lòng thực khách.
Khu ẩm thực chợ Cồn
Đây là khu chợ có quy mô lớn ở Đà Nẵng là một địa điểm tham quan
mua sắm cũng như ăn uống tuyệt vời dành cho khách du lịch khi tới Đà
Nẵng. Đến phố ẩm thực Đà Nẵng này bạn tha hồ thưởng thức những món ăn
vặt nổi tiếng mực rim, ốc hút, chè, nem,..Bên cạnh đó khu chợ còn có rất
nhiều gian hàng bán đặc sản dành cho du khách mang về làm quà. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
11
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
Khu ẩm thực Ngũ Hành
Khu ẩm thực này được mở hàng ngày nhân dịp pháo hoa quốc tế. Đến
đây bạn có thể tham gia trò chơi và thưởng thức các món ăn đặc sản của Đà
Nẵng. Với diện tích rộng và có thể đáp ứng cho 4.000 khách hàng cùng sự
góp mặt của nhiều đầu bếp nổi tiếng như Thanh Hòa, Minh Nhật,…của
chương trình Master ChefViệt Nam, chắc chắn đây sẽ là một điểm dừng
chân thú vị.
Đường Bạch Đằng
Con đường này là một trong những đường đẹp nhất của thành phố,
nằm kề bên bờ sông Hàn. Du khách có thể lân la ở các quán ăn, quán cafe
như quán souvenir & cafe nằm ở địa chỉ 34 Bạch Đằng, quận Hải Châu, Đà
Nẵng. Bên cạnh đó còncó đặc sản dừa rất ngon ngọt, hay rau câu dừa, kem
xôi dừa,…địa chỉ 198, Bạch Đằng, Đà Nẵng.
1.2.1.4. Ẩm thực đường phố Đà Lạt
Khu ẩm thực truyền thống tại Đà Lạt Center
Nằm ở tầng 2 của khu chợ mới Đà Lạt Center với 16 quầy hàng liền
kề nhau là 16 mái nhà tranh. Ở đó phục vụ các món ăn như: Bún, phở, mì
Quảng, cơm, cháo, xắp xắp, bánh tráng trộn, bánh tráng nướng, bánh cuốn,
nem, bánh mì, hủ tiếu,…Tại khu ẩm thực truyền thống, ngoài các món ăn,
du khách còn có thể lựa chọn các loại chè đa dạng hay nước giải khát, nước
ép trái cây đặc trưng của Đà Lạt. Đó sẽ là lựa chọn khá lý tưởng để vừa tản
bộ, vừa có nhiều thứ để nhâm nhi.
Chợ đêm Đà Lạt
Chợ đêm nhộn nhịp, thu hút rất nhiều khách du lịch tới tham quan,
nơiđây luôn là một trong những địa điểm du lịch Đà Lạt được yêu thích. Du
kháchđến đây có thể để mua sắm đồ lưu niệm, quần áo hay thưởng thức
những mónăn vặt vừa ngon vừa rẻ làm nên danh tiếng của ẩm thực Đà Lạt - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
12
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
như: Bánh trángnướng, xiên nướng, sữa đậu nành, bánh bột lọc chén, bánh
ướt lòng gà,…
1.2.2. Một số khu ẩm thực đường phố trên thế giới
1.2.2.1. Ẩm thực đường phố ở Trung Quốc
Được UNESCO công nhận là “Thành phố ăn ngon” đầu tiên của
Châu Á vào năm 2010, Thành Đô được biết đến nhiều nhất với món lẩu và
món cay cùng loại gia vị địa phương hòa quyện với vị mặn, chua, ngọt vừa
phải. Ngoài ra, du khách có thể thưởng thức ẩm thực đường phố với danh
sách hơn 100 món ăn vặt tại các khu chợ Chendu Spice ( Thành Đô), chợ
Lan Châu ( Cam Túc),…Hay địa danh Turpan (Tân Cương). Rất nhiều nhà
hàng ngoài trời phục vụ khách dulịch bên cạnh khu nhà hàng sặc sỡ. Cừu
kawop, ổ bánh mỳ siêu lớn xuất hiện ở bất kỳ quán ăn vỉa hè nào, cùng với
các món ít phổ biến hơn như banshi – thịt cừu nấu với cà chua, đậu đen và
rau mùi, hoặc thịt cừu chế biến với nghệ, sữa chua cho đến khi thịt chín
mềm. Du khách có thể kết thúc bữa ăn với một chén sữa chua mát lành.
1.2.2.2. Ẩm thực đường phố ở Mỹ
New Orleán thuộc bang Louisiana không chỉ tuyệt vời bởi di sản văn
hóa đa dạng mà ẩm thực nơi đây cũng cực kỳ độc đáo với hương vị từ ẩm
thực Mỹ bản địa hay người Pháp cho tớinhững người Châu Phi sinh sống ở
nơi đây,…Những món ăn nổi tiếng có thể kể đến như: Sandwich Po-Boy với
nguyên liệu tôm tươi rán hay thịt bò kẹp trong bánh mì Pháp. Món Gumbo
quả mướp tây, một loại rau vùng Tây Mỹ ăn với cơm cùng với bánh rán
vuông rán vàng phủ bột đường,… Ngoài ra phải kể đến Seattle thuộc bang
Washington cũng hấp dẫn du khách với các đặc sản như: cà phê, quả
anh đào, đồ nướng, hải sản đều nằm trong danh sách những món ăn địa
phương nhất định phải thử một lần trong đời nếu có dịp thăm vùng đất
xinh đẹp này. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
13
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
1.2.2.3. Ẩm thực đường phố ở Australia
Thành phố lớn thứ haicủa Australia là nơi có thể tìm thấy được
mọi khẩu vị đến từ nhiều nơi trên thế giới. Với một lịch sử phong phú
về những người nhập cư vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Melbourne
có các khu ẩm thực cùng những món ăn đặc sắc nhất của Châu Âu, Mỹ
Latin, Châu Á và Châu Phi. Đi xuống đường Londsdale để thưởng thức
một vài món Hy Lạp ngon khó cưỡng hay tới Lygon Street để thưởng
thức món Ý hoặc lang thang tới các khu phố người Hoa lâu đời nhất
nằm trong Little Bourke Street, nơi mà bạn sẽ tìm thấy những quán ăn
được mở từ những năm 1860.
1.2.2.4. Ẩm thực đường phố ở Anh
Vương quốc Anh là nơi tập trung văn hóa ẩm thực phong phú . Đầu
tiên phải kể đến địa danh Stockbridge. Phố Stockbridge nằm ở trung tâm
thung lũng Test, vốn là thị trấn chợ cổ và giờ đây là một điểm đến tuyệt vời
cho những người yêu thích ẩm thực. Stockbridge không chỉ có quầy thịt, cửa
hàng rượu tư,một số món cá ngon nhất nước Anh mà còn có một chuỗi quán
rượu nổi tiếng. Đây chính là con phố ẩm thực số một của đất nước Sương
mù. Ngoài ra thủ đô London cũng là một địa chỉ không thể bỏ qua bởi
những khu chợ tấp nập như: Chợ Broadway được mệnh danh là thiên đường
ẩm thực với hơn 100 quầy hàng ăn. Du khách có thể tìm thấy từ phô mai hảo
hạng, đủ loại xúc xích, ô liu, thịt rừng và dưa muối tại khu chợ Broadway
này hay chợ Borough là khu chợ rau và hoa quả cổ nhất ở London. Đây là
một trong những điểm dừng chân lý tưởng hấp dẫn tất cả các đầu bếp, người
nấu ăn, quản lý nhà hàng và những người yêu thích nấu nướng. Đến với khu
chợ, du khách sẽ bị hấp dẫn bởi các loại thực phẩm, các quầy bán đồ ăn sẵn.
Đặc biệt chợ Borough cũng nổi tiếng là nơi cung cấp các loại nông sản tươi
của địa phương và những loại nguyên liệu tốt nhất trên thế giới. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
14
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
1.3. Tiểu kết chương 1
Du lịch ẩm thực những năm vừa qua có vai trò quan trọng trong sự
phát triển của đất nước, đóng góp lớn vào nguồn thu của ngành du lịch. Tiêu
biểu là ẩm thực đường phố bởi trong đó, mỗi món ăn đều đem lại nhiều giá
trị sâu sắc. Nó không chỉ là thực phẩm đáp ứng nhu cầu của con người mà ở
đó mỗi món ăn còn là biểu tượng, là đặc sản vùng miền. Vi vậy ẩm thực
đường phố ngày nay đang ngày càng phát triển trở thành một loại hình du
lịch không chỉ ở Việt Nam mà còn cả trên thế giới. Từ châu Âu, châu Mỹ
cho đến châu Á, châu Đại Dương, ẩm thực đường phố luôn đem đến sựhào
hứng và bất ngờ cho mỗi vị khách du lịch.
Ẩm thực đường phố là một kênh quảng bá tiềm năng và khá hiệu quả
cho Du lịch Việt Nam. Nhiều kênh truyền hình và tạp chí ẩm thực thế giới
đã làm phóng sự về ẩm thực Việt Nam như : Tạp chí Food and Wine, kênh
truyền hình CNN, kênh NAT GEO Adventure…, trong đó ẩm thực đường
phố được chú ý một cách đặc biệt bởi sự độc đáo và hấp dẫn. Những năm
trở lại đây các khu ẩm thực đường phố được mở rộng ngày càng nhiều, thu
hút lượng khách đông đảo đã góp phần đưa hình ảnh, đất nước con người
Việt Nam gần hơn tới bạn bè quốc tế. Theo xu hướng phát triển của du lịch
ẩm thực đặc biệt là ẩm thực đường phố, Hồ Chí Minh là một trong những
thành phố năng động, hiện đại của nước ta có nhiều khu phố ẩm thực nổi
tiếng, được du khách trong và ngoài nước biết đến, hứa hẹn là điểm đến
không thể bỏ qua trong mỗi chuyến du lịch khi đến vùng đất Đông Nam Bộ. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
15
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KHAI THÁC ẨM THỰC ĐƯỜNG PHỐ
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
2.1. Khái quát về thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh (vẫn còn phổ biến với tên gọi cũ là Sài Gòn)
là thành phố lớn nhất của Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những
trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục quan trọng nhất cả nước.
Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc Trung ương, được
xếp loại đô thị đặc biệt cùng với thủ đô Hà Nội.
2.1.1. Vị trí địa lý – Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Thành phố Hồ Chí Minh có toạ độ 10°22′ – 11°22′ Bắc và 106°01′ –
107°01′ Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, phía Đông giáp
tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, phía Tây giáp tỉnh Long An, phía Nam
giáp biển Đông và Tiền Giang. Nằm ở miền Nam Việt Nam, Thành phố Hồ
Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm thành phố cách
bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với vị trí gần tâm điểm của khu
vực Đông Nam Á, thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan
trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong
vùng và còn là một cửa ngõ quốc tế.
Thành phố Hồ Chí Minh gồm có bốn điểm cực: Cực Bắc là xã Phú
Mỹ Hưng, huyện Củ Chi. Cực Tây là xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi. Cực Nam
là xã Long Hòa, huyện Cần Giờ. Cực Đông là xã Thạnh An, huyện Cần Giờ. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
16
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
2.1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Địa hình, địa chất
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng
sông Cửu Long, địa hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây
sang Đông. Vùng cao nằm ở phía Bắc – Đông Bắc và một phần Tây Bắc,
trung bình từ 10 đến 25m. Xen kẽ có một số gò đồi, cao nhất lên tới 32m
như đồi Long Bình ở Quận 9. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía nam – Tây
Nam và Ðông Nam thành phố, có độ cao trung bình trên dưới 1m, nơi thấp
nhất là 0,5m. Các khu vực trung tâm, một phần các quận Thủ Đức, quận 2,
toàn bộ huyện Hóc Môn và quận 12 có độ cao trung bình khoảng 5 tới 10m.
Địa chất Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm chủ yếu là hai tướng trầm
tích Pleistocen và Holocen lộ ra trên bề mặt. Trầm tích Pleistocen chiếm hầu
hết phần Bắc, Tây Bắc và Đông Bắc thành phố. Dưới tác động của các yếu
tố tự nhiên và hoạt động của con người, trầm tích phù sa cổ hình thành
nhóm đất đặc trưng riêng là đất xám. Với hơn 45 nghìn hecta, tức khoảng
23,4% diện tích thành phố, đất xám ở Thành phố Hồ Chí Minh có ba loại:
đất xám cao, đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng và hiếm hơn là đất xám gley.
Trầm tích Holocen ở Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều nguồn gốc: biển,
vũng vịnh, sông biển, bãi bồi… hình thành nhiều loại đất khác nhau: nhóm
đất phù sa biển với 15.100 ha, nhóm đất phèn với 40.800 ha và đất phèn
mặn với 45.500 ha. Ngoài ra còn có một diện tích khoảng hơn 400 ha là
“giồng” cát gần biển và đất feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng
đồi gò.
Thủy văn
Về thủy văn, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai – Sài Gòn,
Thành phố Hồ Chí Minh có mạng lưới sông ngòi và kênh rạch rất đa dạng.
Sông Ðồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, hợp lưu bởi - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
17
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
nhiều sông khác, có lưu vực lớn, khoảng 45.000 km². Với lưu lượng bình
quân 20 – 500 m³/s, hàng năm cung cấp 15 tỷ m³ nước, sông Đồng Nai trở
thành nguồn nước ngọt chính của thành phố. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ
vùng Hớn Quản, chảy qua Thủ Dầu Một đến Thành phố Hồ Chí Minh,
với chiều dài 200 km và chảy dọc trên địa phận thành phố dài 80km. Sông
Sài Gòn có lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m³/s, bề rộng tại thành phố
khoảng 225m đến 370m, độ sâu tới 20m. Nhờ hệ thống kênh Rạch Chiếc,
hai con sông Đồng Nai và Sài Gòn nối thông ở phần nội thành mở rộng.
Một con sông nữa của Thành phố Hồ Chí Minh là sông Nhà Bè, hình thành
ở nơi hợp lưu hai sông Đồng Nai và Sài Gòn, chảy ra biển Đông bởi hai ngả
chính Soài Rạp và Gành Rái. Trong đó, ngả Gành Rái là đường thủy chính
cho tàu ra vào bến cảng Sài Gòn. Ngoài các con sông chính, Thành phố Hồ
Chí Minh còn có một hệ thống kênh rạch chằng chịt như: Láng The, Bàu
Nông, Rạch Tra, Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc-Thị
Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm, Kênh Tẻ – Kênh Đôi, Tàu Hủ,… Hệ thốngsông,
kênh rạch giúp Thành phố Hồ Chí Minh trong việc tưới tiêu, nhưng do chịu
ảnh hưởng dao động triều bán nhật của biển Ðông, thủy triều thâm nhập sâu
đã gây nên những tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu
thoát nước ở khu vực nội thành.
Nhờ trầm tích Pleistocen, khu vực phía bắc Thành phố Hồ Chí Minh
có được lượng nước ngầm khá phong phú. Nhưng về phía nam, trên trầm
tích Holocen, nước ngầm thường bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Khu vực nội
thành cũ có lượng nước ngầm đáng kể, tuy chất lượng không thực sự tốt
nhưng vẫn được khai thác, chủ yếu ở ba tầng: 0 – 20 m, 60 – 90 m và 170 –
200 m (tầng trầm tích Miocen). Tại quận 12, huyện Hóc Môn và huyện Củ
Chi, chất lượng nước tốt, trữ lượng dồi dào, thường được khai thác ở tầng 60
-90 m, trở thành nguồn nước bổ sung quan trọng. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
18
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
Thời tiết, khí hậu
Nằm trong vùng nhiệt đới xavan, cũng như một số tỉnh Nam Bộ khác,
Thành phố Hồ Chí Minh không có bốn mùa: xuân, hạ,thu, đông. Nhiệt
độ cao đều và mưa quanh năm (mùa khô ít mưa). Trong năm, Thành phố Hồ
Chí Minh có 2 mùa là biến thể của mùa hè: mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa
mưa được bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11 (khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ cao
mưa nhiều), còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau (khí hậu khô,
nhiệt độ cao và mưa ít). Trung bình, Thành phố Hồ Chí Minh có 160 tới 270
giờ nắng/tháng, nhiệt độ trung bình 27 °C, cao nhất lên tới 40 °C, thấp nhất
xuống 13,8 °C. Hàng năm, thành phố có 330 ngày nhiệt độ trung bình 25 tới
28 °C. Lượng mưa trung bình của thành phố đạt 1.949 mm/năm, trong đó
năm 1908 đạt cao nhất 2.718 mm, thấp nhất xuống 1.392 mm vào năm 1958.
Một năm, ở thành phố có trung bình 159 ngày mưa, tập trung nhiều nhất vào
các tháng từ 5 tới 11, chiếm khoảng 90%, đặc biệt hai tháng 6 và 9. Trên
phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố không đều, khuynh
hướng tăng theo trục Tây Nam – Ðông Bắc. Các quận nội thành và các
huyện phía bắc có lượng mưa cao hơn khu vực còn lại.
Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là
gió mùa Tây – Tây Nam và Bắc – Ðông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ
Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Gió Bắc – Ðông Bắc
từ biển Đông, tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào mùa khô. Ngoài ra còn có gió
mậu dịch theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5,
trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không
có gió bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào
mùa mưa (80%), và xuống thấp vào mùa khô (74,5%). Bình quân độ ẩm
không khí đạt 79,5%/năm.
Với những biến đổi khí hậu, Hồ Chí Minh thuộc danh sách 10 thành
phố trên thế giới bị đe dọa vì nguy cơ mực nước biển dâng cao. Theo dự tính - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
19
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
của Liên Hiệp Quốc thì đến năm 2050 nước biển sẽ dâng 26 cm và 70% khu
đô thị Thành phố Hồ Chí Minh sẽ bị ngập lụt. Ngân hàng Phát triển Á
châu ước lượng hậu quả là thiệt hại kinh tế lên đến hàng tỷ USD.
2.1.2. Lịch sử hình thành – tổ chức hành chính và kinh tế – xã hội.
2.1.2.1. Lịch sử hình thành
Vùng đất này ban đầu được gọi là Prey Nokor, thành phố sau đó hình
thành nhờ công cuộc khai phá miền Nam của nhà Nguyễn.
Năm 1698,Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời
của thành phố. Khi Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác
thuộc địa, thành phố được thành lập với tên gọi Sài Gòn và nhanh
chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam.
Sài Gòn cũng là thủ đô của Liên bang Đông Dương giai đoạn 1887 –
1901 (về sau, Pháp chuyển thủ đô Liên bang Đông Dương ra Hà Nội).
Năm 1949, Sài Gòn trở thành thủ đô của Quốc gia Việt Nam, một chính
thể thuộc Liên bang Đông Dương và sau này là thủ đô của Việt Nam Cộng
hòa. Kể từ đó, thành phố này trở thành một trong những đô thị quan trọng nhất
của miền Nam Việt Nam. Sau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trong sự kiện 30
tháng 4 năm 1975, lãnh thổ nước ta được hoàn toàn thống nhất. Ngày 2 tháng
7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên Sài
Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh, theo tên vị Chủ tịch nước đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
2.1.2.2. Tổ chức hành chính
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là một trong 5 thành phố trực thuộc
Trung ương của Việt Nam. Về mặt hành chính, thành phố được chia thành
19 quận và 5 huyện. Trong đó có 322 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm
259 phường, 58 xã và 5 thị trấn. Hệ thống quản lý hành chính nhà nước trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 976 địa chỉ, trong đó 47 thuộc trung - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
20
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
ương, 73 thuộc thành phố, 549 thuộc các quận, huyện và 307 thuộc cấp
phường xã. Các tổ chức đoàn thể, chính trị bao gồm cấp trung ương và thành
phố có 291 địa chỉ, các đơn vị sự nghiệp có 2.719 địa chỉ.
2.1.2.3. Kinh tế
Sau khi các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất trong tháng 12/2018 để
chuẩn bị hàng dự trữ, phục vụ nhu cầu tiêu dùng Tết dương lịch và Tết
nguyên đán, sang tháng 01/2019 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước
tính chỉ bằng 92,39% so với tháng trước. Trong đó, hoạt động khai khoáng
giảm 59,93%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 7,44%; ngành cung cấp
nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,47%; ngành sản xuất và
phân phối điện giảm 0,94%. Tuy nhiên, chỉ số sản xuất toàn ngành công
nghiệp ước tính tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng của
năm 2018. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 7,51%; ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo tăng 5,1%; ngành sản xuất và phân phối điện có mức tăng
trưởng cao nhất 10,82%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải,
nước thải tăng 1,25%.
Về 4 ngành công nghiệp trọng điểm: Chỉ số sản xuất công nghiệp của
4 ngành trọng điểm tháng 1 tăng 1,23% so với tháng trước và tăng 5,13% so
với tháng cùng kỳ, cao hơn chỉ số chung toàn ngành. Ngành chế biến lương
thực thực phẩm, đồ uống có mức tăng 3,91% so với cùng kỳ, trong đó sản
xuất sữa và các sản phẩm từ sữa; sản xuất sản phẩm mì, phở, bún, miến cháo
ăn liền tăng cao. Ngành hóa dược tăng chậm 1,37% so với cùng kỳ vì một số
công ty sản xuất hóa chất đã chuyển nhà máy khỏi thành phố hoặc thu hẹp
sản xuất để chuyển sang các tỉnh khác, mặt khác công ty ngành dược gặp
khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Ngành cơ khí tăng 3,55% so với
cùng kỳ. Ngành sản xuất hàng điện tử tăng 17,73%, là ngành có chỉ số sản
xuất tăng cao nhất do có thị trường tiêu thụ ổn định và các doanh nghiệp
thường xuyên ứng dụng các công nghệ mới, hiện đại. Trong đó nổi bật là - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
21
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
những loại sản phẩm điện tử sử dụng chip thương hiệu Việt (bo mạch điều
khiển chiếu sáng đường, khóa xe container…) và một số sản phẩm đầu cuối
đã được đưa vào sản xuất đại trà được các công ty khu công nghệ cao của
thành phố thực hiện. Ngoài ra vốn đầu tư xây dựng thuộc ngân sách thành
phố tháng 1/2019 ước thực hiện 415,6 tỷ đồng, bằng 93,3% so với cùng kỳ
năm trước. Cấp thành phố ước thực hiện 329,2 tỷ đồng, chiếm 79,2%; cấp
quận huyện ước thực hiện 185,4 tỷ đồng, chiếm 20,8%.
Từ ngày 1/1/2019 đến ngày 20/1/2019, trên địa bàn thành phố đã có
68 dự án có vốn nước ngoài được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn
đăng ký đạt 32,7 triệu USD. Trong đó, hình thức đầu tư 100% vốn nước
ngoài có 59 dự án, vốn đầu tư 20,9 triệu USD, liên doanh 9 dự án, vốn đầu
tư 11,8 triệu USD. Điều chỉnh vốn đầu tư có 11 dự án (bao gồm các dự án
tăng và giảm vốn), số vốn tăng 4,7 triệu USD. Tổng vốn đầu tư cấp phép
mới và điều chỉnh vốn đến ngày 20/1/2019 đạt 37,4 triệu USD, bằng 39,4%
so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, thành phố đã có 191 dự án góp vốn,
mua cổ phần, mua lại phần vốn góp là 452,7 triệu USD, tăng gấp 3,8 lần so
với cùng kỳ năm trước.
Tổng kim ngạch xuất khẩu bao gồm dầu thô ước thực hiện tháng 01/
2019 đạt 2.848,7 triệu USD, tăng 2,2% so tháng trước và giảm 7,4% so cùng
kỳ. Loại trừ dầu thô ước tính tháng 1 đạt 2.619,7 triệu USD, giảm 7,6% so
cùng kỳ. Chia ra: Thành phần kinh tế nhà nước đạt 359,7 triệu USD, chiếm
tỷ trọng 12,6%, tăng 15,9%. Thành phần kinh tế ngoài nhà nước đạt 892,5
triệu USD, chiếm tỷ trọng 31,3%, giảm 17,6%. Thành phần kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài đạt 1.596,4 triệu USD, chiếm tỷ trọng 56,0%, giảm 5,1%.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu: đứng đầu là Trung Quốc với 558,7 triệu
USD, chiếm tỷ trọng 19,6%, giảm 0,6% so cùng kỳ; vị trí thứ 2 là Hoa Kỳ
với 498,8 triệu USD, chiếm 17,5%, giảm 6,0%; vị trí thứ 3 là Nhật Bản với
282,5 triệu USD, chiếm 9,9%, tăng 3,0%; vị trí thứ 4 là Hồng Kông với - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
22
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
135,3 triệu USD, chiếm 4,7%, giảm 12,4%; vị trí thứ 5 là Hàn Quốc với
130,3 triệu USD, chiếm 4,6%, giảm 13,2% so với cùng kỳ.
Tổng kim ngạch nhập khẩu tháng 01/2019 ước đạt 3.838,7 triệu USD,
tăng 2,4% so với tháng trước và tăng 7,9% so cùng kỳ. Chia ra: Thành phần
kinh tế nhà nước đạt 126,2 triệu USD, chiếm tỷ trọng 3,3%, giảm 22,0%.
Thành phần kinh tế ngoài nhà nước đạt 2.079,9 triệu USD, chiếm tỷ trọng
54,2%, tăng 3,7%. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1.632,5
triệu USD, chiếm tỷ trọng 42,5%, tăng 17,4%; Thị trường nhập khẩu chủ
yếu: đứng đầu là Trung Quốc với 1.363,9 triệu USD, chiếm tỷ trọng 35,5%,
tăng 30,0% so cùng kỳ; vị trí thứ 2 là Singapore với 352,4 triệu USD, chiếm
9,2%, giảm 3,8%; vị trí thứ 3 là Hàn Quốc với 289,5 triệu USD, chiếm
7,5%, giảm 8,7%; vị trí thứ 4 là Thái Lan với 239,5 triệu USD, chiếm 6,2%,
giảm 16,4%; vị trí thứ 5 là Hoa Kỳ với 197,3 triệu USD, chiếm 5,1%, tăng
16,0% so cùng kỳ.
2.1.2.4. Dân cư – Xã hội
Theo kết quả tổng hợp sơ bộ do Ban chỉ đạo Tổng điều tra thành phố
công bố, dân số của thành phố đến thời điểm 23/01/2019 là 8.859.688 người,
tăng 64.823 người so với thời điểm 30/6/2018 (số liệu dân số của thành phố
đến thời điểm 30/6/2018 là 8.794.865 người). Như vậy trong thời kỳ khoảng
10 năm 2009 – 2019 tốc độ tăng dân số bình quân của thành phố là 2,15%
năm. Bình quân một năm thành phố tăng khoảng 170.000 người. Trong các
thập niên gần đây, thành phố Hồ Chí Minh luôn có tỷ số giới tính thấp
nhất Việt Nam, luồng nhập cư từ các tỉnh khác vào Thành phố Hồ Chí Minh
luôn có số nữ nhiều hơn số nam. Thành phố Hồ Chí Minh gặp phải tình
trạng quá tải dân số, tạo áp lực lớn lên nền kinh tế và đời sống người dân.
Sự phân bố dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh không đồng đều. Trong
khi một số quận như 4, 5, 10 và 11 có mật độ lên tới trên 40.000 người/km²,
thì huyện ngoại thành như Cần Giờ có mật độ tương đối thấp 98 người/km. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
23
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
Về mức độ gia tăng dân số, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên khoảng 1,07% thì tỷ
lệ tăng cơ học lên tới 2,5%. Những năm gần đây,dân số các quận trung tâm
có xu hướng giảm, trong khi dân số các quận mới lập vùng ven tăng nhanh,
do đón nhận dân từ trung tâm chuyển ra và người nhập cư từ các tỉnh đến
sinh sống.
Những khu vực tập trung nhiều người nước ngoài hay Việt kiều sinh
sống tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo thành một nét rất riêng đó là những
khu chợ, cửa hàng,dịch vụ, món ăn đặc sản của nước đó. Có thể kể đến: Phố
Mã Lai tập trung người Mã Lai, người Chăm tại đường Nguyễn An Ninh;
phố Hàn Quốc tại đường Hậu Giang đến các đường lân cận thuộc Phường 4,
quận Tân Bình; phố Nhật Bản tại giao lộ Thái Văn Lung – Lê Thánh Tôn
thuộc phường Bến Nghé, quận 1, khu đô thị Phú Mỹ Hưng (Năm 2018, Phú
Mỹ Hưng có trên 30.000 người sinh sống, chiếm hơn 50% là người nước
ngoài đến từ hàng chục quốc gia, đông hơn cả vẫn là công dân các nước và
vùng lãnh thổ châu Á, nhiều nhất đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,
Trung Quốc,…)
2.1.3. Tài nguyên du lịch nhân văn ở Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.3.1. Tài nguyên vật thể
Cho đến tháng 5/2017, thành phố đã có 172 di tích được xếp hạng
gồm: 56 di tích quốc gia, trong đó có 24 di tích lịch sử, 30 di tích kiến trúc
nghệ thuật, 2 di tích quốc gia đặc biệt và 114 di tích cấp thành phố. Trong
đó tiêu biểu là các công trình, di tích sau đây:
Di tích Giồng Cá Vồ
Giồng Cá Vồ là một di tích khảo cổ nằm ở ấp Hòa Hiệp, xã Long
Hòa, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đây nằm trên một giồng
đất đỏ, có diện tích khoảng 7.000 mét vuông, cao hơn khoảng 1,5 mét so với
mặt đất hiện tại, phần chân giồng thường xuyên bị ngập mặn. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
24
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
Cách cửa biển 5km, Cần Giờ có nhiều gò nổi, người dân địa phương
gọi là Giồng. Một số Giồng có diện tích lớn như: Giồng cá vồ, Giồng phệt,
Giồng cá trăng,… Cá Vồ là một Giồng đất đỏ rộng 7. 000m2
, cao 1,5m nằm
tả ngạn sông Hà Thanh, cách bờ sông chừng 100m. Các nhà khảo cổ đã phát
hiện năm 1993. Đến năm 1994, tiến hành khai quật 230m2
diện tích. Tầng
văn hoá dày đến 1,50m, gồm 4 lớp: đất canh tác đến độ sâu 0,3m; đất đỏ
bazan từ 0,3-0,7m; đất đen xốp lẫn nhiều gốm than tro từ 0,7 -0,9m; đất đỏ
vàng nhiều gốm từ 0,9m-1,5m. Qua 2 lần đào thám sát và khai quật, các nhà
khảo cổ bước đầu xác nhận đây là di chỉ cư trú sản xuất gốm là khu mộ táng
của người xưa và phát hiện có 38 ngôi mộ chum trong đó 23 mộ có di cốt
người. Bên cạnh đó còn phát hiện được nhiều đồ tùy táng bằng gốm, đá,
thủy tinh, vỏ nhuyễn thể, sắt,… hiện vật chủ yếu là đồ trang sức. Ngày 2
tháng 4 năm 1994, Bộ Văn hóa Thông tin đã ban ban hành giấy phép số
181/VHQĐ để kịp thời bảo vệ di tích trước sự phá hủy của tự nhiên và quá
trình canh tác ở địa phương. Từ ngày 26 tháng 4 năm 1995 đến ngày 21
tháng 6 năm1995, các nhà Khảo cổ học Bảo tàng Lịch sử Việt Nam thành
phố Hồ Chí Minh, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Viện Khảo cổ học đã
tiến hành khai quật di tích này. Hiện đã tìm thấy gần 350 mộ chum và 10 mộ
đất. Di vật trong mộ là hài cốt người, đặc biệt trong các mộ chum còn khá
nguyên vẹn. Phần lớn di cốt trong chum được người cổ mai táng theo tư thế
ngồi bó gối. Chum mai táng ở Giồng Cá Vồ có hai loại mộ cổ và mộ đất,
trong đó mộ đất chiếm ưu thế trên 90% và hai loại này đều chưa thấy trong
bất kỳ một di tích mộ chum nào ở Đông Nam Á. Số lượng chum nhiều, với
sự thống nhất của phương thức và đồng nhất của loại hình chum mai táng
cho thấy táng thức của cư dân Giồng Cá Vồ đã tồn tại khá lâu dài và ổn định
như một truyền thống độc đáo ở khu vực Đông Nam Á. Các nhà khảo cổ xác
định: đây là khu mộ táng thuộc văn hoá tiền khảo cổ học Sa Huỳnh, chủ
nhân là cư dân bản địa, thể hiện rõ nét của chủng Mongoloid. Hiện nay, các
di vật từ cuộc khai quật khảo cổ di tích ở nơi đây đang được lưu giữ và trưng - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
25
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
bày tại một số bảo tàng lớn như Bảo tàng Lịch sử quốc gia ở Hà Nội, Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam ở Thành phố Hồ Chí Minh và Bảo tàng Lịch sử-Văn
hóa Nam bộ thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh, nhằm giới thiệu về lịch sử Việt Nam trong giai
đoạn tiền sơ sử trong những thế kỷ cuối TCN.
Ngày 13 tháng 4 năm 2000, giồng Cá Vồ được công nhận là di tích
khảo cổ học cấp quốc gia theo Quyết định số 06/2000-QĐ-BVHTT của Bộ
Văn hóa Thông tin.
Dinh Thống Nhất
Đây là một trong những di tích ghi dấu sự kiện chính trị quan trọng,
có ý nghĩa quyết định đến định hướng phát triển của thành phố. Dinh Độc
Lập (tên gọi trước đây là dinh Norodom, ngày nay còn gọi là dinh Thống
Nhất hay hội trường Thống Nhất) là một công trình kiến trúc, tòa nhà ở
Thành phố Hồ Chí Minh. Nó từng là nơi ở và làm việc củaTổng thống Việt
Nam Cộng hòa. Hiện nay, nó đã được chính phủ Việt Namxếp hạng di tích
quốc gia đặc biệt. Công trình được thiết kế xây dựng trên diện tích 4.500 m²,
trên khuôn viên đất rộng 120.000 m², gồm: 1 tầng nền, 3 tầng chính, 1 sân
thượng, 2 gác lửng, 1 tầng hầm kiên cố gồm 100 phòng: phòng làm việc của
Tổng thống, phòng khánh tiết, phòng họp hội đồng nội các, phòng làm việc,
phòng trình ủy nhiệm thư, phòng đại yến,… Ngoài tòa nhà chính, dinh còn
có hồ sen bán nguyệt, bồn hoa, vườn cây cảnh. Dinh cao 26m, tọa lạc trong
khuôn viên rộng 12 ha rợp bóng cây. Giữa những năm 1960, đây là công
trình có quy mô lớn nhất miền Nam và có chi phí xây dựng cao nhất
(khoảng 150.000 lượng vàng).
Địa đạo Củ Chi
Đây là một trong những di tích ghi dấu chiến công chống xâm lược
của quân và dân ta. Địa đạo Củ Chi là một hệ thống phòng thủ trong lòng - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
26
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
đất ở huyện Củ Chi, cách Thành phố Hồ Chí Minh hơn 70km về hướng tây-
bắc, nằm giữa sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông. Hệ thống này được
Việt Minh và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Namđào trong
thời kỳ Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam. Hệ thống địa
đạo bao gồm bệnh xá, nhiều phòng ở, nhà bếp, kho chứa, phòng làm việc, hệ
thống đường ngầm dưới lòng đất. Hệ thống bí mật này được đào từ năm
1948 với khoảng 17km. Sau năm 1960, hệ thống tiếp tục được củng cố và
phát triển dài hơn 200 km. Địa đạo Củ Chi được xây dựng trên vùng đất
được mệnh danh là “đất thép thành đồng”, nằm ở điểm cuối Đường mòn Hồ
Chí Minh. Trong Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam đã sử dụng hệ thống địa đạo này để tấn công
vào Sài Gòn. Địa đạo đào trên một khu vực đất sét pha đá ong nên có độ bền
cao, ít bị sụt lở. Hệ thống địa đạo nằm sâu dưới lòng đất, có thể chịu được
sức công phá của các loại bom tấn lớn nhất của quân đội Mỹ. Không khí
được lấy vào địa đạo thông qua các lỗ thông hơi. Các khu vực khác nhau của
địa đạo có thể được cô lập khi cần. Ðường hầm sâu dưới đất từ 3 – 10m,
chiều cao chỉ đủ cho một người đi lom khom. Căn hầm đầu tiên ở ngay bìa
rừng có giếng ngầm cung cấp nguồn nước uống và sinh hoạt cho toàn khu
vực địa đạo. Hệ thống địa đạo gồm 3 tầng, từ đường “xương sống” toả ra vô
số nhánh dài, nhánh ngắn ăn thông nhau, có nhánh trổ ra tận sông Sài Gòn.
Tầng một cách mặt đất 3m, chống được đạn pháo và sức nặng của xe tăng,
xe bọc thép. Tầng 2 cách mặt đất 5m, có thể chống được bom cỡ nhỏ. Còn
tầng cuối cùng cách mặt đất 8-10m. Ðường lên xuống giữa các tầng hầm
được bố trí bằng các nắp hầm bí mật. Bên trên nguỵ trang kín đáo, nhìn như
những ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ thông hơi. Liên hoàn với địa đạo có
các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực, có giếng nước,
có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ huy, hầm giải phẫu… Còn có cả hầm lớn,
mái lợp thoáng mát, nguỵ trang khéo léo để xem phim, văn nghệ. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
27
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
Năm 2015, khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi đón nhận danh
hiệu Anh hùng Lao động do có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động,
sáng tạo. Trong 20 năm hoạt động, khu di tích đón hơn 20 triệu lượt khách
trong và ngoài nước tới tham quan, tìm hiểu. Ngày 12 tháng 2 năm 2016,
khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi đón nhận Bằng xếp hạng Di tích quốc gia
đặc biệt. Ngày nay, địa đạo Củ Chi còn khoảng 120 km được bảo vệ và đã
trở thành một điểm du lịch hấp dẫn cho du khách đến thăm Thành phố Hồ
Chí Minh. Du khách, đặc biệt là các vị lãnh đạo Đảng, nguyên thủ Quốc gia
của Việt Nam và các nước cùng nhiều cựu chiến binh,… thường chọn điểm
tham quan này khi đến thăm Thành phố Hồ Chí Minh.
Bưu điện Thành phố
Bưu điện trung tâm Sài Gòn là một trong những công trình kiến
trúc tiêu biểu tại Thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc tại số 2, Công trường
Công xã Paris, quận 1. Đây là tòa nhà được người Pháp xây dựng vào năm
1886 đến năm 1890 thì khánh thành với phong cách châu Âu theo đồ án
thiết kế của kiến trúc sư Villedieu cùng phụ tá Foulhoux. Đây là công trình
kiến trúc mang phong cách phương Tây kết hợp với nét trang trí phương
Đông.Nếu hệ thống cửa sổ của khối nhà hai bên đều có hình vòm cung hoặc
hơi vòm thì riêng tại khối nhà giữa, các cửa sổ lại có hình chữ nhật. Trên các
ô có đắp hình các nam nữ đội vòng nguyệt quế, trên vòng cung ngôi nhà có
chiếc đồng hồ lớn. Những đường viền, đường chỉ hay hoa văn chạy ngang
như muốn kéo thấp tòa nhà Bưu điện Trung tâm Thành phố, tạo thành
những đường trang trí khỏe khoắn và đăng đối, gợi nhớ đến những nhà ga xe
lửa ở châu Âu. Vào phía trên trong, hai bên tường cao là hai bản đồ lịch sử
mang tên: Saigon et ses environs, 1892 và Lignes télégraphiques du Sud
Vietnam et du Cambodge, 1936.Tại đây hiện có 35 quầy phục vụ khách
hàng với đủ các dịch vụ bưu phẩm cùng mạng lưới điện báo rộng khắp đến
các địa phương trong nước và các nước trên thế giới. Trần nhà hình vòm - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
28
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
cung tương ứng với cửa ra vào được nâng đỡ bởi hai hàng trụ và hệ thống vĩ
kèo bằng sắt, nổi bật với thiết kế công phu có các đấu nối là những hoa văn
đẹp. Hệ thống cột, trụ của phần mặt tiền đều có kết cấu hình khối vuông
vắn, trên đầu trụ có gắn những mảng phù điêu với hoa văn đắp nổi rất công
phu. Riêng ở phần trụ khoảng giữa tầng hai và tầng trệt của tòa nhà Bưu
điện Trung tâm Thành phố, các mảng phù điêu lại ôm trọn phiến đá hình
chữ nhật, trên mỗi phiến đá ghi tên một nhà khoa học đã có những đóng góp
to lớn cho nền văn minh nhân loại trong lĩnh vực điện và điện tín.
Trải qua hơn trăm năm tồn tại, tòa nhà Bưu điện Trung tâm Sài Gòn
hiện vẫn là một công trình kiến trúc đẹp và ấn tượng, tạo nên điểm nhấn độc
đáo cho thành phố Hồ Chí Minh.
Nhà thờ Đức Bà
Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn – tên chính thức: Vương cung
thánh đường chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội là nhà thờ chính
tòa củaTổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, một trong những công
trình kiến trúc độc đáo đối với du khách trong và ngoài nước.
Công trình được khởi công xây dựng ngày 7/10/1877 và được khánh
thành vào ngày 11/4/1880 với tổng kinh phí là 2,5 triệu Phờ-răng. Nội thất
thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai
dãy nhà nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 133m. Chiều ngang nơi
rộng nhất là 35 m. Chiều cao của tháp là 57 m, sáu đại hồng chung nặng
25,850kg đặt dưới 2 lầu chuông. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới
1.200 người. Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi
bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Bàn thờ nơi Cung Thánh
làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng
vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm
điêu khắc diễn tả thánh tích. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang và kế
đó là nhiều nhà nguyện nhỏ với những bàn thờ về các thánh (hơn 20 bàn - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
29
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
thờ) cùng các bệ thờ 14 chặng Đàng Thánh Giá làm bằng đá trắng khá tinh
xảo. Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc
sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng
kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét,
gờ chỉ, hoa văn đều tuân thủ theo hình thức Roman và Gôtich, tôn nghiêm
và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn bốn cửa là
nguyên vẹn như xưa, còn các cửa kính màu khác đều đã được làm lại. Mặt
trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo thành
hình thánh giá. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình
(hay Nữ vương Hòa bình). Bức tượng cao 4,6 m và nặng 8 tấn, làm bằng
đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không
đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết
điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu,
trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn, mắt
Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho
thế giới được hoà bình.
Chùa Giác Lâm
Chùa Giác Lâm là một trong những ngôi chùa cổ nhất củaThành phố
Hồ Chí Minh. Đây chính là tổ đình của phái Thiền Lâm Tế Tông ở miền
Nam Việt Nam.
Chùa tọa lạc tại số 565 (số cũ 118) đường Lạc Long Quân, thuộc
phường 10, quận Tân Bình và đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa –
Thông tin) công nhận là di tích lịch sử – văn hóa quốc gia của Việt Nam theo
quyết định số 1288-VH/QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988.
Chùa Giác Lâm hiện nay có lối kiến trúc chữ Tam (Ξ) gồm ba dãy
nhà ngang nối liền nhau: chính điện, giảng đường và nhà trai. Chùa nguyên
thủy không có cổng tam quan (cổng tam quan chỉ mới được xây dựng vào
năm 1955), mái chùa gồm 4 vạt và các sống mái đều thẳng. Năm 2007, khởi - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
30
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
công xây dựng khu giảng đường và tăng xá. Chính điện với kiểu nhà dân
gian truyền thống một gian hai chái, bốn cột chính hay còn gọi là tứ trụ. Bên
trong điện khá rộng và sâu, có 56 cột to hơn vòng tay ôm màu nâu sẫm. Cột
nào cũng được chạm khắc câu đối, thiếp vàng công phu. Giữa các hàng cột
là các cửa võng, cũng được thiếp vàng, chạm trổ các đề tài trang trí truyền
thống như tứ linh, tứ quý, hoa điểu,…Trong chính điện bày trí theo kiểu “tiên
bái Phật, hậu bái Tổ”. Phía trước chính điện thờ các tượng A Di Đà, Thích
Ca, Di Lặc. Hai bàn thờ hai bên phải trái, có tượng Quan Thế Âm và Thế
Chí. Ngoài ra, ở đây còn có tượng Cửu Long, dọc hai bên tường có bộ
tượng Thập Bát La Hán, bộ tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng Tổ Bồ Đề
Đạt Ma và tượng Long Vương. Đằng sau chính điện là bàn thờ Tổ, thờ các
vị Hòa thượng đã trụ trì tại chùa Giác Lâm. Đối diện với bàn thờ Tổ là các
bàn thờ: Phật Chuẩn Đề, Phật A Di Đà và sau cùng là bàn thờ Thập Điện
Diêm Vương.Ở gian này, vào thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, được dùng làm cơ sở hậu cần, nuôi chứa cán bộ, làm công tác
trinh sát nội thành. Trước chùa là bảo tháp xá lợi gồm bảy tầng hình lục
giác. Tháp được khởi công xây dựng từ năm 1970 theo bản vẽ của kiến trúc
sư Vĩnh Hoằng, đến năm 1975 thì tạm ngưng cho đến 1993 mới được tiếp
tục. Bên trái của chùa là khu mộ tháp của các vị hòa thượng đã trụ trì ở đây,
trong số ấy có tháp Tổ Phật Ý-Linh Nhạc, tháp Thiền sư Tổ Tông-Viên
Quang. Ngoài ra, trước sân chùa có đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát dưới
bóng cây bồ đề. Cây do Đại đức Narada mang từ Sri Lanka (Tích Lan) sang
trồng vào ngày 18 tháng 6 năm 1953.
Trên các cột chính của chùa đều có khắc câu đối (gồm 86 câu) thếp
vàng công phu. Đáng chú ý có câu đối của Hiệp trấn Trịnh Hoài Đức (treo ở
gian thờ Tổ) và câu đối của Mộc Ân đệ tử phụng cúng vào năm Gia
Long thứ 3 (1804). - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
31
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
Khu du lịch văn hóa Đầm Sen
Công viên Văn hoá Đầm Sen là công viên giải trí nằm trên đường
Hòa Bình, quận 11. Công viên có diện tích 50 hecta gồm 20% là mặt hồ và
60% cây xanh và vườn hoa, giáp đường Lạc Long Quân và Hòa Bình. Toàn
công viên trải dài trên một diện tích rộng gồm 30 khu vực: Khu trò chơi điện
tử, Sân khấu cổ tích, Lâu đài cổ tích, Sân khấu quảng trường, Hồ Tây thu
nhỏ, Nam tú thượng uyển, Non bộ – thủy cung, Ðảo khiêu vũ, Khu trò
chơi thiếu nhi, Ðèn tạo hình, Cầu cửu khúc, Nhà ga Monorail,…
Hòn non bộ cao 22m với nhiều thác ghềnh mà tầng hang động lớn
nhất được bố trí thành thủy cung với đủ các loài cá nhiều màu. Rồi Nam tú
thượng uyển với một hệ thống vườn phong lan phong phú và đa dạng. Với
đối tượng thiếu niên ưa hiếu động trong công viên có khá nhiều sân chơi hấp
dẫn: sân trượt patanh, xe ô tô điện, tàu trượt cao tốc, công viên nước… Ngồi
trên tàu chạy trên cao 5m so với mặt đất và với chiều dài gần 2.000m du
khách có thể quan sát toàn bộ cảnh trí công viên Ðầm Sen với góc nhìn đẹp
nhất. Công trình gây ấn tượng nhiều nhất có lẽ là vườn châu Âu – Quảng
trường La Mã: đây là hệ thống vườn hoa kiểu châu Âu được tạo dáng bằng
các bồn hoa hồng nhiều màu sắc, các cột trụ La Mã uy nghi, những tượng đá
duyên dáng và sân khấu nhạc nước gồm 3.000 chỗ ngồi.
Sân khấu Laser Nhạc Nước được xây dựng năm 2005 với số vốn đầu
tư 12 tỷ đồng, vị trí nằm phía sau vườn hoa châu Âu, sân khấu có mái che
với sức chứa 3.000 chỗ ngồi. Sân khấu Laser Nhạc Nước là một loại hình
nghệ thuật độc đáo, hiện đại duy nhất tại Việt Nam mà các kỹ sư Đầm Sen
đã học được từ mô hình nhạc nước ở đảo Sentosa (Singapore). Đây là sự kết
hợp giữa chương trình ca nhạc với sân khấu thiết kế chuyên biệt có hệ thống
phun nước và đèn laser, chiếu phim trên màn hình nước cao 28m. Phối hợp
yếu tố nghệ thuật với kỹ thuật, những vòi phun nước chuyển động huyền ảo
với ánh sáng, màu sắc và âm nhạc. Đầm Sen là một trong những khu du lịch - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
32
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
lớn đặc sắc nhất nước Việt Nam. Kiến trúc được kết hợp một cách hoàn mĩ
nền văn hóa Đông – Tây và một chút vẻ đẹp thời La Mã. Ngoài những khu
vui chơi, Đầm Sen còn có những nhà hàng, khách sạn và hàng chục các loại
hình khác để phục vụ khách du lịch. Đầm Sen là nơi vui chơi giải trí rất hấp
dẫn cho du khách trong và ngoài nước.
2.1.3.2. Tài nguyên phi vật thể
Nghệ thuật đờn ca tài tử
Đờn ca tài tử Nam bộ là dòng nhạc dân tộc của Việt Nam đã
đượcUNESCOcông nhận là di sản văn hóa phi vật thể. Đờn ca tài tử xuất
hiện hơn 100 năm trước, là loại hình diễn tấu có ban nhạc gồm bốn loại là
đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu (gọi là tứ tuyệt), sau này có cách tân
bằng cách thay thế độc huyền cầm bằng cây guitar phím lõm.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, đề án nhằm bảo tồn giá trị của Nghệ
thuật Đờn ca tài tử về bài bản cũng như phong cách trình diễn, sinh hoạt và
mục đích hoạt động nghệ thuật của nghệ nhân, tài tử. Đồng thời thử nghiệm,
tìm tòi xây dựng những hình thức trình diễn mới phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế – văn hóa và du lịch của Thành phố, phát huy các hình thức sinh
hoạt, truyền nghề, thi đua sáng tạo, tranh tài nghệ thuật để không ngừng
nâng cao chất lượng đờn ca và sáng tạo ra các giá trị mới cho Đờn ca tài tử.
Sở Văn hóa và Thể thao sẽ triển khai các hoạt động giới thiệu, quảng bá,
tuyên truyền về nghệ thuật Đờn ca tài tử đến mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là
học sinh, sinh viên và công nhân, truyền dạy thí điểm ở một số quận, huyện
hiện có hoạt động này phát triến mạnh điển hình, vận động sáng tác, tố chức
trại sáng tác, tố chức đi thực tế các cơ sở kinh tế, giáo dục, đi về nguồn cho
nghệ nhân, nhạc sĩ hưởng ứng tham gia vận động sáng tác, ưu tiên sáng tác
lời mới cho các bài bản nhạc cổ,… Cuối năm 2018, toàn Thành phố có 221
câu lạc bộ Đờn ca tài tử đang hoạt động, với số thành viên là 2.677 người ở
hầu hết các quận-huyện, duy trì sinh hoạt và biểu diễn phục vụ nhân dân. - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
33
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
Ngoài ra, Uý ban Nhân dân Thành phố cũng sẽ ban hành chế độ chính sách
đãi ngộ vật chất và tinh thần cho lực lượng hoạt động Đờn ca tài tử; nghiên
cứu, ban hành chính sách đãi ngộ, tôn vinh những cá nhân đã có những đóng
góp cho nghệ thuật Đờn ca tài tử. Hằng năm, trung tâm Văn hóa Thành phố
Hồ Chí Minh thường tổ chức các chương trình liên hoan Đờn ca tài tử như:
giải “Hoa sen vàng”, “ Búp sen vàng”,…giành cho mọi lứa tuổi nhằm phát
triển loại hình nghệ thuật này.
Lễ hội nghinh Ông
Hàng năm,từ ngày 15 dến 17 tháng 8 âm lịch tại lăng Ông Thủy tướng
được vua Tự Đức ban sắc phong: “Nam Hải tướng quân” thuộc Xã Cần
Thạnh, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh đều diễn ra lễ tế rất trang
trọng của ngư dân Cần Giờ để tưởng nhớ công ơn cá “Ông”. Lễ hội còn có
các tên gọi khác như: Lễ rước cốt Ông, Lễ cầu ngư, Lễ tế cá Ông, Lễ cúng
Ông, Lễ nghinh Ông, Lễ nghinh Ông Thủy tướng… Nhưng tất cả đều có
chung một quan niệm rằng cá “Ông” là thần bảo trợ nghề cá và các nghề trên
biển nói chung, và từ đó trở thành tín ngưỡng của ngư dân.
Ngày 15/8 không khí lễ hội đã diễn ra nhộn nhịp ở bên ngoài lăng với
nhiều hoạt động văn hoá sôi nổi. Sang ngày 16/8, các vị trong hội lăng trong
trang phục chỉnh tề làm lễ rước kiệu của Nam hải Tướng quân xuống thuyền
rồng ra biển. Đoàn ghe nghinh xuất phát tại bến đò Cần Giờ. Dọc theo
đường rước, ngư dân sống trên biển và bà con hai bên phố bày lễ vật nghênh
đón, khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thuỷ tướng, có hàng
trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển
nghênh ông. Trước mũi ghe là hương án và mâm lễ vật. Trên các ghe lớn
nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước
đi khoảng hai giờ thì quay về bến nơi xuất phát, rước Ông về lăng ông Thuỷ
tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng.
Khi rước ông vào lăng, các nghi thức đón và tế diễn ra trang trọng, đúng với - Khóa luận tôt
nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng
34
SV: Nguyễn Thanh Hương – Lớp: VH1802
nghi thức cổ truyền. Các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng
ông Thuỷ tướng. Ngoài lăng, có các hoạt động văn hoá văn nghệ. Sáng 17/8
tại lăng ông Thuỷ tướng diễn ra lễ tôn vương ông Thuỷ tướng theo sắc
phong. Lễ cúng có hát thờ. Sau phần lễ tôn ông theo sắc phong cũng là lúc
chấm dứt lễ hội.
Một số làng nghề thủ công truyền thống
Làng nem Thủ Đức
Đất Thủ Đức là để chỉ các quận Thủ Đức, quận 2, quận 9 bây giờ. Để
đáp ứng cho nhu cầu của khách đối với món nem danh tiếng, xứ Thủ Đức đã
từng có tới hàng trăm lò nem, mà điểm tập trung đông nhất là ven chợ Thủ
Đức. Mỗi lò nem có bí quyết riêng, nhưng cũng có những nguyên tắc chung
để có thể cùng nhau giữ gìn thanh danh làng nghề. Nhiều lò nem dựng gần
nhau, tạo thành một làng nghề, gọi là làng nem Thủ Đức. Người ta tới Thủ
Đức, thường ghé vô các quán này ăn nem, lại còn phải mua mấy đùm về làm
quà biếu, để chứng tỏ với bà con là cái món mà mình và các bậc tiền bối vẫn
hay ca ngợi kia không phải hữu danh vô thực.
Làng hoa Gò Vấp
Danh gọi “Làng Hoa Gò Vấp” xuất phát từ những gia đình nghệ nhân
lâu đời về hoa Kiểng. Trải qua hàng trăm năm, trồng hoa và làm hoa kiểng
với đủ thế dáng có thu nhập cao đã trở thành một nghề truyền thống mang
tính uyên bác đầy tài năng, thể hiện vẻ đẹp nghệ thuật trong tâm hồn vốn
yêu thiên nhiên của người dân Gò Vấp, khiến nơi đây trở thành vùng cung
cấp hoa kiểng chủ lực cho Thành phố. Hoa Gò Vấp qua sự mở rộng làm ăn
của các gia đình làm nghề đã du ngoạn không chỉ trong Thành phố mà còn
đến khắp các vùng miền đất nước, thậm chí giao lưu với cả những xứ sở nổi
tiếng về hoa trên thế giới như: Pháp, Hà Lan, Đài Loan, Singapo, Nhật,
Thụy Sĩ,… Các nhà sản xuất hoa của nước bạn thường đặt mối hợp tác với