Giá trị nhân văn trong tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ
Tương truyền vợ chồng Đế Lai, ở động Lăng Xương (xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ ngày nay) sinh được người con gái đặt tên là Âu Cơ. Khi Âu Cơ cất tiếng khóc chào đời thì hương thơm tỏa ngát, trên trời có mây lành che chở, điềm báo “Tiên nữ giáng trần”. Khi Ngọc Nương phu nhân sinh nàng Âu Cơ thấy có mây lành che chở, hương thơm toả ngát khắp nơi, là điềm “Tiên nữ giáng trần”. Lớn lên nàng Âu Cơ rất xinh đẹp, “so hoa, hoa biết nói, so ngọc, ngọc ngát hương”, chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật “khác nào bà Tường phi khéo léo, hệt tựa nàng Lộng Ngọc tài cao”.
Huyền tích kể rằng, sau khi kết duyên với Lạc Long Quân và đẻ ra bọc trăm trứng, nở thành 100 người con trai. Khi các con lớn lên, Lạc Long Quân nói với bà Âu Cơ: “Ta là giống Rồng đứng đầu thủy tộc, nàng là giống Tiên sống trên cạn là chính, thủy khắc hỏa, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh trăm con, chung hợp thật khó vì dòng giống bất đồng khó ở lâu với nhau được”. Nói rồi bèn chia 50 người con theo mẹ lên núi, 50 người con theo cha xuống biển. Trong 50 người con theo Mẹ thì người con cả lên nối ngôi vua, lấy niên hiệu Hùng Vương thứ nhất, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu.
Lễ tế nữ quan trong Lễ hội đền Mẫu Âu Cơ.
Mẹ Âu Cơ cùng 49 người con lên miền ngược, thấy đất Hiền Lương phong cảnh tươi đẹp, sơn thủy hữu tình nên đã chọn làm nơi dừng chân khai sơn phá thạch. Trong đền còn có đầy đủ thư tịch nói rằng: Hành trình Mẹ Âu Cơ đưa 49 người con đi từ hạ lưu sông Hồng cứ theo con sông mà đi ngược lên. Người thì xuống sông mò bắt tôm cá, người lên bờ sông làm nghề trồng cấy… Họ ở lại dần trên đường đi. Và cuối cùng còn ít người con và Mẹ Âu Cơ đến nơi đây (nay là xã Hiền Lương) làm trại và ở lại sinh cơ lập quán tại đây. Người cho khai hoang lập ấp, dạy dân cấy lúa trồng dâu, nuôi tằm dệt vải. Giếng Loan, giếng Phượng, gò Thị, gò Cây Dâu… là những cái tên từ thuở xa xưa đến nay vẫn còn đọng mãi trong kí ức của người dân Hiền Lương.
Rồi đến một đêm, Mẹ mơ thấy Tiên ông bảo rằng: “Ngày mai con phải đi về phương Nam gặp tiên”. Tỉnh giấc Mẹ đi về phương Nam, đến chân một quả núi nhìn lên Mẹ thấy quả núi như một ngai vàng. Bỗng Tiên ông xuất hiện tay cầm gậy, tóc trắng râu dài, xung quanh mây vần vũ, bảo rằng: “Ngọc Hoàng sai con xuống hạ giới này sản sinh ra một giống người. Nay đã đông đàn dài lũ, chúng đã biết làm ăn sinh sống. Vậy đến ngày mùng 7 tháng Giêng này con phải về trời theo lệnh vua cha nghe con, trước khi về trời lên núi Nỏ ta cho người đón”. Nói rồi, Tiên hòa vào đám mây biến mất. Mẹ Âu Cơ bỗng bừng tỉnh, bà thắp một nén nhang và quay về nơi ở. Nay dãy núi đó gọi là núi Ông (thuộc địa phận xã Xuân Áng, huyện Hạ Hòa). Rồi đến Tết năm đó, Mẹ cho gọi đông đủ con cháu trong vùng về ăn Tết, thật vui vẻ, thật to với nhiều trò chơi hấp dẫn. Sáng mùng 7 tháng Giêng, Mẹ Âu Cơ dặn các con ở nhà chăm chỉ làm ăn và phải thương yêu lấy nhau, Mẹ lên núi ít ngày hái thuốc. Thế rồi, Mẹ đi theo hướng Tây lên núi Nả, gặp một khe đá, mẹ đi ngược theo triền đá, khi mặt trời lên bằng lẩy, Mẹ cũng vừa thấm mệt, bỗng nghe thấy có tiếng rúc rích cười. Thì ra là một đoàn tiên nữ mang xiêm váy xuống đón mẹ. Một tiên nữ quỳ lạy trước Mẹ thưa: “Chúng con tuân lệnh Ngọc Hoàng về đây đón Mẹ. Mời Mẹ xuống ao tắm và thay váy áo để về trời cho kịp”.
Dòng nước Mẹ tắm chảy xuống chân núi, tạo thành một con suối. Người đời sau gọi đó là ao Giời – suối Tiên là như vậy (nay thắng cảnh này thuộc địa phận xã Hiền Lương). Sau khi thay xiêm áo, Mẹ giữ lại dải lụa đào và ngước nhìn về phía chân núi xa xa. Nơi đó Mẹ đã nuôi dạy cháu con và gắn bó cả cuộc đời. Khi theo các tiên nữ bay về trời, Mẹ Âu Cơ cố bay lượn thật thấp để nhìn thấy cháu con và nơi ở lần cuối. Bất thần, Mẹ thả dải khăn đào xuống như để lại tình thương yêu vô bờ cho con cháu. Con cháu đang vui chơi, bỗng trời tối xầm, bão tố nổi lên. Rồi dải lụa đào bay lượn trên không, rồi từ từ rơi xuống ôm lấy cả ngôi nhà và đàn cháu con đang nhảy múa. Ai cũng hiểu: Mẹ đã về trời ! Đàn con thắp nhang cầu nguyện cho Mẹ rồi họ gập dải khăn của Mẹ đặt lên bàn thơ. Tại đây, sau này con cháu đã dựng đền thờ Mẹ. Từ đó đến nay, dân trong vùng cứ đến mùng 7 tháng Giêng lại làm lễ, tưởng nhớ Mẹ tại đền Mẫu Âu Cơ và bao giờ cũng đem dải lụa đào trải trên ngọn cây đa cổ thụ tại đền để ghi nhớ công ơn cao dày của Mẹ Âu Cơ.
Đền Mẫu Âu Cơ
Bao đời nay, hình tượng Cha Rồng, Mẹ Tiên đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân Việt, trở thành biểu tượng thiêng liêng về giống nòi của dân tộc.
Tín ngưỡng gắn với tri ân Mẫu Mẹ
Tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ gắn liền với sự tri ân công đức người Mẹ của muôn dân. Đó là Mẹ Âu Cơ, người đã đưa đàn con đi khai thiên phá thạch, mở mang sơn trang, bờ cõi. Mẹ Âu Cơ bước ra từ trong huyền tích vốn là một người Mẹ như bao người mẹ Việt khác, bình dị, đảm đang, chịu thương chịu khó và rất mực yêu thương các con. Mẹ Âu Cơ dừng chân nơi mảnh đất trù phú Hiền Lương đã dạy muôn dân trồng lúa nước, nuôi tằm, dệt vải, đánh bắt cá, hái lượm… Bởi vậy, hình tượng Mẫu Âu Cơ luôn gắn với nền văn minh nông nghiệp.
Hình Mẫu Mẹ Âu Cơ được tạo tác mang đậm giá trị nhân văn qua pho tượng Mẫu thờ trong đền, công trình đã được công nhận là bảo vật Quốc gia. Tượng Mẫu Âu Cơ được thờ trong cung cấm của ngôi đền. Cung phía trên cao có thang gác gỗ đi lên, nơi có cỗ khám thờ tượng Mẫu Âu Cơ. Khám cao 1m82, dài 1m63 rộng 1m25. Riềm khám thờ được chạm văn hoa tứ quý (Tùng, Cúc, Trúc, Mai). Trong khám đặt cỗ ngai làm nơi ngự của tượng Mẫu Âu Cơ, tượng cao ước gần một mét, ở tư thế ngồi. Mẫu Âu Cơ mặc áo đỏ, yếm trắng đầu đội mũ, một tay cầm viên ngọc, tay kia đặt trên đầu gối, chân đi hài cong (vân sảo), đầu đội mũ lấp lánh (kim cương), nước da hồng, mặt đôn hậu. Toàn bộ tượng toát lên một vẻ đẹp thanh cao, đôn hậu của phụ nữ Việt Nam. Pho tượng là hiện vật gốc độc bản hiện thờ tại đền Mẫu xã Hiền Lương. Trải qua thời gian, khí hậu và thời tiết khắc nghiệt, pho tượng Mẫu Âu Cơ dường như vẫn còn nguyên gốc.
Vẻ đẹp kết tinh tinh hoa văn hóa bảo vật Quốc gia nơi cội nguồn đất Tổ của Tượng Mẫu Âu Cơ trước hết là hình ảnh một người phụ nữ ngồi trên ngai vua với biểu tượng rồng, hổ phù và phượng – vốn chỉ có nhà Vua, Hoàng hậu, Hoàng Thái hậu được sử dụng, như một trong những biểu hiện của quyền lực. Những thành tố ấy, đồng thời cũng là thành tố của nghệ thuật cung đình, chỉ xuất hiện ở những cung điện, đền miếu tại Hoàng cung và những nơi thờ tự được triều đình chăm lo với tư cách là những Quốc Từ, Quốc Tự, Quốc Miếu. Đền Mẫu Âu Cơ là Quốc Từ, mẹ Âu Cơ là Quốc Mẫu, theo đó, hình ảnh này, phượng, hổ phù trên ngai tưởng như là một sự hiển nhiên, nhưng dưới con mắt của những Nho gia thuộc chế độ phong kiến trung ương tập quyền là một biệt lệ “độc nhất vô nhị”. Chính vì thế, pho tượng mẫu Âu Cơ ở đền Mẫu Âu Cơ hoàn toàn khác biệt và mang giá trị độc đáo so với những tượng Mẫu khác được thờ trên cả nước. Bên cạnh đó, tượng Mẫu Âu Cơ còn là hình ảnh một chân dung người phụ nữ Việt, luôn tỏa ra một nét đẹp thanh tao, đôn hậu, giản dị mà gần gũi.
Tín ngưỡng gắn với lễ hội
Nét nổi bật trong tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ ở Hiền Lương là lễ hội đền Mẫu được UBND huyện Hạ Hòa tổ chức trang trọng vào ngày “Tiên giáng”, mùng 7 tháng Giêng hằng năm. Ngày lễ chính của Đền Âu Cơ là ngày “Tiên giáng” mùng Bảy tháng Giêng, ngoài ra trong năm còn có các ngày lễ khác là ngày 10-11/2, ngày 12/3, ngày 13/8, ngày “Tiên thăng” 25 tháng Chạp. Xưa kia, trong huyền tích, Mẹ Âu Cơ dừng chân tại Hiền Lương lập sơn trang, dạy dân trồng lúa nước, trồng dâu nuôi tằm và dệt vải. Chính vì vậy, lễ vật dâng lên Mẫu Mẹ cũng gắn liền với sự trù phú của đời sống nông nghiệp ở vùng này.
Đến gần ngày lễ, người dân Hiền Lương bơi thuyền ra giữa sông Hồng, chọn nơi nước trong nhất múc nước về để chế biến các thứ bánh và lễ dâng Quốc Mẫu. Người dân quanh vùng Hiền Lương thành tâm làm bánh ngọt để dâng lên Mẫu Mẹ. Bánh được làm bằng bột gạo nếp thơm và mật mía ngon, nhào kĩ rồi lăn thành hình tròn dài, cắt thành từng đoạn như đốt tre hấp chín. Một trăm cầu bánh ngọt cùng với xôi nếp, chè lam, 100 phẩm oản bằng xôi nếp, hoa thơm là lễ vật dâng lên Mẫu Mẹ Âu Cơ vào ngày chính lễ. Lễ chỉ dùng đồ chay để dâng Mẫu chứ không dùng đồ mặn. Sáng mùng Bảy tháng Giêng, cờ xí rợp trời, trống chiêng vang lừng, hương trầm lan tỏa khắp nơi, dải lụa đào hồng tung bay trên ngọn đa, người người tụ về bên gốc đa già để mở hội. Đúng giờ thìn từ bảy giờ đến chín giờ, đám rước từ đình đến đền Mẫu đến sân đền. Phường bát âm gồm: đàn sáo, nhị, trống phách, sinh tiền… Đội rước này là nam giới, đi đầu là những lá cờ thần, sau kiệu là những vị chức sắc, các bô lão mặc áo thụng xanh, áo dài khăn xếp rồi đến dân làng đi trẩy hội.
Đến sân đền chính, sau lễ dâng hương và lễ vật gồm 100 cầu bánh ngọt, 100 phẩm oản, hoa quả thì đến tế nữ. Đội tế nữ gồm 12 cô gái thanh tân có nhan sắc và học vấn tiến hành nghi lễ tế. 12 cô gái mặc áo dài đủ các màu, đầu đội khăn kim tuyến, chân đi hài thêu, thắt lưng lụa, chủ lễ mặc hoàn toàn màu đỏ. Tế nữ là khâu thu hút sự chú ý nhất trong phần tế. Sau nghi lễ tế, hội diễn ra với nhiều hoạt động bằng các trò chơi dân tộc như đu tiên, đánh cờ người, chọi gà, tổ tôm… cùng các hoạt động người dân dâng sớ, thắp hương cầu khấn Mẫu Mẹ. Người dân Hiền Lương đến nay còn truyền nhau mãi câu ca: Anh em Bách Việt ta ơi !/ Ngày xuân thong thả tới nơi xem tường/Dân ngày hội tế Mẫu Vương/ Người sinh ra tổ Hùng Vương nước nhà… Lễ hội đền Mẫu Âu Cơ là dịp để muôn dân đất Việt hướng về nguồn cội, tri ân công đức của Mẹ Âu Cơ, hội tụ tinh thần đoàn kết và đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
Gìn giữ tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ
Ngày 23/1/2017, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành quyết định công nhận Tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ là Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia. Việc công nhận và tôn vinh giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ là nguồn cổ vũ, động viên Đảng bộ, chính quyền xã Hiền Lương nói riêng và Nhân dân Hạ Hòa nói chung. Tự hào là vùng quê xưa kia, là nơi Mẹ Âu Cơ cùng đàn con dừng chân khai thiên phá thạch, xây dựng cơ đồ, là nơi hương hỏa, thờ phụng quốc Mẫu Âu Cơ, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, của thời gian, cư dân nơi đây đã gìn giữ và phát huy tín ngưỡng thờ Mẫu gắn liền với văn hóa xứ sở và thuần phong mĩ tục của dân tộc.
Biết bao đời nay, dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử nhưng Nhân dân xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa luôn gìn giữ tín ngưỡng thờ Mẫu Mẹ, lập đền thờ và hương hỏa cho đến hôm nay. Các nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng, ở Việt Nam có tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng ấy bắt nguồn từ chính tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ ở đền Mẫu tọa lạc tại xã Hiền Lương.
Đền Mẫu Âu Cơ gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ đã trở thành một nét đẹp trong tinh hoa văn hóa của người Việt, là biểu tượng thiêng liêng của nguồn cội con Lạc cháu Hồng của muôn dân đất Việt, là nơi để mỗi người dân Việt Nam dù ở phương trời nào cũng hướng về với một lòng thành kính sâu sắc như lời ông cha ta đã dạy: “Con người có tổ có tông, như cây có cội như sông có nguồn”. Chúng ta vô cùng tự hào gìn giữ những giá trị nhân văn trong tín ngưỡng thiêng, tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ trên mảnh đất Hạ Hòa nói riêng và vùng đất Tổ nói chung.