GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC

    VĂN HOÁ HÀ NỘI

    TS.NGUYỆN THỊ VIỆT HƯƠNG (Chủ biên),
    GS.TSKH PHAN ĐĂNG NHẬT
    PGS.TS. NGUYỄN THỊ HUẾ, TS. PHẠM VIỆT LONG

    VĂN HỌC DÂN GIAN
    CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM

    (Giáo trình Đại học)

    2

  2. Lời nói đầu

    Văn hoá nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận đặc biệt
    quan trọng cấu thành văn hoá Việt Nam, làm nên bản sắc của văn hoá Việt Nam –
    đa dạng mà thống nhất. Vì vậy, nghiên cứu văn hoá Việt Nam không thể không
    nghiên cứu văn hoá nghệ thuật các dân tộc thiểu số.

    Trong kho tàng văn hoá nghệ thuật phong phú đó, văn học dân gian có thể
    được xem là thành tố tiêu biểu nhất chuyển tải cả đời sống vật chất, tinh thần lẫn
    lịch sử phát triển của các dân tộc. Đối với các dân tộc thiểu số, do đặc thù của điều
    kiện sinh hoạt, vai trò chuyển tải này càng được thể hiện rõ rệt hơn. Cho tới ngày
    nay, khi mà văn hoá truyền thống nói chung đang phải chịu nhiều tác động tiêu
    cực từ mặt trái của kinh tế thị trường, đồng thời văn học cũng đang phải chia sẻ
    vai trò của mình với những phương tiện thông tin khác, thì văn hoá truyền thống
    các dân tộc thiểu số vẫn còn được bảo lưu khá nguyên vẹn trong văn học dân gian,
    nó vẫn là kênh thông tin không chỉ giúp chúng ta tìm hiểu về quá khứ các dân tộc
    anh em, mà còn là thành tố giới thiệu toàn cảnh cuộc sống đương đại các dân tộc
    thiểu số Việt Nam.
    Cũng chính bởi vai trò, giá trị và đặc điểm đó nên nghiên cứu văn học dân
    gian các dân tộc thiểu số sẽ gặp những khó khăn nhất định. Khó nhất vẫn là vấn đề
    ngôn ngữ. Văn học là nghệ thuật của ngôn từ, do vậy, tìm hiểu văn học dân gian các
    dân tộc thiểu số thông qua bản dịch sẽ không thể tránh khỏi việc thẩm định chưa hết
    giá trị nội hàm của thông tin phía sau hàng rào ngôn ngữ. Bên cạnh đó là khó khăn về
    quan điểm đánh giá. Cho dù tôn trọng nguyên tắc cao nhất trong thẩm định văn học
    dân gian là phải đặt chúng trong môi trường diễn xướng, thì người nghiên cứu cũng
    khó có thể có được sự đồng cảm tuyệt đối đối với cơ sở hình thành văn học dân gian
    của cả 53 dân tộc. Điều này rất có thể sẽ dẫn đến xu hướng chủ quan, thậm chí áp đặt
    trong đánh giá. Bên cạnh đó, do xuất phát từ chính tính đa dạng của 53 sắc thái văn
    hoá nên khi nhóm tác giả muốn đưa ra những nhận định mang tính tổng quan và hệ

    3

  3. thống – một

    yêu cầu cần thiết đối với giáo trình giảng dạy – cũng gặp phải một số khó
    khăn nhất định.
    Với những khó khăn như vậy, việc biên soạn giáo trình Văn học dân gian
    các dân tộc thiểu số Việt Nam được thực hiện chủ yếu xuất phát từ yêu cầu thực
    tế của việc giảng dạy, khó có thể đáp ứng đầy đủ các tiêu chí khoa học cần phải
    đạt. Nhóm tác giả thực hiện phần biên soạn của mình dựa trên tài liệu Văn học
    dân gian các dân tộc thiểu số của Võ Quang Nhơn, có điều chỉnh phù hợp với
    quan điểm phân loại văn học dân gian đương đại, đồng thời mở rộng phần môi
    trường diễn xướng để giúp sinh viên ngành Văn hoá Dân tộc thiểu số có thể tiếp
    cận văn học dân gian một cách gần gũi với chuyên môn hơn.
    Với mục tiêu nêu trên, giáo trình xác định nhiệm vụ môn học là cung cấp
    những kiến thức cơ bản về nội dung, nghệ thuật của các thể loại văn học dân gian
    các dân tộc thiểu số Việt Nam trong quan hệ với cơ sở ra đời của nó. Kết thúc môn
    học, sinh viên sẽ có cái nhìn đầy đủ hơn về giá trị của văn học dân gian các dân
    tộc thiểu số trong đời sống xã hội nói chung, trong các hoạt động văn hoá nghệ
    thuật nói riêng, biết vận dụng những hình thức diễn xướng phù hợp vào việc tổ
    chức các hoạt động văn hoá ở cơ sở.
    Các thể loại văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam khá phong phú.
    Tuy nhiên, trong khuôn khổ giáo trình của ngành Văn hoá dân tộc thiểu số, chúng
    tôi chỉ tập trung vào một số thể loại tiêu biểu. Kết cấu giáo trình, vì vậy sẽ có
    những nội dung sau:
    Chương 1. Khái quát về văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam
    Chương 2. Thần thoại
    Chương 3. Truyện cổ tích
    Chương 4. Sử thi
    Chương 5. Truyện thơ
    Chương 6. Dân ca
    Nhóm tác giả rất mong sẽ nhận được góp ý của các nhà chuyên môn và
    những người quan tâm để công trình của chúng tôi ngày một hoàn thiện hơn.
    Xin trân trọng cám ơn.

    4

  4. Chương 1

    KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN

    CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
    I. KHÁI NIỆM

    1. Định nghĩa

    Văn học dân gian ra đời sớm nhất trong lịch sử văn học, gắn liền với khái
    niệm folklore.

    1.1. Folklore

    Thuật ngữ này được nhà nhân chủng học người Anh là Wiliam Thoms (bút
    danh Mectơn) đưa ra lần đầu tiên trong bài báo Folklore (đăng trên tạp chí
    Atheneum số 982 ngày 22 tháng 8 năm 1846) dùng để chỉ những di tích của nền
    văn hoá vật chất và chủ yếu là những di tích văn hoá tinh thần của nhân dân có
    liên quan với nền văn hoá vật chất như: “phong tục, đạo đức, việc cúng tế, dị
    đoan, ca dao, cách ngôn… của các thời đại trước”. Do được ghép bới 2 từ: folk
    (dân chúng, dân gian) và lore (trí tuệ) nên khi thuật ngữ này lan toả ra khỏi biên
    giới nước Anh, nó được các nhà khoa học của những ngành tiệm cận như dân tộc
    học, văn hoá học, văn học dân gian… sử dụng và giải thích theo quan điểm riêng của
    mình. Theo GS. Đinh Gia Khánh, cho tới nay, có 3 khuynh hướng giải thích thuật
    ngữ này với những nội hàm khác nhau.

    Thứ nhất: Khuynh hướng nhân loại học Anh- Mỹ

    Khuynh hướng này hiểu Folklore theo nghĩa rộng và không phân biệt rạch
    ròi giữa nghiên cứu Folkore với dân tộc học hoặc nhân học. Các đại diện như:
    Harthland, Lang, Frazer, Botkin… đều cho rằng: Folklore là một khoa học về
    truyền thống nói chung của nhân loại ở khắp nơi trên thế giới.

    Cách hiểu này cho thấy khái niệm Foklore sẽ bao gồm toàn bộ đời sống vật
    chất và tinh thần của các tầng lớp dân chúng, tương đương với thuật ngữ Folk –

    5

  5. culture.

    Thứ hai: Khuynh hướng xã hội học phương Tây (Pháp)

    Đây cũng là một khuynh hướng hiểu khái niệm Folklore theo nghĩa rộng: là
    truyền thống của các tầng lớp dân chúng. Tuy nhiên khuynh hướng này đã nhấn
    mạnh sự khác nhau giữa dân tộc học và Foklore khi khu biệt rằng: trong xã hội có
    giai cấp, dân tộc học nghiên cứu mọi hiện tượng được lưu truyền qua chữ viết, còn
    Foklore nghiên cứu mọi hiện tượng văn hoá lưu truyền qua cửa miệng (truyền khẩu)
    của các giai cấp, các nhóm xã hội khác nhau.

    Cũng theo xu hướng này, Folklore là sản phẩm của số đông, tức là tầng lớp
    nhân dân lao động để phân biệt với số ít, là tầng lớp thượng lưu phong kiến. Đại diện
    tiêu biểu là các học giả: Saintyves, Marinus, Espinoza…

    Nhược điểm của quan niệm rất rộng này là không phân định được ranh giới
    rõ rệt giữa các ngành khoa học gần gũi nhau.

    Thứ ba: Khuynh hướng ngữ văn học Nga

    Khuynh hướng này lại đi theo hướng đối lập với hai khuynh hướng trên khi
    thu rất hẹp nội hàm khái niệm Folklore, coi Folklore là nghệ thuật ngôn ngữ của
    dân chúng. Quan điểm này có cơ sở từ thực tế nghiên cứu văn bản những tác phẩm
    Folklore nổi tiếng của những quốc gia có chữ viết ra đời sớm. Khi được văn bản
    hoá, những tác phẩm Folklore bị tách khỏi phần diễn xướng của nó để chỉ còn là
    ngôn ngữ thuần tuý.

    Tuy nhiên, vào cuối những năm 60, nhiều học giả Liên xô đã vượt lên quan
    điểm ngữ văn học truyền thống để gắn ngôn ngữ với các thành tố khác trong một
    chỉnh thể văn hoá dân gian. Cho dù nặng về nghiên cứu ngôn ngữ song rõ ràng
    khuynh hướng này đã khắc phục được nhược điểm của hai khuynh hướng trên khi
    khẳng định Folklore là một nghệ thuật. Khẳng định đặc trưng này, Folklore đã
    không giống với dân tộc học song cũng không thể hoàn toàn giống với nghệ thuật
    ngữ văn.
    Sách Bách khoa toàn thư Xô – viết xuất bản năm 1971 nhận định:

    6

  6. “Folklore là sáng

    tác dân gian, là hoạt động nghệ thuật của nhân dân lao động.
    Đó là thơ ca, âm nhạc, múa hát, kiến trúc, nghệ thuật trang trí thực hành, hội hoạ,
    được nhân dân sáng tạo ra và sống trong nhân dân”.
    Quan điểm này thực sự đã khắc phục được sự khu biệt quá hẹp và quá khô
    cứng của trường phái ngữ văn học, đồng thời phân định đựơc đối tượng độc lập
    của Folklore qua việc khẳng định tính nghệ thuật như một đặc trưng tiêu biểu1.
    Như vậy, thuật ngữ Folklore đã từng được dịch sang tiếng Việt là văn học
    dân gian (mang dấu ấn của trường phái nghiên cứu ngữ văn học Nga), văn nghệ
    dân gian (mang dấu ấn của trường phái xã hội học Tây Âu), và hiện nay là văn
    hoá dân gian (theo cách quan niệm của khuynh hướng nhân loại học Anh – Mỹ).
    Thực tế, khái niệm văn học dân gian có liên hệ mật thiết với thuật ngữ folklore
    nhưng không phải là đồng nhất.

    1.2. Văn học dân gian

    Đây là thuật ngữ bao gồm hai vế: văn học và dân gian.

    Văn học chỉ bộ phận sáng tạo nghệ thuật bằng chất liệu ngôn từ. Trên phương
    diện này, văn học dân gian và văn học thành văn có sự tương đồng.
    Theo Từ điển tiếng Việt:
    – Văn học là Nghệ thuật dùng ngôn ngữ và hình tượng để thể hiện đời sống
    và xã hội con người (Tr.1079).
    – Ngôn ngữ là 1. Hệ thống những âm, những từ và những quy tắc kết hợp
    chúng mà những người cùng một cộng đồng dùng làm phương tiện để giao
    tiếp với nhau. Ví dụ: Tiếng Nga và tiếng Việt là hai ngôn ngữ rất khác
    nhau. 2. Hệ thống ký hiệu dùng làm phương tiện để diễn đạt, thông báo. Ví
    dụ: Ngôn ngữ điện ảnh. Ngôn ngữ hội hoạ. Ngôn ngữ của loài ong. 3.
    Cách thức, nghệ thuật hay trình độ sử dụng ngôn ngữ có tính riêng. Ví dụ:
    Ngôn ngữ Nguyễn Du. Ngôn ngữ trẻ em. Ngôn ngữ báo chí (Tr.683).
    – Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật
    dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức
    1
    Đinh Gia Khánh: Trên đường tìm hiểu văn hoá dân gian. NXB Khoa học xã hội, H

    7

  7. trực tiếp bằng

    cảm tính. Ví dụ: Hình tượng nghệ thuật (Tr.443).
    – Ngôn từ là ngôn ngữ được nói hay viết thành văn (nói khái quát). Ví dụ:
    Ngôn từ trong sáng, giản dị (Tr.683).
    Dân gian đóng vai trò như là tính từ chỉ tính chất, đặc trưng loại biệt của loại
    văn học này.
    Thuật ngữ văn học dân gian ở Việt Nam mới xuất hiện khoảng những năm
    thuộc nửa sau thế kỷ XX.
    Đến nay, nội hàm của thuật ngữ văn học dân gian vẫn chưa được xác định rõ
    ràng.
    Có một thời, dòng văn học này còn được gọi là văn chương bình dân, văn
    học truyền miệng. Các nhà nghiên cứu (trong đó đa số là các nhà giáo ở các trường
    trung học) thường bóc tách cái lõi nghệ thuật ngôn từ để làm đối tượng nghiên
    cứu, phân tích, giảng giải. Sự phân biệt giữa những tác phẩm này với các sáng tác
    thành văn chỉ là ở chỗ tính khiếm khuyết tên tác giả (khuyết danh). Cách nhận
    thức này về cơ bản đặt văn học dân gian trong sự chi phối của quỹ đạo văn học
    thành văn và rõ ràng là xa lạ với bản chất nguyên hợp của văn học dân gian.
    Từ khi thành lập Hội Văn nghệ dân gian (22/11/1966) và Viện Văn hoá dân
    gian Việt Nam (9/9/1983), bộ phận ngôn từ đã được nghiên cứu trong mối quan hệ
    tổng hoà với các loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, vũ đạo, võ đạo, tạo hình
    và môi trường diễn xướng (lễ hội). Do vậy, có thể hiểu về văn học dân gian như
    sau:
    Văn học dân gian là thuật ngữ dùng để chỉ những thể loại sáng tác dân
    gian trong đó thành phần nghệ thuật ngôn từ (tức thành phần văn học) chiếm
    vị trí quan trọng, song bao giờ cũng có mối quan hệ hữu cơ với các thành phần
    nghệ thuật và phi nghệ thuật khác.
    Tuy vậy, cần chú ý: Tỷ lệ và vai trò của thành phần ngôn từ trong từng thể
    loại không phải là đồng đều như nhau trong tương quan với các thành phần nghệ
    thuật và phi nghệ thuật khác. Như diễn xướng trong truyện cổ tích thì thành phần
    ngôn từ đóng vai trò chủ yếu, nhưng trong dân ca nghi lễ thì tỷ lệ và vai trò của

    8

  8. các loại hình

    nghệ thuật khác như vũ đạo, âm nhạc, tạo hình và các yếu tố nghi lễ,
    phong tục, tín ngưỡng… tham gia nhiều hơn. Mặt khác, các yếu tố phi ngôn từ và
    phi nghệ thuật bằng cách này hay cách khác cũng thấm sâu vào cấu trúc của tác
    phẩm nghệ thuật ngôn từ (ví dụ: cấu trúc đối đáp, lối so sánh ví von, lối gieo vần,
    ngắt nhịp trong ca dao có thể hình dung được phương thức sinh hoạt và cả môi
    trường diễn xướng của nó).
    Khởi thuỷ, văn học dân gian hình thành và tồn tại trong tổng thể văn hoá dân
    gian. Trong quá trình phát triển, bộ phận nghệ thuật ngôn từ đóng vai trò quan
    trọng với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực đời sống thông
    qua sự hư cấu nghệ thuật.
    Ở bất kỳ một dân tộc, một quốc gia nào, khi chưa có văn học viết thì văn học
    dân gian là bộ phận chính của nền văn học và văn hoá của mỗi dân tộc. Khi văn
    học viết xuất hiện thì văn học dân gian không phải vì thế mà bị triệt tiêu. Hai dòng
    văn học này vẫn tồn tại và phát triển song hành, có sự tác động tương hỗ. Trong xã
    hội hiện đại, văn học dân gian vẫn giữ nguyên sức sống. Với các dân tộc thiểu số ở
    Việt Nam, văn học dân gian hầu như là toàn bộ phần chủ yếu trong toàn bộ giá trị
    sáng tạo văn học của họ.
    Với bất kì một nền văn học nào, một quốc gia, một dân tộc nào, văn học dân
    gian cũng là một công trình sáng tạo để đời. Văn học dân gian là một thành tố
    quan trọng cấu tạo văn hoá, là một phức hợp giá trị văn hoá văn học – lịch sử – triết
    học ngôn ngữ – tôn giáo – đạo đức của mối dân tộc.

    Văn học dân gian được sáng tạo ra theo quy trình sáng tạo văn hoá và lại là
    cơ sở chuyển tải các giá trị văn hoá, là phương tiện lưu giữ các giá trị văn hoá. Với
    mỗi dân tộc, văn học dân gian là tấm gương soi hình bóng của dân tộc mình. Từ
    đây có thể khám phá ra tính cách dân tộc, những đặc điểm về tâm lý, tình cảm, tâm
    thức dân tộc.

    2. Những đặc trưng cơ bản

    Là một thành tố cơ bản của văn hoá dân gian nên ngoài những đặc điểm
    riêng mang tính phân biệt với các thành tố khác, văn học dân gian thể hiện rất rõ

    9

  9. những đặc trưng

    cơ bản của văn hoá dân gian. Những đặc trưng chung đó là: tính
    nguyên hợp, tính diễn xướng và tính tập thể.

    Tính nguyên hợp:
    Thuật ngữ nguyên hợp tương đương với thuật ngữ quốc tế Syncretisme.
    Trước đây người ta thường dịch thuật ngữ này với nghĩa là tính hỗn hợp. Hỗn hợp
    cũng phản ánh sự bao hàm nhiều thành tố trong một chỉnh thể nhưng những thành
    tố đó không nhất thiết phải có mối quan hệ với nhau, thậm chí, các thành tố hoàn
    toàn xa lạ với nhau. Trong khi đó thì thuật ngữ Syncretisme bao hàm nhận thức có
    tính chất tổng thể về hiện thực, nhận thức ban đầu, nhận thức sơ khai. Trong nhận
    thức ban đầu này, người ta chưa phân tích tổng thể hiện thực ra từng thành tố khác
    nhau. Về mặt bản chất, nó giống như khái niệm Syncretisme trong tâm lý học, khi
    nói về nhận thức của trẻ thơ đối với thế giới, ở đó chưa có sự can thiệp của một
    quá trình nhận thức lý tính cao. Quá trình nhận thức sẽ ngày một được hoàn thiện
    hơn theo hướng đi sâu phân tích bản chất các thành tố cấu thành. Sự phân tích lý
    tính càng sâu sắc, hiện thực được nhận diện càng đầy đủ và rõ rệt hơn. Đến một giai
    đoạn phát triển cao hơn của tư duy, lý tính sẽ lại giúp con người đặt những thành tố
    đã được khám phá, phân tích đó trong mối tương quan tác động và ảnh hưởng qua lại
    lẫn nhau. Hiện thực lại được nhận thức dưới dạng kết hợp tổng thể các yếu tố nhưng
    không phải dạng kết hợp tự nhiên nguyên sơ ban đầu mà là sự kết hợp một cách có
    chủ đích. Sự kết hợp đó là sản phẩm của lối tư duy tổng hợp.

    Do vậy, theo giáo sư Đinh Gia Khánh, khi khẳng định Folklore có tính
    nguyên hợp, chúng ta hiểu rằng Folklore khi phản ánh thế giới luôn luôn là một
    nhận thức nguyên hợp về tổng thể vốn có của thế giới. Tuy nhiên trong quá trình
    sáng tạo Folklore không chỉ dừng lại ở tính chất nguyên hợp mà cũng trải qua
    những bước phân tích và tổng hợp, tính nguyên hợp chỉ là tính chất cơ bản của
    Folklore chứ không phải là duy nhất.

    Tính nguyên hợp của văn hoá dân gian được thể hiện trên ba phương diện

    10

  10. Mối quan hệ

    chặt chẽ giữa tính nghệ thuật và thực tiễn

    Trong đại đa số các hiện tượng văn hoá dân gian, chúng ta đều nhìn thấy mối
    quan hệ này. Nếu tách khỏi cơ sở xuất phát là tính thực tiễn, nhiều hiện tượng văn
    hoá dân gian sẽ mất đi giá trị đích thực của nó, bởi lẽ, nếu chỉ thuần tuý xét trên
    góc độ nghệ thuật, chúng ta khó có thể đánh giá công bằng giá trị của hiện tượng
    văn hoá dân gian trong tương quan với một loại hình nghệ thuật chuyên nghiệp
    khác.

    Hoạt động thực tiễn luôn bao hàm một sự vươn lên phía trước để ngày một
    hoàn thiện, cho nên nó luôn là hoạt động sáng tạo. Sự sáng tạo nhằm hướng tới
    mục đích là tìm thấy sự hài hoà tuyệt đối giữa con người và môi trường, một sự
    hài hoà lý tưởng, nên hoạt động thực tiễn lúc đầu vốn chỉ nhằm mục đích ích dụng
    thì về sau tất yếu đưa tới yêu cầu thẩm mỹ. Như vậy thì xu thế vươn lên cái đẹp rõ
    ràng là có tính tất yếu trong hoạt động thực tiễn của con người. Hình thành trong
    hoạt động thực tiễn, xu thế vươn lên ấy gắn với mục đích ích dụng của hoạt động
    thực tiễn.
    Văn hoá dân gian, với tính chất là một nghệ thuật nguyên hợp, bao gồm những
    sáng tạo nảy sinh trong quá trình hoạt động thực tiễn của đông đảo những người
    lao động. Ở trong những sáng tạo ấy, giá trị thẩm mỹ đã được hình thành một cách
    tự nhiên, nó kết hợp một cách nguyên hợp với giá trị ích dụng ngay trong một hiện
    tượng văn hoá dân gian.

    Ví dụ:
    a. Sự phát triển của nhạc cụ gõ cho dù có thể và thực tế là đã trở thành một
    loại hình nghệ thuật với tính thẫm mỹ cao thì trước tiên nó đã đáp ứng được những
    nhiệm vụ cụ thể của đời sống xã hội như:
    – Nhạc cụ gõ đã gắn với phương thức sản xuất và sinh hoạt xã hội xa xưa
    nhất như: hiệu lệnh của tập hợp cộng đồng, hiệu lệnh báo động nguy hiểm, hiệu
    lệnh mở đầu hay reo mừng thành quả của cuộc săn…
    – Nhạc cụ gõ đã gắn với những sinh hoạt nghi lễ sớm nhất để thoả mãn nhu

    11

  11. cầu tâm linh

    của con người như: cầu phồn thực (cầu mưa thuận gió hoà, cầu sinh
    sôi nảy nở, cầu an dân thịnh vật…), cầu siêu thoát (tiếng trống trong nghi lễ đưa
    linh)…
    Trong quá trình thực hiện chức năng ích dụng ấy, quy luật về sự biến đổi âm
    thanh được nhận thức ngày một rõ rệt hơn, nó là cơ sở để hình thành nghệ thuật
    âm nhạc mang tính thẩm mỹ cao.
    b. Những điệu hò chèo thuyền, kéo gỗ… có thể vươn tới trình độ thẩm mỹ
    cao nhưng bao giờ (và trước hết là) cũng gắn với mục đích làm giảm nhẹ sự vất vả
    và nâng cao hiệu quả bằng việc điều tiết nhịp điệu lao động tập thể.
    c. Các câu chuyện thần thoại, truyền thuyết có vẻ như xa lạ với tính ích
    dụng hơn khi nó hoàn toàn mang dáng dấp của những tác phẩm văn học. Một tác
    phẩm văn học thì yêu cầu thẩm mỹ nghệ thuật thường được nhìn nhận và đánh giá
    cao hơn những yêu cầu khác, song thần thoại, truyền thuyết dân gian lại không
    xuất phát từ thông lệ chung này. Đó trước hết không phải là sáng tạo nghệ thuật
    của dân gian mà là nơi bộc lộ những khám phá của người xưa về thế giới. Trong
    quá trình tác động vào thực tiễn, người xưa đã giải thích các hiện tượng tự nhiên
    xung quanh bằng tư duy cảm tính của mình. Giải thích bằng cách đó tuy không tìm
    ra bản chất các hiện tượng một cách khoa học nhưng lại tạo ra sự huyền ảo lung
    linh kỳ diệu. Đó là giá trị nghệ thuật vốn cũng không phải là mục đích đầu tiên
    phải thực hiện của người xưa.
    Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, nhiều hiện tượng văn hoá dân gian đã
    ngày một có xu hướng xa dần giá trị ích dụng ban đầu để vươn tới giá trị thẩm mỹ
    cao hơn. Quy luật tất yếu này không làm mất đi bản chất của văn hoá dân gian bởi,
    cho dù những hiện tượng đó ngày một thiên về xu hướng đề cao giá trị thẩm mỹ
    thì người ta vẫn nhìn thấy mối tương liên của nó với cơ sở ích dụng ban đầu.

    Sự khác biệt của văn hoá dân gian và bác học không phải ở chỗ có hay
    không có tính ích dụng và tính thẩm mỹ mà chính là ở sự kết hợp mang tính
    nguyên hợp và trực tiếp hai yếu tố này trong văn hoá dân gian.

    Mối quan hệ giữa các thời đại khác nhau và các địa phương khác nhau

    12

  12. trong sáng tạo

    văn hoá dân gian

    Do đặc thù của quy trình sáng tạo và tiếp nhận văn hoá dân gian là mang
    tính tập thể nên các hiện tượng văn hoá dân gian không thể bất biến. Hiện tượng
    văn hoá dân gian có thể được tập thể này chấp nhận nhưng chưa chắc đã phù hợp
    với quan điểm sáng tạo và tiếp nhận của nhóm người khác, trong những môi
    trường không gian và thời gian khác nhau. Mỗi thời đại có những vấn đề nổi bật,
    đó chính là trung tâm chú ý và chi phối sáng tạo tập thể. Tương tự, mỗi vùng
    không gian, do đặc điểm địa văn hoá khác nhau cũng góp phần làm nên những yêu
    cầu khác nhau trong sáng tạo và hưởng thụ văn hoá. Đây là nguyên nhân căn bản
    khiến cho sự tái tạo không ngừng diễn ra, qua mỗi thời đại, mỗi vùng địa văn hoá,
    sự tái tạo lại được hình dung giống như quá trình bồi tụ của các lớp phù sa lên bề
    mặt cơ tầng văn hoá cốt lõi. Sự bồi tụ này diễn ra một cách tự nhiên, không nhằm
    phủ định người trước mà chỉ thuần tuý là thoả mãn những quan điểm của tập thể
    về hiện tượng văn hoá mà họ quan tâm. Sự bồi tụ này phải được gọi là sự kết hợp
    mang tính nguyên hợp, tức là sự kết hợp một cách nguyên sơ, không chủ định giữa
    dấu ấn không gian và thời gian lên một hiện tượng văn hoá dân gian.

    Ví dụ:
    Tìm hiểu tục thờ Bà Chúa kho trong thế giới hiện tại sẽ thấy rất rõ dấu ấn
    của từng chặng thời gian lên hiện tượng văn hoá dân gian rất phổ biến hiện nay
    này.
    Tục thờ Bà Chúa kho hiện nay được hiểu là thờ bà chúa kho tiền khi người
    ta tìm đến nơi đây để vay xin hoặc trả nợ. Đây là vấn đề được quan tâm đặc biệt
    trong thời đại của kinh tế thị trường. Ở thời đại này, do vòng quay khắc nghiệt của
    cơ chế kinh tế mới, đồng tiền ngày càng chi phối nhiều mặt xã hội. Đồng tiền
    trong thời kỳ kinh tế thị trường lại có những biến đổi mạnh mẽ đến mức người ta
    tin rằng có một lực lượng siêu phàm đã đứng sau để điều tiết sự ảnh hưởng của nó.
    Những biến đổi đột ngột về kinh tế theo cả hướng tích cực lẫn tiêu cực được một
    số người giải thích bằng thái độ thưởng công hay trách tội của bà chúa cai quản
    kho tiền. Lực lượng siêu nhiên này đã được tìm thấy trong một biểu tượng của quá

    13

  13. khứ: bà Chúa

    kho lương thực. Đây là nhân vật nữ nổi tiếng của thời kỳ phong kiến
    gắn với nhiệm vụ nặng nề và vinh quang là coi sóc phần quan trọng nhất của cuộc
    sống con người thời đó. Trong bối cảnh mà người ta luôn phải đối diện với cái đói
    thì vấn đề lương thực lại nổi lên hàng đầu, đặc biệt là trong điều kiện chiến tranh.
    Bóc tiếp lớp văn hoá sớm hơn, người ta tìm thấy tục thờ này có cơ sở từ tục thờ
    Mẫu vốn rất phổ biến trong tâm thức người Việt. Xa hơn, tục thờ Bà Chúa kho
    lương đã có thể có chung gốc từ tục thờ Mẹ Lúa vốn không phải chỉ là sinh hoạt tín
    ngưỡng của riêng người Việt mà còn là của chung cư dân gốc Indonêsia bản địa.
    Điều này cho thấy, mỗi hiện tượng văn hoá dân gian còn lưu truyền tới đời
    sau đều đã trải qua một số phận lịch sử riêng để in dấu ấn thời gian rõ nét. Giải mã
    các hiện tượng văn hoá dân gian là bóc tách cho được những lớp văn hoá đã trùm
    lên cái lõi truyền thống ấy.
    Những giá trị thẩm mỹ của văn hoá dân gian còn được lưu truyền từ địa
    phương này sang địa phương khác. Tác phẩm văn hoá dân gian có thể và cần thay
    đổi để thích ứng được với môi trường xã hội, một môi trường luôn biến đổi và
    hướng lên phía trước. Quá trình chọn lựa, mài giũa tác phẩm dân gian khi nó lưu
    hành trong không gian cũng tương tự như quá trình diễn ra trong thời gian. Nếu
    như tác phẩm dân gian được tái tạo để thích nghi với từng thời đại thì nó cũng
    được tái tạo để thích nghi với từng địa phương.
    Cũng với tục thờ Bà Chúa Kho như đã nói ở trên. Tục thờ Bà Chúa Kho
    hiện vẫn còn phổ biến ở cả Bắc Ninh và Hà Nội. Điều thú vị chính là ở chỗ nếu
    đền thờ ở Bắc Ninh mang ý nghĩa như thờ một Bà Chúa kho tiền như đã phân tích
    thì ở làng Giảng Võ (Hà Nội ) người ta vẫn thờ bà nguyên nghĩa là một vị Thành
    hoàng với nhiệm vụ thiêng liêng là che chở và định đoạt phúc hoạ cho cả làng.

    Tính chất nguyên hợp của tác phẩm dân gian thể hiện ở chỗ trong tác phẩm
    dân gian, những sáng tạo của nhiều người thậm chí của nhiều thời đại, của nhiều
    địa phương đã kết hợp với nhau một cách tự nhiên theo những quy luật của sự tiếp
    biến văn hoá (acculturation). Và như vậy, phân tích sâu sắc tác phẩm thì có thể
    tách bóc nhiều tầng lớp văn hoá chồng chất lên nhau hoặc kết dính với nhau, ở đó

    14

  14. có cả dấu

    ấn của thời gian, cả không gian và thường là sự kết hợp của cả hai yếu tố
    này.

    Sự gắn bó hữu cơ giữa các thành tố tạo nên một hiện tượng văn hoá dân gian

    Sân khấu chèo là một ví dụ rõ rệt về mối quan hệ nguyên hợp này. Sân khấu
    chèo phải đi từ đơn vị cơ bản đầu tiên là tích truyện (ngữ văn). Cốt truyện này
    được các diễn viên trình diễn theo những quy cách nhất định (diễn xướng) với sự
    trợ giúp của giai điệu và nhạc cụ (âm nhạc), trang phục và đạo cụ phù hợp (nghệ
    thuật tạo hình). Những yếu tố ấy được hình thành và chỉnh lý có phần ngẫu hứng
    qua môi trường diễn xướng mang đậm tính giao lưu giữa người diễn và người xem
    nên hiệu quả tác động là rất lớn, người xem luôn có cảm giác gần gũi với những gì
    đang diễn ra. Sân khấu chèo hiện đại cũng có sự góp mặt của nhiều thành tố nhưng
    sự độc lập tương đối của các thành tố tham gia đã tạo cho các thành tố của sân
    khấu chèo hiện đại một kiểu kết hợp không giống sân khấu chèo truyền thống. Nếu
    như sự kết hợp các thành tố trong chèo truyền thống là rất chặt chẽ và mang tính
    chất quy định nhau thì điều này trong sân khấu chèo hiện đại là không cần thiết.
    Một số khâu của sân khấu chèo truyền thống đã được lược bỏ như trong tích trò
    Quan Âm Thị Kính là Thiện Sĩ đã đến nhà Mãng Ông, người diễn tuy cùng đứng
    trong chiếu chèo nhưng phải làm động tác mở cổng mới được xem như là đã nhìn
    thấy nhau thì với sự trợ giúp của đạo cụ, sân khâu chèo hiện đại đã không cần thao
    tác này. Do vậy có thể thấy sự gắn bó giữa các thành tố trong văn hoá dân gian
    mang tính quy định và chi phối nhau trong một tổng thể chung là làm nổi bật giá
    trị tác phẩm. Sự quy định lẫn nhau này cũng có thể tìm thấy rất rõ trong lễ hội
    truyền thống khi yếu tố truyền thuyết sẽ đóng vai trò chi phối hành vi nghi lễ, lễ
    vật và tiến trình tổ chức lễ hội.

    Hiện tượng kết hợp mang tính nguyên hợp các thành tố trong một hiện
    tượng văn hoá dân gian nói trên cũng xuất phát từ chính sự nhận thức mang tính
    chỉnh thể về hiện thực. Hiện thực được cảm nhận bằng mọi giác quan trong mối
    quan hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng trực tiếp tới việc tái hiện thế giới qua sáng tạo
    nghệ thuật. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, các thành tố sẽ dần dần được chú ý

    15

  15. ở những mức

    độ khác nhau để mang những vai trò khác nhau, đến mức, một số
    thành tố sẽ mang vai trò chủ đạo và hoàn toàn có thể tách khỏi chỉnh thể như một
    loại hình nghệ thuật riêng. Quá trình đó đã đưa bản chất nguyên hợp trong sự kết
    hợp nhiều thành tố của một hiện tượng văn hoá dân gian sang quá trình phân tích,
    tạo điều kiện cho sự phản ánh thế giới một cách tổng hợp với sự can thiệp của tư
    duy lý tính cao hơn.

    Như vậy, khẳng định nguyên hợp là đặc trưng cơ bản của văn hoá dân gian
    sẽ luôn phải bao hàm nhận thức mở về khái niệm này, theo đó, bản chất nguyên
    hợp tất yếu sẽ đi theo quy trình phát triển của mình để mang dấu ấn lý tính cao
    hơn. Tuy nhiên, đối với sáng tạo văn hoá dân gian, dấu ấn lý tính cao đó không
    phá vỡ và không làm mất đi xu hướng chủ đạo là tính nguyên hợp điển hình trong
    văn hoá dân gian.

    Tính tập thể và diễn xướng

    Nảy sinh trong quá trình khám phá và cải tạo thế giới, văn hoá dân gian là
    kết quả của sự sáng tạo và tái tạo không ngừng. Quá trình đó lại xảy ra trong bối
    cảnh chữ viết chưa có hoặc chưa được phổ biến đến đại bộ phận nhân dân lao
    động nên chỉ có thể tồn tại và lưu truyền nếu hiện tượng văn hoá dân gian đó phù
    hợp với quan điểm chung của toàn thể cộng đồng. Tiêu chí này trở thành yếu tố
    điều chỉnh lực lượng sáng tác. Khi lực lượng sáng tác là tập thể, là số đông, khả
    năng được chấp nhận là cao hơn bởi hiện tượng văn hoá dân gian ấy được xem
    như đã thông qua một lần chọn lọc .

    Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý tiếp nhận các hiện tượng văn hoá dân
    gian nên những sáng tạo văn hoá dân gian thường theo hướng “tập thể hoá” những
    ý tưởng cá nhân. Truyền thuyết về các nhân vật được phụng thờ trong lễ hội luôn
    được bồi phủ bởi những hình thức phổ biến như “nghe các cụ xưa truyền lại
    rằng…, mọi người kể là…”. Điều đó tiếp tục được áp dụng với quy trình tổ chức
    lễ hội. Một ý tưởng cá nhân dễ được chấp nhận hơn nếu như nó được đưa ra bằng
    hình thức: “mọi nguời nói là ngày xưa thường làm thế này….”. Như vậy, cả trong

    16

  16. sáng tạo lẫn

    trong tiếp nhận, yếu tố tập thể luôn đóng vai trò quan trọng chi phối
    một hiện tượng văn hoá dân gian, nó là nguyên nhân khiến mỗi hiện tượng văn
    hoá dân gian lại có một đời sống riêng rất phong phú.
    Tính tập thể trong sáng tạo có thể gặp trong văn hoá hiện đại, văn hoá bác
    học nhưng rõ ràng là mang màu sắc khác. Tập thể sáng tạo trong văn hoá hiện đại
    luôn có nhu cầu khẳng định phong cách riêng biệt, độc đáo của nhóm, thậm chí
    khẳng định rõ tên tuổi của nhóm như: Ngô gia văn phái (viết Hoàng Lê nhất thống
    chí), Đoàn ca nhạc Việt Bắc, Đoàn nghệ thuật Tây nguyên… nhưng tập thể sáng
    tạo trong văn hoá dân gian có vẻ như không thiên về nhu cầu này. Trong mỗi hiện
    tượng văn hoá dân gian có in dấu rất rõ tính địa phương, môi trường làm việc
    nhưng không với mục đích nhấn mạnh sự độc đáo, nét khác biệt. Môi trường như
    là một sự thể hiện tất yếu trong một chỉnh thể nguyên hợp của văn hoá dân gian,
    người nghệ sĩ dân gian đã đặt cái tôi cá nhân dưói những vấn đề chung của tập thể,
    thoả mãn quan điểm của tập thể và được chính tập thể ấy chỉnh lý trong quá trình
    tồn tại. Tính vô danh về phương diện tác giả của văn hoá dân gian không bao giờ
    đồng nghĩa với việc vô tác giả, thậm chí dù vô danh, người ta vẫn nhận thấy vai
    trò rất quan trọng của cá nhân trong việc sáng tạo, hiệu đính hay chỉnh lý văn hoá
    dân gian. Các cá nhân hay tập thể sáng tạo ấy khi sáng tạo ra tác phẩm văn hoá
    dân gian đã chịu ảnh hưởng của quan điểm tập thể và trong quá trình lưu truyền lại
    được thời đại hay chính là tập thể thẩm định, màng lọc này sẽ loại bỏ những tác
    phẩm không phù hợp với quan điểm chung của cộng đồng.
    Đến lượt mình, tính vô danh trong tác phẩm văn hoá dân gian lại tạo ra một
    hiện tượng rất thú vị, đó là tính dị bản. Dị bản tưởng như là hiện tượng chỉ gặp
    trong văn học nhưng thực chất nó là hiện tượng dễ gặp trong hầu hết các hiện
    tượng văn hoá dân gian. Một diễn xướng lễ hội cùng thờ một nhân vật nhưng tại
    mỗi vùng, nó lại được tập thể của nơi đó thay đổi cho phù hợp với những vấn đề
    của địa phương.
    Tập thể trong văn hoá dân gian được cụ thể thành những cộng đồng sáng tạo
    và cảm thụ. Khái niệm Cộng xuất hiện khá phổ biến trong nghiên cứu văn hoá dân

    17

  17. gian. Cộng cư

    là khái niệm chỉ những người cùng sống trên một địa bàn. Tương
    tự, cộng mệnh, cộng cảm, cộng lợi là khái niệm để chỉ nhũng nhóm người có cùng
    chung nhau những ràng buộc khác về quyền lợi, số phận, sở thích…
    Như vậy, tính tập thể có thể được xem là một đặc trưng quan trọng của văn
    hoá dân gian khi nó lý giải những hiện tượng mà văn hoá bác học không có. Đặc
    trưng này vừa được coi là nguyên nhân vừa có thể xem là hệ qủa của tính nguyên
    hợp khi chúng gắn bó rất chặt chẽ với nhau.
    Là hệ quả của tính tập thể, nói tới diễn xướng là nói tới môi trường tạo dựng
    và tồn tại của văn hoá dân gian. Như đã phân tích trong tính nguyên hợp, không
    thể có hiện tượng văn hoá dân gian nào được coi là đầy đủ ý nghĩa và giá trị thẩm
    mỹ khi bị tách khỏi môi trường diễn xướng của nó.
    Những năm gần đây, thuật ngữ diễn xướng (performance) được sử dụng
    rộng rãi trong các ngành khoa học xã hội bởi tính phổ biến và cách tiếp cận khoa
    học của thuật ngữ này được mở rộng hơn trước.
    Thuật ngữ performance không chỉ còn là những hình thức nghiên cứu sân
    khấu, nhảy múa âm nhạc đơn thuần với những yêu cầu đòi hỏi của sự trình diễn
    các kỹ năng hay biểu diễn những động tác qua sự tập luyện thể chất của con người
    như khái niệm performing art mà nó mang ý tưởng bao trùm, được tiếp cận trên
    một phạm vi rộng trong các lĩnh vực xã hội bao gồm các hành động ứng xử như
    nghi lễ, nghi thức xã hội, lời hay ý đẹp… các hoạt động trình diễn: trình bày, diễu
    hành, sân khấu… Nói cách khác, chúng ta có thể nghiên cứu tất cả các hoạt động
    xã hội như là một hình thức diễn xướng.
    Khái niệm diễn xướng như vậy là rất rộng và nó trở thành môi trường tồn tại
    của các hiện tượng xã hội nói chung chứ không phải chỉ riêng văn hoá hoặc văn
    hoá dân gian. Vấn đề là ở chỗ các hiện tượng văn hoá nói chung có thể đã đạt tới
    mức độ độc lập tương đối để tồn tại trong dạng tách biệt cũng không ảnh hưởng
    nhiều tới giá trị thẩm mỹ. Hơn nữa, bản thân môi trường diễn xướng không phải là
    nhân tố quan trọng tạo ra hiện tượng văn hoá hiện đại. Một bài hát hiện đại không
    nhất thiết phải ra đời trong môi trường là một sinh hoạt cụ thể như dân ca. Ca khúc

    18

  18. hiện đại hoàn

    toàn có thể chỉ dựa trên ý tưởng chủ quan của chủ thể sáng tác. Mặt
    khác, khi ra đời, ca khúc hiện đại có thể xuất hiện trong những sinh hoạt diễn
    xướng nhưng thuộc tính này là không bắt buộc. Tính diễn xướng như một đặc
    trưng của văn hoá dân gian là khái niệm được hiểu theo nghĩa hẹp hơn khi diễn
    xướng là “có diễn (có hành động, có sự việc) và có xướng (nói năng ca hát) nhưng
    thông thường người ta vẫn hiểu hai yếu tố đó gắn bó với nhau. Diễn tuy không có
    lời nhưng lời câu vẫn là một cách thông báo. Xướng tuy không có hành động
    nhưng vẫn gây cảm giác về một hành động”1.
    Hiểu theo nghĩa hẹp như vậy, diễn xướng như một đặc trưng của văn hoá
    dân gian khi nhấn mạnh tính chỉnh thể của văn hoá dân gian trong tương quan với
    các thành tố khác. Trong tổng thể này, văn hoá dân gian ra đời và cũng chính trong
    tổng thể này văn hoá dân gian thực sự mang đầy đủ giá trị và ý nghĩa thẩm mỹ.
    ***

    Bên cạnh những đặc trưng chung như các thành tố văn hoá dân gian khác, văn
    học dân gian còn mang những nét khác biệt so với nghệ thuật tạo hình dân gian,
    nghệ thuật biểu diễn dân gian… đó là:

    Văn học dân gian, nghệ thuật ngôn từ

    Nghệ thuật ngôn từ là đặc trưng chung của văn học, không phải riêng có của
    văn học dân gian. Tuy nhiên, nghệ thuật ngôn từ của văn học dân gian mang nét
    khác biệt so với nghệ thuật ngôn từ của văn học viết, ở đó, ngôn từ không cần bắt
    buộc đặt trong tương quan với những yếu tố khác. Nói cách khác, những đặc trưng
    của văn hoá dân gian đã chi phối vai trò ngôn từ trong tác phẩm văn học dân gian.

    Trước hết, tính nguyên hợp đã khiến cho văn học dân gian luôn bao hàm
    nhiều yếu tố. Điều này được nhận thấy rõ rệt trên hai phương diện: vai trò của văn
    học dân gian cũng như sự hình thành của các thể loại.
    Về phương diện vai trò: Theo quan điểm của nhân dân, văn học dân gian
    luôn giữ vai trò rộng hơn nghệ thuật, nó là cả khoa học, triết học, mỹ học, đạo đức
    học… Trong giai đoạn mà xã hội chưa có sự chuyên môn hoá trong lao động, điều
    1
    Vũ Ngọc Khánh: Kho tàng diễn xướng dân gian Việt nam. NXB Văn hóa thông tin, H 1997, tr13.

    19

  19. này là hoàn

    toàn dễ hiểu, bởi lẽ khi đó ngôn từ là công cụ quan trọng để con người
    thể hiện suy nghĩ, nhận thức của mình về thế giới. Thế giới trong sự nhận thức đó
    còn ở dạng nguyên khối, chưa có sự chia tách thành nhiều lĩnh vực chuyên biệt,
    văn học dân gian vì thế trở thành thông điệp chuyển tải những vấn đề về bản thể
    luận – nguồn gốc trái đất, vấn đề cơ bản của khoa học triết học sau này; chuyển tải
    những vấn đề trong quy luật tình cảm của con người mà tâm lý học sẽ đi sâu giải
    quyết… Chúng ta có thể tìm thấy trong văn học dân gian đối tượng nghiên cứu của
    các các khoa học chuyên biệt. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ: liệu khi xã hội đã có sự
    chuyên môn hoá trong lao động, kiến trúc thượng tầng đươc phân tích sâu hơn,
    mang tính tách bạch hơn thì văn học dân gian còn mang vai trò rộng hơn nghệ
    thuật đó không? Câu trả lời là có. Bởi lẽ, tham gia vào quá trình chuyên môn hoá
    trong lao động phải là những người được đào tạo, họ sẽ là lực lượng chịu ảnh
    hưởng quan điểm của giai cấp thống trị. Trong khi đó, đại đa số dân chúng bị loại
    khỏi quy trình này, họ vẫn có nhu cầu khám phá thế giới và bộc lộ những suy nghĩ
    của họ về mọi lĩnh vực của cuộc sống, họ gửi những tâm tư đó vào thế giới ngôn
    từ trong quá trình giao tiếp của họ, nó chảy song song với các lĩnh vực được
    nghiên cứu chuyên sâu. Văn học dân gian tách biệt và khác các lĩnh vực được
    nghiên cứu chuyên sâu căn bản ở chỗ, nó chuyển tải quan điểm của các tầng lớp
    dân chúng. Những quan điểm này cũng có thể bị ảnh hưởng quan điểm của giai
    cấp thống trị nhưng nhiều khi là sự phản kháng, cố tình đối lập lại với quan điểm
    chính thống. Sự đối lập quan điểm này trước hết là một sự phản ứng, phản ứng
    với những điều bất hợp lý do chế độ phong kiến đưa ra để duy trì trật tự xã hội.
    Trong trường hợp đó, dưới danh nghĩa tập thể, yếu tố dân gian trở thành chiếc van
    an toàn cho người dân thể hiện sự đối kháng với giai cấp thống trị. Tuy nhiên,
    trong nhiều trường hợp, cũng có thể thấy, sự khác bịêt này chỉ để thoả mãn tâm lý
    cào bằng của người nông dân, theo đó, phủ định giai cấp thống trị là để người
    nông dân có thể có được vị trí ngang bằng trong chốc lát. Đây không phải là mục
    tiêu nhưng rõ ràng là không thể phủ nhận hoàn toàn trong tâm lý sáng tạo văn học
    dân gian của người dân.

    20

  20. Thực hiện vai

    trò rộng hơn nghệ thuật đó, văn học dân gian thể hiện sự cảm
    nhận thế giới của người dân dưới mọi giác quan, ở dạng nguyên hợp như vốn khi
    nó tồn tại trong hiện thực. Văn học dân gian vì thế trở thành một loại hình nghệ
    thuật đặc biệt, nó “huy động” cùng một lúc nhiều thành tố tham gia biểu đạt như
    ngôn từ, vũ đạo, nhịp điệu… Trong tổng thể này, văn học dân gian mới thể hiện
    đầy đủ nhất ý nghĩa của nó. Các thành tố thể hiện luôn được đặt trong mối quan hệ
    chặt chẽ và chi phối lẫn nhau. Tuy nhiên, khi tư duy lý tính can thiệp sâu hơn vào
    quá trình hình thành văn hoá dân gian, các thành tố văn hoá dân gian có nhiều khả
    năng phát triển độc lập hơn thì văn học dân gian được nhận diện rõ rệt nhất qua
    tiêu chí ngôn từ. Nó là yếu tố cốt lõi, tiêu biểu để nhận diện, phân biệt văn học dân
    gian với các thành tố văn hoá dân gian khác. Vai trò tiêu biểu, cốt lõi chứ không
    phải là duy nhất của ngôn từ trong văn học dân gian đã làm nên nét khác biệt so
    với nghệ thuật ngôn từ của văn học viết.

    Văn học dân gian, nghệ thuật truyền miệng gắn liền với sinh hoạt thực
    tiễn của nhân dân

    Cũng giống như đặc trưng nghệ thuật ngôn từ, văn học viết và văn học dân
    gian đều gắn liền với sinh hoạt thực tiễn trong vai trò điều chỉnh hành vi của con
    người. Tuy nhiên, nếu như văn học viết tác động đến hành vi của con người phải
    thông qua sự nhận thức của người đọc, tức là khả năng tác động gián tiếp, thì văn
    học dân gian không cần phải thông qua quá trình này. Nảy sinh từ nhu cầu của
    thực tiễn lao động và sinh hoạt, văn học dân gian khi được hình thành lại trực tiếp
    tham gia trở lại các hoạt động thực tiễn như một phần của hoạt động thực tiễn đó,
    góp phần làm cho hoạt động đó trở nên hiệu quả hơn. Một bài ca dao ru con ra đời
    trước hết xuất phát từ nhu cầu ru đứa trẻ vào giấc ngủ. Yêu cầu này của thực tiễn
    đã điều tiết ngôn từ và giai điệu của ca dao ru con, khiến cho ca dao ru con luôn
    dùng thể lục bát quen thuộc, nhẹ nhàng, mượt mà, phù hợp với yêu cầu và mục
    đích sử dụng. Ngược lại, khi ca dao ru con ra đời, nó trực tiếp tham gia vào quá
    trình ru trẻ ngủ, như là một phần của cuộc sống sinh hoạt. Tương tự như vậy với
    các bài hò lao động, sử thi, truyền thuyết…

    21

  21. Là nghệ thuật

    ngôn từ được hình thành trực tiếp trong sinh hoạt thực tiễn của
    nhân dân lao động, văn học dân gian được nhân rộng thông qua truyền khẩu. Quá
    trình này thường được thể hiện dưới hình thức: truyền thống và ứng tác. Truyền
    thống là cách mà người lưu truyền sử dụng những bài, những câu có sẵn để kể hoặc
    hát lại. Tuy nhiên quá trình này thường khó đảm bảo tính tuyệt đối chính xác do việc
    người kể kết hợp với sự ứng tác của cá nhân.Việc ứng tác phụ thuộc vào hoàn cảnh,
    mục đích, từ đó người kể sẽ tạo nên những tác phẩm hoặc một phần tác phẩm mới.
    Quá trình trình diễn cũng là quá trình sáng tác tại chỗ, người sáng tác và người biểu
    diễn là một. Chính đặc điểm này khiến cho văn học dân gian là loại hình văn hoá dân
    gian có nhiều dị bản hơn cả.

    II. NHỮNG TIỀN ĐỀ VĂN HOÁ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN VĂN HỌC
    DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM

    Văn học dân gian các dân tộc thiểu số là sản phẩm tinh thần của các dân tộc,
    có quan hệ mật thiết với vấn đề dân tộc và văn hoá dân gian, cho nên đó sẽ là
    những tiền đề quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp tới văn học dân gian các dân
    tộc thiểu số Việt Nam

    Theo tài liệu của Tổng cục Thống kê, đại gia đình các dân tộc Việt Nam có
    53 dân tộc thiểu số và một dân tộc đa số (dân tộc Kinh hoặc Việt). Xét ở góc độ
    dân số tộc người, chúng ta thấy có mấy đặc điểm sau đây:
    – Thứ nhất: Nước ta là một quốc gia trung bình về dân số, nhưng có một số
    lượng lớn các dân tộc (54). Người ta thường giải thích đặc điểm này bằng vị trí
    ngã tư đường của Việt Nam, nơi quy tụ các luồng di cư Bắc – Nam, Đông – Tây,
    hải đảo – lục địa và ngược lại.
    – Thứ hai: Trong số 54 dân tộc thì người Việt chiếm tỷ lệ dân số cao tuyệt đối
    (87,34%)(1). 35 dân tộc có dân số dưới 15% tổng số dân, 5 dân tộc có dân số dưới
    500 người (Si la, Pu Péo, Rơ Măm, Ơ Đu, Brâu), riêng dân tộc Brâu chỉ còn 95
    người, trong đó lực lượng sinh đẻ để bảo đảm cho sự tồn tại của dân tộc chỉ thu
    hẹp trong số 25 nữ.
    (1)
    Khổng Diễn: Dân số và dân tộc người ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, H 1995.

    22

  22. – Thứ ba:

    Các dân tộc nước ta (nhất là ở phía Bắc) thường sống xen kẽ.
    Thông thường mỗi dân tộc có mặt ở rất nhiều huyện xã. Tuy nhiên miền Bắc thì
    ngược lại, trong một huyện, tỉnh, thậm chí trong một xã, cũng có nhiều dân tộc (4,
    5, 6 cho đến 7 dân tộc cùng chung sống trong một xã). Tình trạng sống xen kẽ quá
    sâu như trên, đem đến kết quả là sự ảnh hưởng qua lại về văn hóa rất lớn. Văn hóa
    dân gian vốn đã có sự giao lưu mạnh mẽ, tình trạng trên càng khiến việc phân biệt
    sản phẩm văn hóa của từng dân tộc trở nên khó khăn hơn. Do đó, nhiều khi phải
    chấp nhận sự phân định một cách tương đối, không thể quá rạch ròi.
    Những tiền đề dân tộc trên đã dẫn tới những đặc điểm về văn hoá như sau:
    1. Sự đa dạng về ngôn ngữ
    Dựa theo các đặc trưng về sinh hoạt văn hóa, ngôn ngữ và ý thức tự giác dân
    tộc, theo tư liệu của Tổng cục Thống kê có thể chia 54 dân tộc theo các nhóm
    ngôn ngữ sau đây.
    1.1. Nhóm Việt – Mường. Nhóm này có người Việt, người Mường, người
    Chứt, người Thổ. Địa bàn cư trú chính của người Mường là tỉnh Hòa Bình, miền
    Tây Vĩnh Phú, miền Tây Nghệ An.
    1.2. Nhóm Tày – Nùng – Thái. Trong nhóm này đông nhất là người Tày, tiếp
    đến người Thái, sau là người Nùng. Ngoài ra còn có một số dân tộc khác như Lào,
    Lự, Giấy. Nhóm Tày – Nùng – Thái cư trú chủ yếu ở địa bàn Việt Bắc – Tây Bắc.
    1.3. Nhóm Mông – Dao. Nhóm này bao gồm người Mông và người Dao.
    Người Dao chủ yếu cư trú ở vùng rẻo giữa (khoảng 700 – 800m) ở vùng Hà
    Tuyên, Bắc Thái. Người Mông cư trú ở vùng rẻo cao (từ 1000m trở lên) từ tỉnh
    Yên Bái cho đến Lai Châu, Sơn La, miền Tây Thanh Hóa và miền Tây Nghệ Tĩnh.
    1.4. Nhóm Hoa. Nhóm này gồm người Hoa, người Sán Dìu, người Ngái. Địa
    bàn cư trú của nhóm này chủ yếu ở vùng Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Thái và TP.
    Hồ Chí Minh.
    1.5. Nhóm Tạng Miến. Nhóm này bao gồm người Lô Lô, người Hà Nhì,
    người La Hủ, người Cống, cư trú chủ yếu ở các vùng Lai Châu, Cao Bằng, Lạng
    Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang.

    23

  23. 1.6. Nhóm Môn

    – Khơme. Nhóm các dân tộc này rải rác từ Bắc cho đến Nam
    chia theo hai khu vực.
    – Ở miền Bắc: gồm các dân tộc Khơmú, người Kháng, người Xing Mun,
    người Mãng, cư trú chủ yếu ở Lai Châu, Sơn La.
    – Ở miền Nam: gồm các dân tộc Bru – Vân Kiều (ở miền Tây Quảng Bình,
    Quảng Trị), Cơ Tu (miền Tây Thừa Thiên Huế và miền Tây Quảng Nam), các dân
    tộc Xơ Đăng, Bana (ở Gialai và Kontum), người Mnông (ở Đắc Lắc), người Mạ
    (Lâm Đồng), người Xtiêng (Sông Bé), người Khơme (ở vùng đồng bằng sông Cửu
    Long).
    1.7. Nhóm Nam Đảo (còn gọi là Malayô – Pôlinêdi). Nhóm này gồm có
    người Chăm (Ninh – Bình Thuận và Châu Đốc An Giang), người Chăm Hơroi
    (miền Tây Nghĩa Bình), người Raglai (miền Tây Phú Khánh), người Giơrai (ở tỉnh
    Gia Lai), người Êđê (Đắc Lắc), người Churu (Lâm Đồng).
    *
    Sự phong phú các nhóm người nói các ngôn ngữ khác nhau trên đất nước ra
    tạo nên sự đa dạng về văn hóa, văn học, nghệ thuật, phong tục, tập quán. Điều đặc
    biệt đáng quan tâm là ngôn ngữ của một số dân tộc lại đồng thời là ngôn ngữ chính
    của các nước láng giềng ở Đông Nam Á. Ví dụ: như tiếng Thái là ngôn ngữ quan
    trọng ở Thái Lan, Lào; tiếng Miến là ngôn ngữ quan trọng ở Miến Điện; tiếng
    Nam Đảo là ngôn ngữ quan trọng ở Malayxia và Inđônêxia… Như vậy, các dân tộc
    thiểu số ở nước ta xét về mặt hệ ngôn ngữ và văn hóa có hai điều thuận lợi trong
    quan hệ đối ngoại đối với các nước Đông Nam Á.
    Thứ nhất, họ là dây nối quan trọng tạo nên quan hệ gần gũi giữa các nước
    Đông Nam Á và Việt Nam.
    Thứ hai, các dân tộc nước ta là một bức tranh toàn cảnh xét về mặt dân tộc
    học và văn hóa học của các nước Đông Nam Á. Ở đây có thể tìm thấy nhiều giá trị
    văn hóa, nhiều phong tục tập quán Đông Nam Á. Hơn nữa, theo quy luật hóa thạch
    ngoại biên (peripheral fossilization, fossilisation périphérique) nhiều giá trị văn
    hóa, lịch sử phong tục quý và lâu đời đã bị mất đi ở các vùng thuộc về trung tâm

    24

  24. văn hóa của

    dân tộc, lại được lưu giữ ở vùng ngoại biên văn hóa là các dân tộc
    thiểu số nước ta. Như vậy, vùng các dân tộc thiểu số nước ta trở thành một bảo
    tàng sống vô giá về văn hóa của một số nước Đông Nam Á.
    Đặc điểm về nhiều hệ ngôn ngữ tạo nên sự phong phú đa dạng, sự khác nhau
    về văn hóa, tiếng nói, phong tục. Nhưng ở Việt Nam các dân tộc ở xen kẽ trong
    một địa bàn rất nhỏ, có khi ngay trong một bản cũng có hai ba dân tộc, ở một xã,
    một huyện, một tỉnh cùng cư trú khá nhiều dân tộc. Tình hình xen kẽ đó tạo nên sự
    gần gũi, giao hòa giữa văn hóa nghệ thuật, phong tục tập quán, tạo nên sự thống
    nhất trên địa bàn cư trú, tạo nên những vùng văn hóa với những đặc điểm chung
    và xét về toàn quốc có sự thống nhất thành văn hóa quốc gia, văn hóa Việt Nam.
    Xét về mặt chính trị, sự gần gũi, chan hòa về văn hóa nghệ thuật, phong tục
    tập quán, là một trong những nhân tố tạo nên sự đoàn kết nhất trí hòa hợp dân tộc
    trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
    2. Sự đa dạng về các loại hình văn hóa
    Về mặt xã hội 54 dân tộc nước ta, cho đến thời kỳ cận đại, không thuộc một
    trình độ thống nhất, ít nhất chúng ta có thể phân ra ba loại hình xã hội:
    – Xã hội chưa hình thành giai cấp. Ví dụ: các dân tộc Tây Nguyên.
    – Xã hội bắt đầu hình thành giai cấp. Ví dụ: các dân tộc Mường, Thái.
    – Xã hội giai cấp phát triển. Ví dụ: người Kinh.
    Và tương ứng với các loại hình xã hội đó có 3 loại hình văn hóa:
    – Văn hóa của thời kỳ tiền giai cấp.
    – Văn hóa của thời kỳ giai cấp mới hình thành.
    – Văn hóa của thời kỳ giai cấp phát triển.
    Ba loại hình văn hóa này do xuất phát từ những giai đoạn lịch sử khác nhau
    nên có những đặc điểm riêng và vì vậy tạo nên những màu sắc đa dạng trong nền
    văn hóa của các dân tộc Việt Nam. Sau đây chúng ta lần lượt giới thiệu các loại hình
    văn hóa vừa nêu, với những đặc điểm cơ bản của chúng, mà các đặc điểm này đã
    làm nên tính đa dạng của văn hóa các dân tộc Việt Nam.
    2.1. Hình thái văn hóa tiền giai cấp (tạm gọi là Văn hóa buôn – plây)

    25

  25. Trong thời kỳ

    này chỉ có văn hóa dân gian, chưa có văn hóa bác học. Trước
    hết cũng như văn hóa dân gian của một số dân tộc anh em khác, trong văn hóa dân
    gian chưa có sự tách biệt giữa sáng tác, biểu diễn và thưởng thức. Trong một cuộc
    hát dân ca, quá trình trình diễn được tiến hành đồng thời với quá trình sáng tác.
    Trong sinh hoạt văn hóa dân gian không phân biệt sáng tác, thưởng thức và lưu
    truyền. Đó là tình hình chung của mọi chế độ phân phối về văn hóa dân gian.
    Riêng ở loại hình tiền giai cấp, điểm nổi bật là tính cộng đồng.
    Tính cộng đồng tồn tại trong các sinh hoạt văn hóa dân gian chung được tổ
    chức bởi toàn thể làng buôn và vì toàn thể, như các lễ cúng bến nước, cúng cầu
    mưa, cúng trừ dịch bệnh. Ở đây, mọi công việc đều do tất cả mọi người chung lo
    gánh vác, không phân biệt người đi xem và người tổ chức hội. Phần hưởng thụ
    chia đều không thiếu một ai. Rượu thịt tất cả mọi người đều hưởng một phần bằng
    nhau, không có người nhiều, người ít. Trẻ con trong bụng mẹ cũng được một phần
    bằng người lớn. Người ốm yếu không đi dự lễ, được đem phần đến tận nhà, dầu
    một miếng thịt nhỏ cũng không thiếu.
    Tính cộng đồng còn chi phối các sinh hoạt riêng của từng người trong gia
    đình. Một người qua đời tất cả buôn đều khóc lóc, mở rượu (mở chum rượu cần)
    chia buồn và tiễn đưa. Một người có cúng lễ cả buôn đều vui mừng góp công sức,
    lao động, chiêng trống, đàn sáo. Tất cả mọi người thực bụng vì hạnh phúc, sức
    khỏe và sự giàu sang của một người, một gia đình. Và ngược lại một nhà, một
    người sẵn sàng chia niềm vui cho mọi nhà và mọi người.
    Tính cộng đồng còn biểu hiện ở những sinh hoạt văn hóa dân gian nhỏ bé
    hàng ngày khi một gia đình đón khách mở rượu, giết lợn gà, hát chúc mừng, bất kỳ
    ai đi qua nhà nghe tiếng hát, không cần mời đều có thể lên sàn tham dự buổi tiệc
    đón khách ăn uống, hát xướng với tình cảm coi khách của một nhà cũng là khách
    của cả buôn làng. Chủ nhà tự hào sung sướng khi được nhiều người tham dự. Mọi
    người đều chan hòa, người ta không phân biệt rạch ròi “của anh” và “của tôi”. “Có
    rượu mọi người cùng uống, có thịt mọi người cùng ăn” (Dân ca).
    Tinh thần cộng đồng còn được ghi lại đậm nét trong nội dung hệ thống các sử

    26

  26. thi khan: Khinh

    Dú, Đăm Xăn, Đăm Di, Mdrông Đăm, Hdung Ythu, MHiêng… ở
    đây nhân vật anh hùng không phải là anh hùng cá nhân mà là người của toàn thể
    cộng đồng.
    Tóm lại tính chất cộng đồng, tinh thần dân chủ cao là đặc điểm cơ bản của sự
    phân phối văn hóa trong loại hình văn hóa tiền giai cấp. Tính chất này là sản phảm
    của xã hội, đồng thời chính nó tác động trở lại để củng cố và phát triển tính chất
    dân chủ, công bằng nguyên thủy của xã hội.
    Một hệ quả dẫn đến là văn hóa được phổ cập rộng rãi do nó kích thích sự
    sáng tạo mạnh mẽ của mọi tầng lớp xã hội. Ngay cho đến nay, đi vào buôn plây
    nào chúng ta cũng có thể thấy tính phổ cập toàn dân của văn hóa dân gian dân tộc.
    Mặc dầu tính chất này đã bị mất mát và đang bị phá hủy nghiêm trọng.
    2.2. Hình thái văn hóa thời kỳ bắt đầu có giai cấp (tạm gọi là văn hóa bản –
    mường)
    Văn hóa chiếm lĩnh toàn bộ xã hội vẫn là văn hóa dân gian nhưng đã biến đổi
    khác với loại hình văn hóa tiền giai cấp, đặc biệt là về mặt phân phối văn hóa và
    phần nào về tác giả.
    + Cùng với việc xây dựng vị trí chính trị của mình, tầng lớp trên đã có ý đồ
    xây dựng một vốn liếng về văn hóa nghệ thuật riêng, nhưng chưa đủ trình độ và
    điều kiện để xây dựng nên một dòng văn hóa hoàn toàn độc lập (văn hóa bác học
    như về sau). Họ dựa vào vốn văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc thông qua
    những nghệ nhân dân gian mà họ tìm cách chi phối nhiều hoặc ít để xây dựng dần
    thành một vốn liếng văn hóa hướng vào việc chiếm lĩnh văn hóa toàn dân.
    + Tính cộng đồng và dân chủ cao giữa tác giả và công chúng không còn như
    ở hình thái tiền giai cấp. Bắt đầu xuất hiện những người chuyên làm nghề giáo
    dục, phổ biến văn hóa tri thức, sáng tạo văn hóa nghệ thuật, kiêm cả chữa bệnh bằng
    cây cỏ và bùa phép. Họ là các ông bà mo, then, mỡi, ậu. Nói đúng hơn, họ hoạt
    động bán chuyên nghiệp, không dựa hẳn vào hoạt động văn hóa nghệ thuật để sinh
    sống. Họ vẫn là những người lao động dựa vào nông nghiệp để sống. Khi có người
    mời, họ mang túi đồ nghề đi (đồ nghề gọi là khánh khót), bỏ khánh khót họ lại cầm

    27

  27. cuốc, cầm dao.

    Nói chung họ không có đặc quyền đặc lợi gì ngoài quà biếu của các
    gia chủ lấy từ vật dâng cúng ra. (Trừ một số ông mo – không phải số đông – được
    tầng lớp trên cấp cho một ít ruộng).
    Ngoài ra, có một số nghệ nhân dân gian không làm nghề văn hóa tổng hợp
    (như trên đã nêu). Họ tham gia các sinh hoạt giao duyên, đối đáp và các sinh hoạt
    khác, họ có tài, được hâm mộ, hoàn toàn không chuyên và không có quà cáp.
    Trên cơ sở toàn bộ văn hóa dân gian lẻ tẻ đã xuất hiện những nghệ nhân đặc
    biệt xuất sắc bắt đầu chuyển hóa thành tác giả, tiêu biểu ở người Thái là Ngần Văn
    Hoan, có thể kể thêm Hoàng Đức Hậu (Tày). Hiện tượng này tuy lẻ tẻ nhưng rất
    có ý nghĩa. Đó là dấu hiệu của khuynh hướng: sự ra đời của văn học thành văn từ
    văn học dân gian. Ở đây, chúng ta có thể chỉ ra quá trình diễn tiến này với các yếu
    tố:
    – Từ vần vè đến việc ổn định vần điệu hình thành thể thơ và sự ra đời thơ dân
    gian.
    – Từ phương pháp khái quát tổng loại đi đến phương pháp lựa chọn điển hình
    cá thể.
    – Từ chỗ tác phẩm mang dấu ấn chung của cộng đồng, tộc người của vùng
    đến chỗ mang phong cách, cá tính của tác giả.
    – Từ chỗ nghệ nhân dân gian ẩn mình trong tập thể tác giả đến chỗ cá nhân
    nổi lên có lai lịch tên tuổi rõ rệt.
    – Từ chỗ truyền miệng gắn liền với các sinh hoạt của đời sống đến chỗ có ghi
    chép và độc lập tương đối với các hoạt động đó (trong đó có yếu tố chữ viết).
    Tóm lại, văn hóa dân gian thời kỳ này, tính cộng đồng không cao bằng thời
    kỳ trước.
    Văn hóa dân gian vẫn có vai trò quan trọng trong xã hội và chiếm lĩnh hầu
    hết đời sống tinh thần của công chúng cũng như tầng lớp trên.
    2.3. Hình thái văn hóa thời kỳ giai cấp đã phát triển (tạm gọi là văn hóa xóm
    làng).
    Hình thái văn hóa thời kỳ này có những đặc điểm sau đây:

    28

  28. + Xu hướng

    xây dựng một dòng văn hóa riêng của tầng lớp trên đã được phát
    triển và văn hóa bác học đã được hình thành trở thành một dòng quan trọng trong
    nền văn hóa dân tộc. Nó có xu hướng vươn lên thành văn hóa đại diện cho dân tộc.
    Hướng phát triển của nó là:
    Đối với văn hóa dân gian vừa hạn chế những phần bất lợi cho giai cấp thống
    trị (ví dụ: nhà Lê chống điệu Lý Liên, nhà Nguyễn chống truyện Nôm), vừa chiếm
    lĩnh những phần có ích và cần thiết.
    Đối với văn hóa bác học nước ngoài thì tiếp thu để làm mẫu cho việc xây
    dựng nền văn hóa thống trị.
    + Các nghệ nhân dân gian phát triển thành tác giả thơ dân tộc ngày càng
    nhiều. Họ là người tiến hành một cách có hiệu quả và nhuần nhuyễn việc phát
    triển văn hóa nghệ thuật bác học từ văn hóa dân gian. Nhiều nhà thơ được đào tạo
    từ nền giáo dục khoa cử, nhưng vẫn gắn bó với văn hóa dân gian nên nền văn hóa
    chuyên nghiệp và bác học còn nhiều tính chất folklore về các mặt lưu truyền, diễn
    xướng, đề tài và điều này làm nên tính Folklore trong văn hóa bác học, ví dụ: Hồ
    Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu… Trong kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, hội họa
    truyền thống thì càng rõ tính folklore và khó phân biệt giữa folklore và chuyên
    nghiệp.
    + Không có sự tiêu diệt văn hóa nghệ thuật tín ngưỡng dân gian như ở các
    quốc gia mà ở đó diễn ra tình trạng tôn giáo độc tôn. Ở châu Âu, do sự độc tôn của
    Gia tô giáo mà gây nên tình trạng tàn sát cái gọi là dị giáo. Riêng ở thế kỷ 16 và
    17, hàng chục ngàn phụ nữ theo tín ngưỡng sa man bị tra tấn, đem ra xét xử, bị
    chặt đầu, bị ném vào vạc nước sôi hoặc bị thiêu sống vì tội duy nhất là theo tà đạo
    (khác với chính đạo Gia tô).
    + Dù trong hoàn cảnh nào, văn hóa dân gian vẫn tồn tại và phát triển nhằm
    đáp ứng nhu cầu văn hóa của đông đảo công chúng không biết chữ, không được
    đến nơi công sở, đô hội, nơi cung cấm. Chính nó góp phần thực hiện các nhiệm vụ
    trọng đại của lịch sử: làm ruộng, bảo vệ đất nước, bảo vệ văn hóa, chống đồng
    hóa.

    29

  29. Tóm lại, xét

    về phương diện lịch đại, nền văn hóa đa dân tộc nước ta đã cho
    chúng ta quan sát thấy hình ảnh của cả một tiến trình của lịch sử của văn hóa mà
    loài người đã trải qua từ thời cổ sơ cho đến cận, hiện đại.
    Sơ đồ các hình thái văn hóa các dân tộc nước ta

    Tên gọi Đặc điểm kinh tế – Tính folklore trong văn hóa
    hình thái xã hội
    văn hóa
    Văn hóa – Nương rẫy là chủ yếu – Chỉ có văn hóa dân gian, chưa có văn hóa bác học
    buôn pley – Cơ bản chưa có giai – Toàn cộng đồng sở hữu, sáng tạo và thưởng thức văn
    cấp hóa.
    – Chưa có người làm văn hóa bán chuyên nghiệp
    Văn hóa – Kinh tế ruộng nước – Văn hóa dân gian là chủ yếu. Bắt đầu có văn hóa
    bản mường có nương rẫy của tầng lớp trên đi theo hướng chuyên nghiệp hóa
    – Bắt đầu có tầng lớp dần dần.
    trên. – Bắt đầu chia sẻ sở hữu văn hóa của dân tộc, một
    bộ phận nhỏ văn hóa thuộc về tầng lớp trên.
    – Xuất hiện người làm văn hóa bán chuyên nghiệp
    (mo, then, tào…).
    – Bắt đầu lẻ tẻ hình thành một bộ phận văn hóa bác
    học (văn học thành văn, người làm thơ dân gian).
    Văn hóa – Nông nghiệp ruộng – Tách ra hai dòng văn hóa dân gian và bác học
    xóm làng nước, dùng trâu bò chuyên nghiệp, tồn tại song song.
    kéo. – Hình thành thực sự một dòng văn học cung đình
    – Giai cấp phong kiến được triều đình chăm sóc quản lý và hưởng thụ, theo
    ra đời và thống trị toàn 2 nguồn:
    xã hội về các mặt. + Triều đình thu thập các nghệ nhân giỏi về kinh
    đô.
    + Đào tạo các nhà văn, nhà thơ theo quy chuẩn của
    triều đình, học tập nước ngoài.
    – Vẫn tồn tại tính folklore trong văn hóa bác học
    (chưa kể tinh thần yêu dân, yêu nước)

    30

  30. Kết luận rút

    ra từ sơ đồ:
    1. Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một di sản đa dạng hiếm có xét về lịch
    đại, là một bộ sách sống hiện tồn về lịch sử văn hóa dân tộc và thế giới, là tài sản
    quý hiếm cho những ai ham mê tìm hiểu về lịch sử văn hóa.
    2. Là minh chứng hùng hồn cho nguyên lý “Văn hóa dân gian là văn hóa mẹ”
    (Cù Huy Cận)
    3. Văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số (DTTS) là dây nối giữa văn hóa Việt
    Nam và văn hóa các nước Đông Nam Á.
    – Các nước láng giềng Đông Nam Á là trung tâm cư trú của các dân tộc cùng
    nói các thứ ngôn ngữ với các dân tộc nước ta: Thái (Thái Lan, Lào, Mianma, Nam
    Trung Quốc…), Mã Lai (Malaysia, Indonesia, Philipin…)
    – Văn học dân gian (VHDG) các DTTS là bảo tàng sống của văn hóa nhiều
    nước Đông Nam Á.
    – VHDG các DTTS là cơ sở thuận lợi cho việc giao lưu văn hóa, thực hiện
    chủ trương mở cửa, làm bạn với mọi người.
    – Các hiện tượng văn hóa tiêu biểu là: Trống đồng, nhà sàn, cồng chiêng, lụât
    tục, sử thi…
    3. Tính thống nhất
    Sự hình thành gia đình các dân tộc Việt Nam là một quá trình lâu dài và
    không đơn giản. Trong 54 dân tộc, có một bộ phận là dân tộc bản địa có cùng một
    cội nguồn lịch sử từ thời xa xưa, một bộ phận mới gia nhập trong các thế kỷ về sau
    này. Có những dân tộc gia nhập nhiều đợt. Ví dụ: người Thái. Từ đời Tần Hán
    (222 TCN) cho đến Tuỳ Đường (602 – 618) Tây Bắc Việt Nam cùng với Thượng
    Lào, Vân Nam là nơi cư trú của tổ tiên người Thái. Trong thời gian này, người
    Thái mới có một số lượng rất ít.
    Đến thế kỷ 11, 12, người Thái đen chuyển cư đến Tây Bắc và trở thành cư
    dân chiếm đa số ở đây.
    Thế kỷ 13, người Thái trắng đến làm chủ Mường Lay.
    Thế kỷ 14, một bộ phận người Thái đến Mộc Châu, Sơn La, Thanh Hóa.

    31

  31. *

    * *
    Theo các cứ liệu khảo cổ học đã phát hiện được, chúng ta biết rằng từ thời rất
    xa xưa những tập đoàn người cổ đã để lại những sáng tạo vật chất trên khắp miền
    của lãnh thổ Việt Nam, phần lớn là miền núi.
    Đó là văn hóa Hoà Bình, ở vùng Hoà Bình (vùng đồng bào Mường hiện nay)
    với những dụng cụ bằng đá đẽo thuộc thời đại đồ đá giữa, cách đây khoảng 1 vạn
    năm. Và tiếp theo đó là nền văn hóa Bắc Sơn ở Thái Nguyên (vùng đồng bào Tày
    hiện nay) với các dụng cụ bằng đá mài, đặc biệt có loại rìu mài tứ giác nổi tiếng,
    thuộc thời đại đồ đá mới, cách ta khoảng 8 nghìn năm. Văn hóa Bắc Sơn lại mới
    được phát hiện thêm ở vùng Thẩm Khương huyện Tuần Giáo tỉnh Lai Châu (vùng
    cư trú của đồng bào Thái hiện nay).
    Ở miền núi Quảng Trị, chúng ta đã phát hiện được di chỉ đồ đá mới, cách ta 8
    nghìn năm, thuộc vùng dân tộc Pa Cô cư trú ở A Lưới.
    Ở làng Ndut Liêng Krak, thuộc huyện Lắc, phía Nam Đắc Lắc, vùng cư trú
    của đồng Mnông hiện nay, đã phát hiện được hiện vật khảo cổ đàn đá.
    Tiếp theo nền văn hóa đồ đá là nền văn hóa đồng thau. Đây là thời đại văn
    hóa đã phát triển khá cao dẫn đến việc hình thành nước Văn Lang của các vua
    Hùng, cách đây mấy nghìn năm. Thời đại đồng thau gắn liền với nền văn hóa
    Đông Sơn nổi tiếng với hiện vật khảo cổ rất có giá trị là trống đồng Đông Sơn.
    Chúng ta đã phát hiện được nhiều di chỉ của nền văn hóa Đông Sơn ở vùng đồng
    bào Mường cư trú hiện nay, từ Vĩnh Phú đến Hòa Bình, Nghệ An. Vùng đồng bào
    Thái cư trú hiện nay cũng phát hiện thấy nhiều di chỉ thuộc nền văn hóa Đông Sơn
    như Phù Yên (tỉnh Sơn La), Mộc Châu, Yên Châu (Sơn La), Thẩm Khương, Tuần
    Giáo (tỉnh Lai Châu), làng Vạc (miền núi Nghệ An).
    Ở miền núi tỉnh Quảng Bình và vùng Đắc Lây (tỉnh Kontum), vùng dân tộc
    Bana cũng phát hiện được trống đồng.
    Trên trống đồng ghi lại hình ảnh các sinh hoạt mà chúng ta thấy phổ biến ở
    miền núi như:

    32

  32. – Đàn ông

    đóng khố, đàn bà mặc váy.
    – Giã gạo bằng chày tay dài.
    – Nhà sàn.
    – Người thổi khèn.
    – Người hóa trang chim.
    Tóm lại, qua các di chỉ khảo cổ trên đây, có thể tin rằng từ thời đồ đá cho đến
    thời đồ đồng, từ cách đây 1 vạn năm cho đến 8.000 năm và 4.000 năm, vùng miền
    núi nước ta đã liên tục có người sinh sống. Đồng thời cũng có thể tin rằng nhiều
    dân tộc trên đất nước ta đều cùng là những dân tộc bản địa lâu đời, cùng một cội
    nguồn lịch sử, do đó cùng có chung một gia tài văn hóa. Trải qua hàng nghìn năm
    lịch sử với bao nhiêu đổi thay, cho đến thời kỳ cận hiện đại các dân tộc có thể di
    chuyển đến những vùng xa nhau, tiếng nói, phong tục tập quán từng nơi có những
    khác biệt. Nhưng tìm tòi trong hành trang mà họ mang đi và giữ lại được trong
    cuộc di chuyển lâu dài của lịch sử, chúng ta vẫn tìm thấy những bộ phận của gia
    tài chung đó.
    Có thể lấy trường hợp đầu váy Mường làm một ví dụ tiêu biểu. Từ Chi, nhà
    dân tộc học nổi tiếng, đã nghiên cứu hoa văn trên đầu váy của người Mường rất
    công phu và đi đến kết luận: “Qua những phát hiện cho đến nay, người ta mới
    thấy có đầu váy Mường là giữ được hầu như toàn bộ cấu trúc trang trí của hoa
    văn trên trống đồng loại I (cổ nhất). Mà chỉ có cấu trúc ấy mới nói lên được trong
    một chừng mực nhất định tinh thần nghệ thuật trang trí Đông Sơn”(1)
    Đầu váy Mường (tiếng Mường là klôộc Wăl) là tấm trang trí bằng hoa văn
    dệt, được mang vào phần trên của váy để che thân người phụ nữ từ hông lên đến
    nách. Bản thân nó gồm 3 tấm nhỏ hơn, dệt riêng rẽ, rồi can vào nhau.
    Hoa văn chính ở tấm trên cùng là những ngôi sao tám cánh đứng san sát cạnh
    nhau. Ở tấm thứ hai gồm nhiều dải ngang nhỏ chồng lên nhau, mỗi dải chứa một
    mô típ động vật, được nhân lên thành nhiều con đồng nhất nối đuôi nhau quanh
    dải (hươu, gà, chim, rồng, rắn hai đầu).
    Lưu ý, nếu những con vật trên dải nhỏ thứ nhất nối đuôi nhau đi về hướng tay
    (1)
    Theo sách: Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi (Nhiều tác giả). Sở văn hóa Hoà Bình, 1988, tr355.

    33

  33. phải của người

    mặc váy thì trên dải thứ hai tiếp theo ngay phía đuôi, các động vật
    đi về hướng tay trái, trên giải thứ ba tiếp dưới nữa chúng lại đi về hướng tay phải…
    và cứ thế tiếp tục.
    Tấm cuối cùng không được bố cục thành dải ngang mà thành những dải dọc
    hẹp không chứa hoa văn. Xen vào các dải hẹp ấy thỉnh thoảng có một ô chữ nhật,
    chứa một mô típ hình học đơn giản.
    Hãy trở về với trang trí trên mặt trống đồng Đông Sơn loại I (theo phân loại
    của F.Heger). Ở đây, trang trí lan từ trung tâm mặt trống ra toàn bộ mặt trống,
    xuống tang trống rồi xuống chân trống.
    Đầu váy Mường đã cơ bản trả lại cho ta những nét chính của cấu trúc trang trí
    Đông Sơn:
    – Vòng tròn chứa một ngôi sao ở trung tâm mặt trống sẽ chuyển thành dải
    ngang chứa nhiều ngôi sao san sát.
    – Các vành trống đồng tâm chứa hình động vật và bao quanh vòng tròn nói
    trên thì chuyển thành những dải ngang chứa hình động vật và chống lên nhau ở
    bên dưới dải ngôi sao.
    – Các vòng tròn hoa văn hình học ở tang trống và chân trống được chuyển
    thành những dải hoa văn hình học ở đầu váy Mường.
    Tóm lại, qua vận động chuyển vị trí, cấu trúc trang trí trên mặt trống Đông
    Sơn loại I được chuyển qua đầu váy gần như nguyên vẹn, trên trống đồng thì từ
    trung tâm mặt trống ra ngoài rồi xuống tang trống và chân trống; trên đầu váy thì
    từ trên xuống dưới chân của người phụ nữ(1).
    Ngoài hoa văn trên thổ cẩm Mường, chúng ta có thể kể đến các giá trị văn
    hóa khác như ngôn ngữ, thần thoại, sử thi, âm nhạc, nghi lễ… ở đó có nhiều chứng
    tích cho phép chúng ta kết luận rằng, nhiều dân tộc nước ta có một cội nguồn lịch
    sử chung từ những thời kỳ văn hóa khảo cổ xa xưa, do đó có một gia tài văn hóa
    chung. Và chính gia tài văn hoá chung cổ xưa này tạo nên sự thống nhất sâu sắc
    trong sự phong phú, đa dạng làm cho nền văn hóa các dân tộc Việt Nam trở thành

    (1)
    Xem Trần Từ (tức Từ Chi): bài Cạp váy mường, trong sách Người Mường ở Hòa Bình, Hội Khoa học lịch sử Việt
    Nam xuất bản, H.1996, tr.87-179.

    34

  34. “một vườn hoa

    nhiều hương sắc”.
    III. HỆ THỐNG THỂ LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU
    SỐ
    Giống như văn học dân gian của tất cả các khu vực khác, văn học dân gian
    Việt Nam nói chung và văn học dân gian các dân tộc thiểu số nói riêng không tồn
    tại dưới dạng một sự vật đơn nhất mà bao giờ cũng tồn tại ở dạng tác phẩm thuộc
    thể loại này hay thể loại khác.Các tiêu chí phân loại văn học dân gian cũng rất
    phong phú, đa dạng và đều có những ưu nhược điểm nhất định. Việc phân loại văn
    học dân gian khó khăn chính là bởi tính nguyên hợp điển hình của nó. Trong quá
    trình hình thành và phát triển, các hình thức sáng tạo văn học dân gian không được
    chủ định định hình từ trước, nên ranh giới khác biệt giữa chúng là do các nhà
    nghiên cứu sau này muốn tách riêng để so sánh và đánh giá. Việc phân biệt tuyệt
    đối chính xác ranh giới các thể loại là không thể thực hiện được với văn học dân
    gian. Ở đây, chúng tôi sử dụng quan điểm phân loại của tác giả Chu Xuân Diên
    trong cuốn Văn học dân gian, xuất bản năm 1992. Theo chúng tôi, đây là quan
    điểm phân loại hợp lý hơn cả. Tuy nhiên, ngay cả sự phân chia này cũng phải chấp
    nhận sự giao thoa rất mạnh giữa các thể loại văn văn học dân gian.
    Hệ thống thể loại văn học dân gian nói chung, văn học dân gian các dân tộc
    thiểu số nói riêng sẽ được gọi thành các danh pháp khác nhau theo 3 cấp: loại,
    nhóm thể loại và thể loại. Dưới các thể loại còn có các biến thể của thể loại, các
    tiểu loại. Điều này sẽ được làm rõ trong quá trình đi sâu vào từng thể loại cụ thể.
    Dưới cấp độ phân chia rộng nhất là LOẠI, văn học dân gian có thể chia
    thành 3 loại, ứng với 3 phương thức phản ánh cuộc sống của ngôn từ là:tự sự, trữ
    tình và kịch. Phương thức tự sự sẽ bao gồm các hình thức truyện kể, thơ ca kể, các
    câu chuyện và lời nói vần vè… Phương thức trữ tình sẽ bao gồm các hình thức ca
    dao, dân ca. Phương thức phản ánh cuộc sống dưới hình thức kịch sẽ bao gồm ca
    kịch và các trò diễn dân gian.
    Ở cấp độ hẹp, các loại sẽ được thể hiện qua các NHÓM THỂ LOẠI. Loại tự
    sự sẽ bao gồm 3 nhóm thể loại là: a) Văn xuôi tự sự, b) Thơ ca tự sự, c) Câu nói

    35

  35. vần vè. Loại

    trữ tình bao gồm: a) Thơ ca trữ tình nghi lễ, b) Thơ ca trữ tình phi
    nghi lễ. Loại phương thức kịch thì sẽ được tồn tại dưới các dạng thể loại cụ thể do
    tính chất khá riêng biệt giữa chúng với nhau (điều này có thể hiểu là do dạng thức
    kịch được hình thành muộn hơn, tính chất tổng hợp đã khá rõ để tách dần ranh giới
    thể loại, khác với các hình thức phản ánh cuộc sống ban đầu, mang đậm tính
    nguyên hợp hơn).
    Ở cấp độ hẹp hơn nữa, các nhóm thể loại sẽ được phân chia thành các THỂ
    LOẠI, tương ứng với các danh pháp khác nhau. Nhóm thể loại văn xuôi tự sự sẽ
    gồm: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười. Nhóm thơ ca
    tự sự sẽ gồm: các dạng thức vè (vè lịch sử, vè thế sự, vè than thân…), sử thi, truyện
    thơ. Nhóm câu nói vần vè gồm các thể loại: tục ngữ, câu đố, câu phù chú. Nhóm
    thơ ca trữ tình nghi lễ sẽ chia thành các thể loại: bài ca nghi lễ lao động (lịch tiết,
    khẩn nguyện, xuống đồng…), bài ca nghi lễ sinh hoạt (hôn lễ, tang lễ…), bài ca
    nghi lễ tế thần. Nhóm thơ ca trữ tình phi nghi lễ cũng sẽ gồm: bài ca lao động (hò),
    bài ca sinh hoạt (gia đình, xã hội), bài ca giao duyên.
    Phương thức kịch sẽ bao gồm các thể loại có mức độ phát triển khá cao như:
    chèo, tuồng, những trò diễn có tích truyện khác…
    Phân chia hệ thống thể loại như vậy, chúng tôi muốn chi tiết hoá các dạng
    thức phản ánh cuộc sống, làm rõ sự phong phú của văn học dân gian. Tuy nhiên,
    khi đi sâu phân tích từng thể loại, trong một chừng mực nhất định, chúng tôi vẫn
    phải gộp chúng lại để đặt chúng trong một sự so sánh hẹp.Ví dụ: khi tìm hiểu về
    dân ca, chúng tôi sẽ chỉ phân chia chúng thành các nhóm dân ca như: dân ca lao
    động, dân ca nghi lễ, dân ca giao duyên.. nhưng khi phân tích ca dao lao động có
    thể sẽ nhắc tới những bài ca nghi lễ trong lao động, khi nói tới dân ca trong hôn lễ
    (dân ca nghi lễ), chúng tôi lại đặt nó trong quan hệ với phần hát giao duyên của
    đám cưới… Điều này lại một lần nữa nhấn mạnh sự giao thoa giữa các thể loại
    trong văn học dân gian.
    Hệ thống thể loại trong văn học dân gian nói chung, văn học dân gian các
    dân tộc thiểu số nói riêng có thể được hình dung đầy đủ theo bảng phân loại sau

    36

  36. đây:
    CẤP

    DANH PHÁP
    LOẠI Tự sự Trữ tình Kịch
    (truyện kể, thơ ca kể, lời nói vần vè..) (ca dao, dân ca) (ca kịch, trò
    diễn)
    Nhóm Văn xuôi tự sự Thơ ca tự sự Câu nói Thơ ca trữ Thơ ca trữ
    thể (kể) (ca) vần vè tình nghi lễ tình phi
    loại nghi lễ
    Thể Thần thoại Vè lịch sử Tục ngữ Nghi lễ lao Bài ca lao Chèo
    loại Sử thi Sử thi Câu đố động động Tuồng đồ
    Truyềnthuyết Vè thế sự Câu phù Nghi lễ Bài ca Những trò
    Cổ tích Vè than chú sinh hoạt sinh hoạt diễn có tích
    Ngụ ngôn thân Nghi lễ tế Bài ca truyện
    Truyện cười Vè trẻ em thần giao
    Truyện thơ duyên

    Việc phân chia ranh giới các thể loại văn học dân gian như trên chủ yếu
    giúp người đọc hình dung đầy đủ về tổng thể văn học dân gian. Một số thể loại tuy
    được đặt trong hệ thống phân loại nhưng khi cần nhấn mạnh hơn để làm rõ, chúng
    tôi cũng sẽ tách riêng để đi sâu. Mặt khác, cũng là định danh tên gọi như vậy
    nhưng có thể thể loại này rất phát triển trong văn học dân gian người Việt lại khó
    phát triển trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số và ngược lại, nên chúng tôi
    chỉ đi sâu vào những thể loại khá phát triển và có ảnh hưởng sâu đến đời sống văn
    hoá của đồng bào. Trường hợp Truyền thuyết – Sử thi, Ca dao – Dân ca là những
    ví dụ tiêu biểu.
    **
    Trên cơ sở những tiền đề văn hoá xã hội đặc thù, văn học dân gian các dân
    tộc thiểu số Việt Nam đã ra đời. Trải qua quá trình rất dài phản ánh lịch sử và tâm
    hồn dân tộc, văn học dân gian các dân tộc thiểu số đã góp phần không nhỏ vào
    việc hình thành bản sắc văn hoá Việt Nam. Có thể nói một cách khách quan rằng:
    văn học dân gian các dân tộc thiểu số đã chứng minh được giá trị, sự phong phú đa

    37

  37. dạng của mình,

    trong một chừng mực nhất định, còn góp phần giới thiệu văn hoá
    Việt Nam với thế giới nhiều hơn văn học dân gian của người Việt. Thực tế này có
    nguyên nhân từ chính cuộc sống ít bị xâm lấn bởi các nền văn minh khác. Tất
    nhiên, điều đó cũng là một hạn chế trong cuộc sống và văn hoá của đồng bào dân
    tộc thiểu số nhưng nó chính là môi trường bảo lưu quan trọng để chúng ta còn có
    thể có được một kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số khá phong phú.

    CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
    1. Trình bày hiểu biết của anh chị về tính nguyên hợp của văn hoá dân gian

    38

  38. nói chung, sự

    thể hiện của nó trong văn học dân gian nói riêng.
    2. Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian
    3. Sự đa dạng về ngôn ngữ có tác động như thế nào đối với văn học dân gian
    các dân tộc thiểu số Việt Nam.
    4. Sự đa dạng các hình thái xã hội có tác động như thế nào đến văn học dân
    gian các dân tộc thiểu số Việt Nam.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    1. Đinh Gia Khánh: Đại cương về tiến trình văn hoá Việt Nam (trong: Các
    vùng văn hoá Việt Nam: Đinh Gia Khánh và Cù Huy Cận chủ biên), Nxb
    Văn học, Hà Nội 1995.
    2. Đinh Gia Khánh: Trên dường tìm hiểu văn hoá dân gian, Nxb Khoa học xã
    hội.
    3. Hoàng Nam: Bước đầu tìm hiểu văn hoá tộc người, văn hoá Việt Nam. Nxb
    Văn hoá Dân tộc, H 1998.

    Chương 2
    THẦN THOẠI

    39

  39. I. KHÁI NIỆM

    1.Định

    nghĩa

    Thần thoại là gì? Thần thoại theo Mác nói đó là vẻ đẹp “một đi không trở lại”
    của loài người khi xã hội nguyên thuỷ kết thúc. Sự thực thì trên thế giới, bất cứ
    dân tộc nào cũng có thần thoại.

    E.M.Mêlêtinxki đã định nghĩa thần thoại như sau: “Thần thoại có nguồn gốc
    từ tiếng Hy Lạp, nghĩa đen là truyền thuyết, huyền thoại. Thường người ta hiểu đó
    là những truyện về các vị thần, các nhân vật được sùng bái hoặc có quan hệ
    nguồn gốc với các vị thần, về các thế hệ xuất hiện trong thời gian ban đầu tham
    gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập thế giới cũng như vào việc tạo lập nên
    những nhân tố của nó – thiên nhiên và văn hoá”.

    Thần thoại là hình thức sáng tác của con người thời đại xa xưa, nó thể hiện ý
    thức muốn tìm hiểu vũ trụ, lý giải vũ trụ và chinh phục thế giới tự nhiên của con
    người. Luôn tiếp xúc với thiên nhiên kỳ vĩ, bí ẩn, con người đã hình dung, lý giải
    thiên nhiên bằng trí tưởng tượng của mình, tạo ra cho các hiện tượng xung quanh
    mình những hình ảnh sáng tạo, những câu chuyện phong phú, hình dung ra các vị
    thần lớn lao, những lực lượng siêu nhiên, hữu linh. Bằng cách đó, con người đã
    làm ra thần thoại.

    2. Đặc trưng cơ bản của thể loại

    – Thần thoại phản ánh tự nhiên bằng hình thức kỳ ảo hoang đường

    Cho dù trong thần thoại chứa đụng những nhận thức sai lầm và siêu hình về
    thực tại khách quan thì trong kho tàng này chúng ta vẫn nhận thấy khá đầy đủ
    những phương diện của cuộc sống. Mọi hiện tượng xung quanh con người, thuộc
    về con người, chi phối con người đều được phản ánh trong thần thoại. Điều này
    thể hiện nhu cầu tự nhiên của con người muốn khám phá những gì đã và đang tác
    động trực tiếp đến cuộc sống của họ. Trong một cuộc sống mà con người phải
    thường xuyên đối diện với những tác động của tự nhiên, con người dần có ý thức
    về việc tìm hiểu thế giới đó để, trước hết là thoả mãn nhu cầu khám phá, sau nữa

    40