Giữ gìn vùng văn hóa Tây Nguyên

​Ðang vào cuối mùa khô, nhưng những bông dã quỳ cuối mùa vẫn cứ vàng rực trên mọi ngả đường, trên mọi triền đồi vực suối Tây Nguyên. Nếu tinh ý lắng nghe, sẽ thấy có tiếng chiêng thầm thì trong gió. Lúc khoan lúc nhặt, khi tỏ khi mờ, tiếng chiêng len qua các ngọn núi, lách qua các tán rừng, tới các làng gần buôn xa, tới người đang ở trong nhà, tới người đang lui hui trong rẫy…

​Tiếng
chiêng ấy vẳng vào thinh không, nhất là vào những đêm trăng sáng, nó
vang tới tận những đám mây ngũ sắc đang lửng lơ giữa bầu trời lồng lộng
gió và vằng vặc trăng…

Mùa
khô là mùa người Tây Nguyên thường mở hội. Và tiếng chiêng là những âm
thanh đầu tiên báo cho Yàng, cho thần sông thần núi, thần nước thần lửa,
báo cho người gần khách xa biết rằng làng đang mở hội.

Từ
bao đời nay những âm thanh của các bộ cồng chiêng Gia Rai, Ba Na, Xê
Ðăng, Ê Ðê… đã hòa chung với âm thanh của gió núi, của cây rừng, của
suối nước, của buôn, làng…

Người
Tây Nguyên lấy bộ chiêng làm thước đo tài sản. Các bộ cồng chiêng là
tài sản vật chất quý báu nhất của một gia đình hay một tộc họ. Và âm
thanh cồng chiêng là một nhân tố không thể thiếu, một bộ phận hữu cơ
trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân địa phương.

Từ
xa xưa cồng chiêng đã giữ chức năng thông tin. Có việc gì, có chuyện
vui chuyện buồn, cần thông báo giặc giã hay mùa màng bội thu… đều dùng
tiếng chiêng. Cồng chiêng đón em bé trong tiếng khóc chào đời. Cồng
chiêng đưa nhịp cho nam nữ thanh niên nhảy múa vui chơi trong ngày hội
mùa, rộn rã trong lễ đâm trâu, thủ thỉ trong lời nhắn gửi với thần linh,
rồi bi ai tiễn đưa vong hồn về nơi ông bà, đất mẹ…

Cũng
phải nói rằng, không phải lúc nào cũng có thể mang cồng chiêng ra đánh.
Phong tục quy định, chỉ đánh chiêng trong những ngày lễ, hội cổ truyền
với vị trí là một trong những thành phần của nghi thức hành lễ.

Như
người Ba Na quy định rất rõ ràng, chỉ được đánh chiêng trong các dịp
sau: Một là, đâm trâu mừng chiến thắng quân sự. Ðây là hình thức hiến tế
khá cổ xưa.  Lễ này diễn ra trong không khí sôi động, hào hứng của cả
cộng đồng. Bài chiêng tơđrăng kết hợp với hai điệu múa khiêl và loong
deh làm thành một tổng thể nghệ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc
xây dựng hình tượng thượng võ, biểu dương tinh thần dũng cảm, ý chí
chiến đấu, sự thông minh và khả năng võ nghệ của các chàng trai Ba Na.

Hai
là, lễ đâm trâu tạ thần cầu an, gọi là tơ nơl. Nếu có điều gì xảy ra
với dân làng như dịch bệnh, mất mùa, cháy làng, bị xâm lược… bà con
đều cầu cứu thần linh. Và khi tai qua nạn khỏi thì làm lễ cúng cảm ơn,
trả ơn thần linh. Con trâu chính là vật tế tượng trưng và cồng chiêng
thì đầy âm sắc vui tươi.

Ba
là, lễ Sa mơk, tức lễ ăn mừng lúa mới. Ðây là lễ có thể tổ chức ở từng
gia đình, nhưng thường thì tổ chức cả làng vào một ngày, rất vui. Ðây là
ngày tạ ơn nữ thần lúa có tên là Yàng Sơri. Và cuối cùng là lễ A Tâu
(tang ma). Lễ tang chỉ được khởi hành khi điệu chiêng Atâu cất lên cùng
với tốp múa đưa người chết ra nhà mồ. Nhạc chiêng Atâu nặng nề, ảm đạm,
buồn bã như một bài hát buồn lắng đọng ngân vang trong đêm, xoáy vào
trái tim người sống…

Từ
sau giải phóng đến nay, với một chính sách đúng mực trong việc vừa gìn
giữ vừa phát triển, văn hóa Tây Nguyên đã có những động thái phát triển
tích cực. Người Tây Nguyên lấy làng làm đơn vị chính, là trung tâm,
ngoài làng ra là rừng, là vũ trụ. Vì thế, làng là nơi biểu hiện rõ nhất,
đậm đặc nhất của truyền thống văn hóa Tây Nguyên.

Mới
nhìn thì các làng Tây Nguyên đều có vẻ giống nhau. Song khi đi sâu tìm
hiểu thì mới biết mỗi dân tộc tùy tính cách của mình mà lập làng theo
kiểu riêng.

Như
làng của người Xê Ðăng, bao giờ cũng trên chót vót núi cao hiểm trở,
như một pháo đài khác hẳn phong cách hài hòa, trầm tĩnh, thanh bình của
người Ba Na. Bởi cái tính cách ấy mà cái làng của người Ba Na cũng khác
với các làng của người Gia Rai, Ê Ðê, Xê Ðăng, MNông…

Plei
Bông (làng Bông) là một ngôi làng tiêu biểu của người Ba Na. Nó thuộc
xã Ayun, huyện Mang Yang (Gia Lai). Làng có gần 50 nóc nhà nằm trong một
thung lũng cách quốc lộ 19 gần bảy km.

Ðây
cũng là nơi sinh sống của một trong những người phụ nữ dệt thổ cẩm giỏi
nhất Tây Nguyên, tên chị là Siu Khang. Rìa làng Bông, thoải một con dốc
là các giọt nước. Phía dưới các giọt nước là cánh đồng lúa nước xanh
ngát.

Giọt
nước Plei Bông đẹp mê hồn. Mỗi giọt nước ẩn dưới một gốc đa cổ thụ rợp
bóng mát. Nó như bờ ao gốc gạo lũy tre làng của người Kinh, có thể bây
giờ ý nghĩa vật chất của nó không còn bao nhiêu nữa vì hệ thống nước
sạch đã về từng nhà, nhưng nó là ký ức, là tâm thức, là tuổi thơ, kỷ
niệm của từng cư dân trong cộng đồng. Chiều chiều nam thanh nữ tú ra đây
lấy nước tắm giặt, gặp nhau hẹn hò tình tự… Nó trở thành một góc
không thể thiếu trong tâm hồn mỗi người. Nó cũng neo giữ lại cái phần
hồn làng tươi xanh dân dã bất diệt mà trong thời buổi hiện đại ngày nay
đang có nguy cơ “phố hóa”…

Trong
một ngôi làng người Tây Nguyên, nhà rông là một thành tố không thể
thiếu. Nhà rông là nơi sinh hoạt cộng đồng của làng. Ðêm đêm, thanh niên
và những người đàn ông chưa vợ, góa vợ thường lên nhà rông ngủ.

Phụ
nữ không được phép lên nhà rông. Nếu họp làng trong nhà rông thì phụ nữ
phải ngồi dưới sân hoặc dưới gầm sàn nhà rông để dự. Nhà rông là nơi
thờ tự, cúng bái, rất linh thiêng nhưng lại cũng gần gũi.

Trong
nhà rông có hai vật không thể thiếu là bếp lửa và gói vật thiêng. Mái
nhà rông được trang trí rất đẹp với các hoa văn sặc sỡ và nhiều phù
điêu, tượng gỗ cách điệu, đặc biệt là hình rau dớn và mặt trời. Bà con
quan niệm đây là nơi các vị thần trú ngụ.

Người
Tây Nguyên cho rằng, các Yàng luôn ngự trên nóc nhà rông để phù trợ cho
làng. Vì thế khi cúng Yàng, bà con mượn nóc nhà rông để tiếp cận và
thỉnh nguyện các đấng các bậc tối cao. Trước sân là cây nêu ngũ sắc cao
vút, cũng lại là một khát vọng của nhân dân vươn lên trời xanh, mong
muốn hòa nhập với vũ trụ.

Nhìn
những nhà sàn để ở thường lúp xúp, nghiêng nghiêng trên triền đồi hoặc
ven suối trông như một đàn gà con thì nhà rông, trong một vị thế đắc
địa, vững chãi như gà mẹ giữa bầy gà con ấy. Ðầm ấm và sum họp. Chở che
và tin cậy. Nó là trung tâm nhưng cũng dàn đều. Nhà rông còn hài hòa với
trời, với đất, với gió, với nắng, với mưa.

Văn
hóa Tây Nguyên là một thực thể. Nó đang trong tiến trình hòa nhập với
văn hóa đương đại của cả nước. Nền văn minh nương rẫy ở vùng đất này
đang bước đầu có sự giao thoa với nền văn minh lúa nước.

Văn hóa của một dân tộc được đúc kết từ hành trình sống của dân tộc ấy.

Văn
hóa Tây Nguyên mang đậm dấu ấn cư dân của một vùng đất. Nó cũng là khởi
nguyên cho tương lai. Và vì thế, hiểu sâu sắc về nó, tôn trọng nó…
chính là tiên lượng và tôn trọng tương lai…