Hàng hoá trên thị trường chứng khoán: Các loại chứng khoán

Hàng hoá trên thị trường chứng khoán rất đa dạng chứ không phải chỉ có mua bán cổ phiếu như nhiều người lầm tưởng.

Thị trường chứng khoán đề cập đến những thị trường công khai minh bạch sống sót để phát hành, mua và bán CP thanh toán giao dịch trên sàn thanh toán giao dịch chứng khoán .
Cổ phiếu đại diện thay mặt cho quyền sở hữu theo từng phần trong một công ty. Thị trường chứng khoán là nơi mà những nhà đầu tư hoàn toàn có thể mua và bán quyền sở hữu những gia tài hoàn toàn có thể góp vốn đầu tư đó .

Một thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. TTCK mang lại cho các công ty khả năng tiếp cận vốn nhanh chóng từ công chúng.

Hàng hóa trên thị trường chứng khoán

Từ cơ cấu thị trường chứng khoán, hàng hóa trên thị trường bao gồm nhiều loại. Xét về mặt lịch sử và theo cách gọi có tính thống nhất, các loại hàng hóa này đều có tên gọi chung là CHỨNG KHOÁN.

Sự hình thành và tăng trưởng của TTCK được quyết định hành động thứ nhất bởi sự Open của chứng khoán cùng với chất lượng và số lượng của chúng .
Có nhiều định nghĩa về chứng khoán được lao lý trong những bộ luật có tương quan tại từng vương quốc, trong từng tiến trình .

Theo khoản 1, điều 4, Luật chứng khoán Việt Nam có hiệu lực ngày 01-01-2021 (54/2019/QH14)

1. Chứng khoán là gia tài, gồm có những loại sau đây :

  • a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
  • b) Chứng quyền, chứng quyền có bảo đảm, quyền mua cổ phần, chứng chỉ lưu ký;
  • c) Chứng khoán phái sinh;
  • d) Các loại chứng khoán khác do Chính phủ quy định.

Định nghĩa chứng khoán khái quát :

Chứng khoán là những chứng thư dưới dạng vật chất hoặc điện tử xác nhận quyền hợp pháp của chủ sở hữu chứng khoán và có thể được mua bán, trao đổi, chuyển nhượng trên TTCK.

Đặc điểm của hàng hoá trên thị trường chứng khoán

Hàng hoá trên thị trường chứng khoán ( gọi tắt là chứng khoán ) có những đặc thù cơ bản sau :
Chứng khoán là những sách vở có giá trung và dài hạn, sống sót dưới hình thức chứng từ. Chứng khoán là chứng từ xác nhận quyền sở hữu của chủ sở hữu so với tổ chức triển khai phát hành bút toán ghi sổ hoặc tài liệu điện tử, có ba thuộc tính :

  • Sinh lời: Chứng khoán có khả năng sinh lời kép (lợi tức và chênh lệch giá).
  • Tính thanh khoản: Chứng khoán có tính thanh khoản cao khi dễ dàng chuyển sang tiền mặt với thời gian ngắn, chi phí thấp, thủ tục đơn giản, trên cơ sở đảm bảo giá trị tiền tệ của chứng khoán đó.
  • Tính rủi ro: Là đe dọa về an toàn vốn và thu nhập đối với nhà đầu tư, là kết quả đạt được không theo ý muốn của nhà đầu tư. Chứng khoán có rủi ro kép từ sự mất giá của chứng khoán và lợi tức không như kỳ vọng.

Quyền hợp pháp của chủ sở hữu chứng khoán

Quyền và quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu chứng khoán được pháp lý bảo lãnh trải qua Luật chứng khoán. Trong đó có ba quyền cơ bản :

  • Quyền sở hữu đối với chứng khoán vốn
  • Quyền chủ nợ đối với chứng khoán nợ
  • Quyền về tài chính có liên quan đến chứng khoán phái sinh.

Các loại chứng khoán

Thông thường chứng khoán gồm 3 loại cơ bản là :

  • Chứng khoán VỐN: Cổ phiếu (Equity securities);
  • Chứng khoán NỢ: Trái phiếu (Debt securities);
  • Chứng khoán PHÁI SINH: Các chứng từ tài chính có nguồn gốc từ chứng khoán cơ sở (Derivatives).

Cổ phiếu (Stock)

Theo khoản 2, điều 4, Luật chứng khoán Việt Nam có hiệu lực ngày 01-01-2021 (54/2019/QH14)1

Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.

Định nghĩa này không biến hóa so với Luật Chứng khoán năm 2006, Luật sửa đổi, bổ trợ một số ít điều của Luật Chứng khoán năm 2010 .

Theo khoản 1, Điều 120 Luật Doanh Nghiệp Việt Nam Năm 2014 (Số 68/2014/QH13)2 có hiệu lực từ ngày 01/07/2015:

Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.

Như vậy, chính công ty CP đã khai sinh ra CP và chỉ có công ty CP mới được quyền phát hành CP .
Các cổ đông – người mua CP của công ty – là người góp vốn cùng công ty hoạt động giải trí để tạo ra vốn điều lệ, là người chủ sở hữu công ty. Vì vậy CP còn được gọi là chứng khoán vốn .

Trái phiếu (Bond) (chứng khoán nợ)

Theo khoản 3, điều 4, Luật chứng khoán Việt Nam có hiệu lực ngày 01-01-2021 (54/2019/QH14)3

Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần nợ của tổ chức phát hành.

Bản chất kinh tế của trái phiếu là quan hệ tín dụng. Người phát hành có tư cách là người đi vay, người mua trái phiếu là người cho vay và được gọi là trái chủ (chủ nợ).

Chứng chỉ quỹ đầu tư

Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư so với một phần vốn góp của quỹ đại chúng .
Loại chứng khoán này gắn với hoạt động giải trí kêu gọi vốn của quỹ góp vốn đầu tư chứng khoán .

Theo khoản 4, điều 4, Luật chứng khoán Việt Nam có hiệu lực ngày 01-01-2021 (54/2019/QH14)4

Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đầu tư chứng khoán.

Mệnh giá của chứng từ quỹ chào bán ra công chúng là 10 nghìn đồng .

Các chứng khoán phái sinh (Derivatives)

Các chứng khoán phái sinh sinh ra từ một loại sản phẩm kinh tế tài chính hoặc loại hàng hóa nào đó – được gọi là gia tài cơ sở như hàng hóa, CP, một khoản vay … Giá trị của nó được xác lập dựa vào giá trị của chính gia tài cơ sở. Do đó người ta gọi đây là những chứng từ có nguồn gốc kinh tế tài chính hoặc những chứng khoán phái sinh .

Theo khoản 9, điều 4, Luật chứng khoán Việt Nam có hiệu lực ngày 01-01-2021 (54/2019/QH14)5

Chứng khoán phái sinh là công cụ tài chính dưới dạng hợp đồng, bao gồm hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, trong đó xác nhận quyền, nghĩa vụ của các bên đối với việc thanh toán tiền, chuyển giao số lượng tài sản cơ sở nhất định theo mức giá đã được xác định trong khoảng thời gian hoặc vào ngày đã xác định trong tương lai.

Luật này cũng pháp luật : Tài sản cơ sở của chứng khoán phái sinh ( sau đây gọi là gia tài cơ sở ) là chứng khoán, chỉ số chứng khoán hoặc gia tài khác theo lao lý của nhà nước được sử dụng làm cơ sở để xác lập giá trị chứng khoán phái sinh ” .
Như vậy, đại đa số nhà đầu tư mới tham gia thị trường có khái niệm bị thiếu rằng Đầu tư chứng khoán chỉ là góp vốn đầu tư CP .
Sau khi khám phá kỹ về những loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán, tất cả chúng ta sẽ phải bổ trợ vào khái niệm chứng khoán những loại hàng hoá khác như trái phiếu, chứng từ quỹ …

Tham khảo bài đầu tiên: Thị trường chứng khoán là gì?

5/5 – ( 4 bầu chọn )

Xổ số miền Bắc