Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định – Wikipedia tiếng Việt

Đối với những định nghĩa khác, xem Trường Lê Hồng Phong

Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong là trường trung học phổ thông chuyên hệ công lập của tỉnh Nam Định, Việt Nam. Trường được thành lập theo nghị định số 2455 do Toàn quyền Đông Dương Maurice Long ký vào ngày 24 tháng 8 năm 1920 với tên gọi trường Thành Chung Nam Định. Nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Đông Dương từng học ở trường này.

Lịch sử nhà trường[sửa|sửa mã nguồn]

Trường Thành Chung Tỉnh Nam Định sinh ra theo nghị định số 2455 do Toàn quyền Đông Dương Maurice Long ký ngày 24-08-1920. Nghị định đã lao lý, năm học đầu Tỉnh Nam Định được mở một lớp, kinh phí đầu tư 4.500 đ, tuyển sinh những tỉnh Tỉnh Nam Định, Tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Hà Nam, Tỉnh Ninh Bình. Báo Trung Bắc Tân Vân, một tờ báo được thực dân Pháp bảo trợ, sau kêu xin được cho 1 số ít học viên 15 tuổi vào học. Số báo ra ngày 8-10-1920 đã đưa tin lớp học tiên phong của trường Thành Chung Tỉnh Nam Định có 45 học trò. Lớp học đặt tại một căn phòng gần Sở Bưu điện giờ đây. Người Thầy Nước Ta từ năm học tiên phong của trường là thầy Nguyễn Văn Hiếu, hiệu trưởng là viên thanh tra người Pháp Lo-retx .

Năm học 1921-1922 của trường có 2 lớp (năm thứ nhất và năm thứ hai), học nhờ trường Cửa Bắc. Người Pháp giảng dạy một số môn. Người Việt Nam có thêm thầy Vũ Văn Roãn. Để chuẩn bị mở lớp năm thứ 3, ngày 13-2-1922, giám đốc Nha học chính Bắc Kỳ điện cho Nam Định yêu cầu xây dựng trường riêng. Công sứ Nam Định ủng hộ chủ trương ấy. Thành phố đã lấy 2.250m2 tại phố Gốc Ngái để xây trường (nơi đặt trụ sở UBMTTQ thành phố bây giờ). Thầy Hoàng Ngọc Phách chuyển về trường vào thời gian viết cuốn tiểu thuyết “Tố Tâm”.

Năm học 1922-1923 với 3 lớp, trường chuyển về phố Gốc Ngái. Thầy Nguyễn Văn Hiếu chuyển về Hà Nội từ năm 1923. Nhà trường có thêm các thầy Nguyễn Văn Bằng, Mai Phương, Nguyễn Gia Tường.

Ngày 2-9-1923 Giám đốc Nha học chính Bắc Kì quyết định cho Nam Định được mở tiếp năm thứ tư. Do đó, trường mới được xây dựng ở đầu phố Bến Ngự (nơi đặt trường Tiểu học Phạm Hồng Thái bây giờ).

Năm học 1923-1924 trường có 4 lớp. Cũng như các trường khác, nhà trường được sự trợ giúp của Hội Bảo trợ học đường. Trường chuyển ra địa điểm mới và theo Nghị định số 2419 lúc bấy giờ của toàn quyền Đông Dương ký ngày 23-09-1924, trường đổi tên là Cao đẳng tiểu học Pháp-Việt.

Năm học 1924-1925 nhà trường tuyển 80 học sinh (vẫn chưa tuyển nữ sinh), nhưng năm học sau chỉ tuyển 40 học sinh vì thiếu lớp học.
Năm 1925 Sac-lơ Pa-trix, một nhà văn, được bổ nhiệm làm hiệu trưởng.

Những năm 1925 – 1928 trường có thêm nhiều thầy dạy. Các thầy người Việt Nam, tính đến năm 1925 có thêm các thầy Trần Văn Hào, Trần Văn Chử, Vũ Tam Thám, Đỗ Hữu Phúc, Ngô Duy Cừ, Phạm Văn Bảng, Đào Văn Định, Vũ Tam Tập, Phan Đình Nghiu, Nguyễn Văn Chính, Phạm Văn Nam, Nguyễn Như Loan, Nguyễn Quang Xương, Vũ Văn Roãn. Đến năm 1927 có thêm các thầy Phan Thế Roanh, Dương Quảng Hàm, cụ kép Phạm Cao Bạt, thân sinh nhà văn Phạm Cao Củng, được tạm tuyển dạy Hán Văn.
Học sinh trường Thành Chung Nam Định có truyền thống học giỏi và yêu nước, chịu ảnh hưởng của các phong trào yêu nước và phòng trài cách mạng sớm lan tỏa vào trường từ những năm 1924, 1925. Gần nhất là phong trào công nhân trong thành phố đấu tranh đòi quyền con người. Nhiều sách báo đã xuất hiện trong nhà trường “L’annam” của Phan Văn Trường, “Le Paria”, Người cùng khổ của Nguyễn Ái Quốc, báo Nhân đạo, “L’Humanite” của Đảng cộng sản Pháp rồi đến “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”…. Thầy trò chuyền nhau đọc. Có học trò chép và truyền nhau đọc.

Tháng 11-1925 khi thực dân Pháp kết án cụ Phan Bội Châu, cụ tú Nguyễn Khắc Doanh, người Nam Trực, xin chết thay cụ Phan. Sự việc này đã được đăng trên các báo, đã gây tác động mạnh đến các học sinh và nhân dân. Toàn quyền Đông Dương Varen phải ân xá cho cụ Phan. Cũng năm ấy nhiều vùng miền Bắc bị lụt lớn, học sinh trường Thành Chung đã tổ chức diễn kịch lấy tiền trợ giúp những người bị nạn.

Ngày 11-3-1926 nhà yêu nước Phan Chu Trinh mất. Phong trào truy điệu và để tang cụ Phan từ Sài Gòn đã lan ra toàn quốc. Nhân dân Nam Định cũng đã đấu tranh đòi được tổ chức lễ truy điệu cụ Phan, nòng cốt là học sinh trường Thành Chung được các nhà nho và nhân dân nhà máy ủng hộ. Những người khởi xướng là Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Khắc Lương, Đặng Xuân Khu, Nguyễn Tường Loan, Đặng Châu Tuệ, Nguyễn Văn Hoan…. Học sinh đã bãi khóa và tổ chức thành công lễ truy điệu.

Sự kiện ấy đã gây tiếng vang lớn trong cả nước. Một số thầy giáo và một số ít lớn học viên đã bị kỷ luật. Thầy Vũ Tam Tập phải đổi đi TP Lạng Sơn, thầy Đào Văn Định đi Sơn Tây sau đó đi Thành Phố Bắc Ninh, thầy Nguyễn Văn Chính đi Thành Phố Bắc Ninh. Theo quyết định hành động số 1654E ngày 30-04-1926 của thống sứ Rôbanh thì 47 học viên năm thứ 4, 7 học viên năm thứ 3 trong đó có Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Tường Loan, Đặng Xuân Khu bị đuổi hẳn, còn có 30 học viên lớp 3A, 28 học viên lớp 3B bị đuổi trong thời điểm tạm thời, và có khoảng chừng 50 học viên những lớp năm thứ hai và năm thứ nhất bị đuổi trong thời điểm tạm thời hoặc bị tước hết học bổng .

Hiệu trưởng Saclo Patris bị coi là nhu nhược phải đổi về trường Bưởi dạy Văn-sử. Người thay thế là Đờ Phô-tơ-rô Vatxen. Sau lễ truy điệu cụ Phan, một số học sinh tự thôi học đi tìm đường cứu nước. hơn một chục người lần lượt sang Quảng Châu tìm gặp cụ Nguyễn Ái Quốc được cụ giác ngộ, huấn luyện rồi trở thành những đại biểu Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (VN TNCMDCH).
Năm 1927 đồng chí Nguyễn Văn Hoan đã tổ chức chi bộ VN TNCMDCH đầu tiên ở trường Thành Chung. Những người đầu tiên gia nhập tổ chức là Trần Việt Giần, Ngô Thế Ruông, Đặng Vũ Tiềm, Đặng Vũ Giác, Đặng Tiện Quỳ rồi đến Đỗ Như Lăng. Riêng hai ông Đặng Vũ Tiềm, Đặng Vũ Giác đã vận động rất nhiều thanh niên, trí thức yêu nước làng Hành Thiện (tỉnh Nam Định)tham gia tổ chức. Chi bộ này ghép với chi bộ công nhân do đồng chí Trần Văn Lan, thợ điện nhà máy sợi làm bí thư.

Từ năm 1928 đến năm 1932 các học sinh khác của trường Thành Chung như Tống Phúc Chiểu, Đặng Châu Tuệ, Vũ Văn Mẫn, Vũ Công Phụ, Lưu Đình Diêu, Nguyễn Văn Chước, Đỗ Duy Ninh, Nguyễn Thượng Chí, Đặng Hữu Rạng (Đặng Việt Châu), Trần Văn Ngoạn, Vũ Đức Oong, Hoàng Thọ Tiểu, Vũ Ngọc Thuần,…lần lượt được kết nạp Đảng.

Năm 1928 có một số người tìm đường sang Xiêm bị bắt giữ lại. Ngày 18-12-1928, Robin ký Nghị định số 5438 cấm 6 người không được làm việc nhà nước. Đó là Nguyễn Trịnh Bảo, Vũ Tiến Lữ, Lê Trọng Quy, Nguyễn Tuân, Lương Đức Thiệp, Nguyễn Đình Chung. Có hai học sinh tham gia Việt Nam Quốc Dân Đảng, một tổ chức lúc đấy cũng chống đế quốc Pháp; nhưng khi thấy sự bế tắc của đường lối, các anh đã ly khai và gia nhập Đảng Cộng sản. Đó là trường hợp các anh Nghiêm Tử Trình (sau này là Ủy viên Ủy ban Hành chính Hà nội những năm 1950) và Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân trở thành nhà văn trong điều kiện như thế.

Từ năm 1930 đến 1935 bộ máy nhà trường có thay đổi. Hiệu trưởng là Agard, các thầy người Việt Nam là Vũ Văn Roan, Phạm Văn Nam, Trần Văn Hào, Phạm Xuân Độ, Hoàng Đình Ân, Phạm Đình Nghiu, Phan Thế Roanh. Thầy Vũ Tam Tập đi một năm lại trở về, thầy Đào Văn Định đi 5 năm thì trở về. Thầy Ngô Duy Cừ mất năm 1936.

Những năm 1931-1935 thực dân Pháp khủng bố mạnh. Nhiều học sinh là nòng cốt của phong trào đã thôi học, đi hoạt động cách mạng. Phong trào có lúc lắng xuống, nhưng lại vẫn có lúc bùng lên với những sự kiện đáng ghi nhớ. Một sự việc đáng kể là học sinh trường Thành Chung tham gia cuộc vận động nhân dân thành phố Nam Định không đi xem đoàn xiếc nước Anh biểu diễn, triệt để tẩy chay tên Ham-xton, chủ gánh xiếc đã xúc phạm dân tộc Việt Nam.

Việc làm ấy có tiếng vang lớn, Viral đến Vinh và những nơi khác. Hamston bị tẩy chay, bị xua đuổi khắp nơi, hết đường hành nghề, đành bắn hết hổ báo … đến mức kiệt sức, phải hổ thẹn và sau cuối đã tự sát ! Học sinh trường Thành Chung còn hoạt động nhân dân không đi đón ” Bảo Đại ngự giá Bắc tuần “. Thời kỳ này còn có thêm một số ít nhân tài trong học viên Open : Trần Hữu Trí, do thực trạng túng thiếu, đã bỏ học, đi dạy tư và viết văn. Anh đã sớm trở thành nhà văn Nam Cao đáng tự hào của quê nhà quốc gia. Còn phải kể đến những nhạc sĩ Bùi Công Ký, nhà văn Nguyễn Văn Niêm, Trần Lê Văn … Người học viên xuất sắc Vũ Công Hậu đã đứng đầu cuộc thi học viên giỏi toán những trường trung học toàn Đông Dương. Trong đội ngũ những thầy giảng dạy thời hạn ấy có 1 số ít thầy đi làm kiểm học rồi làm đốc học ở 1 số ít tỉnh miền Bắc. Đó là thầy Nguyễn Như Loan, Nguyễn Quang Xương, Vũ Văn Roan ….

Từ năm 1936-1937, nhà trường có thêm thầy Đỗ Trọng Cảnh, Đặng Lợi Hàm (sau là Ủy viên Ủy ban Hành chính Thành phố Hải Phòng), Nguyễn Đình Hường, Nguyễn Bá Cường. Hiệu trưởng Agard bị đổi đi nơi khác vì sự việc xúc phạm đến nhân cách học sinh và dân tộc Việt Nam, học sinh phẫn nộ, phản ứng lại mạnh mẽ và rải truyền đơn chống đối. Pierre Maneval về thay. Trong khoảng thời gian ở Pháp, Mặt trận bình dân cầm quyền, thực dân Pháp cho xây dựng một trường lớn có 8 lớp đủ tiện nghi, phương tiện thí nghiệm, thực hành với mức khá hiện đại ở đầu đường Cổng Hậu (gần bến ôtô cũ bây giờ). Di tích còn lại của trường nay là phố Thành Chung.

Năm học 1937 -1938 trường chuyển về địa điểm mới và bắt đầu nhận học sinh nữ. Mỗi lớp có khoảng 5 nữ sinh. Đồng thời, nhà trường cũng nhận thêm một số học sinh là con em Pháp kiều không có điều kiện học ở trường Sa-rô ở Hà Nộị. Năm học 1938-1939 Lô-hê-nê về làm hiệu trưởng thay Maneval. Sau đó, Lô-hê-nê bị động viên vào quân đội sang đánh nhau ở Campuchia, Bre-ăng thay được ít lâu thì Ma-nơ-van trở lại trường nhận chức vụ cũ cho tới ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, nắm chính quyền ở Đông Dương, thì bị Nhật bắt, sau được trả tự do, trở về Pháp.

Trong tình hình đơn cử của những năm 1936 – 1939, trào lưu cách mạng được phục sinh và tăng trưởng, có sự hoạt động giải trí của những chiến sỹ Đào Năng An, Đình Gia Thái, Vũ Quốc Uy, Nguyễn Công Bổng, Phan Đình Đống, Phạm Văn Cương, Hà Văn Lộc, Nguyẽn Bá Huấn, trong phòng trào đoàn người trẻ tuổi Dân chủ rồi đến đoàn người trẻ tuổi Phản đế. Lúc ấy những chiến sỹ này đang học năm thứ 3 ( 1939 ), nhiều chiến sỹ bị bắt, bị tù đầy vào tuổi 16, 17 .

Từ năm 1939 đến năm 1940 có các thầy Đỗ Văn Đoan, Thạch Quan Tuấn, Nguyễn Hữu Văn, Đào Đình Khánh, Nguyễn Thụy Hùng, Nguyễn Trọng Thuyết, Nguyễn Quang Hồ, Hà Văn Bính… nối tiếp nhau về trường.

Năm 1942 trường cao đẳng tiểu học Pháp-Việt đổi tên thành trường Trung học. Thời kỳ này các học sinh Phạm Ngọc Khuê, Phạm Ngọc Lê, Trần Hữu Bái… tham gia hoạt động thành lập Đoàn thanh niên cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh, rồi tham gia tổng khởi nghĩa.

Khi cơ quan chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật sinh ra, thầy Phan Thế Roanh được cử tạm quyền Hiệu trưởng. College de Nam Dinh được đổi tên thành trường Trung học Nguyễn Khuyến. Ít lâu sau thầy Phó Đức Tố, giáo sư trường Bưởi chính thức về làm hiệu trưởng. Giặc Nhật chiếm trường ở đầu phố Cổng Hậu làm doanh trại, trường trở lại khu vực cũ ở đầu phố Bến Ngự. Cách mạng tháng Tám thành công xuất sắc, quân Tưởng lại vào chiếm trường thay quân Nhật .

Năm học 1946-1947 trường đổi tên thành trường trung học chuyên khoa Nguyễn Khuyến có Ban Toán-Lý-Hóa và ban Vạn vật. Lần đầu tiên bậc trung học chuyên khoa (THCK, tức phổ thông trung học-Trung học phổ thông hoặc phổ thông cấp 3 có phân ban) được mở ở thành phố Nam Định. Có một số thầy mới về như: Vũ Bình, Nguyễn Đình Nam, Nguyễn Hữu Ngọc,…

Kháng chiến toàn nước bùng nổ, năm 1947 trường chuyển đến xã Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Tỉnh Ninh Bình. Chi bộ Đảng cộng sản Đông Dương ( CSĐD ) trường THCK Nguyễn Khuyến, tức THCK Nguyễn Thượng Hiền sau này, được xây dựng ngày 13-1-1948, lúc đầu gồm 4 chiến sỹ : Đào Nguyên Cát ( bí thư ), Nguyễn Văn Đắc, Phạm Văn Phối, Vũ Phi Hoàng ( đều là Đảng viên về đi học ). Một bộ phận của trường Nguyễn Khuyến, hầu hết là cấp 2, tản cư về Trà Bắc, huyện Xuân Trường Tỉnh Nam Định, do thầy Đào Đình Khánh làm hiệu trưởng .

Cuối năm 1949 Pháp đánh Phát Diệm (Ninh Bình), trường THCK Nguyễn Khuyến chuyển vào thôn Ngô Xá, xã Đại Đồng, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, đổi tên thành trường THCK Nguyễn Thượng Hiền, có các Ban Toán- Lý – Hóa, Ban Vạn vật là Ban Ngoại ngữ. Năm 1950, khu giáo dục Liên khu 3 quyết định thành lập trường Cao đẳng sư phạm (CĐSP) Liên khu 3, lúc đầu lấy một số học sinh chuyên khoa Nguyễn Thượng Hiền chuyển sang học sư phạm. Có 2 BGH: Thầy Phó Đức Tố làm hiệu trưởng trường THCK Nguyễn Thượng Hiền, thầy Đỗ Trọng Cảnh làm hiệu trưởng trường CĐSP Liên khu. Lúc đầu 2 trường có chung một chi bộ Đảng CSĐD lãnh đạo, sau tách thành 2 chi bộ đều trực thuộc Tỉnh ủy Đảng CSĐD tỉnh Thanh Hóa.

Lúc này trường THCK Nguyễn Thượng Hiền đã trở thành một cái nôi huấn luyện và đào tạo nhân tài, tập hợp nhiều học viên muốn học lên THCK của đồng bằng Bắc Bộ và miền Bắc Trung Bộ ( gồm có cả nhiều học viên từ những thành phố tản cư về ), trong đó có những đảng viên đã đi công tác làm việc nay được Đảng cho về trường liên tục học để hoàn thành xong bậc tú tài .

Đến những năm 1952-1953, ở Liên khu 3, đã phát triển thêm một số trường cấp 3 như các trường Hoa Lư, Cù Chính Lan, Nguyễn Quốc Trị, La Văn Cầu, Hồ Tùng Mậu (các thầy Đào Văn Định, Nguyễn Văn Vận… của trường Nguyễn Thượng Hiền được cử sang làm hiệu trưởng), đến khi giải phóng, những trường hợp này hợp nhất lại thành trường cấp 3 Liên khu 3 và trở về đặt trụ sở tại thành phố Nam Định (1954), và do thầy Đào Văn Định làm Hiệu trưởng. Trường lúc đó có 21 lớp: 7 lớp Tám, 7 lớp Chín và 7 lớp Mười.

Năm 1958, trường đổi tên là trường Phổ thông cấp 3 Nam Định, thuộc Thành phố Nam Định

Năm 1959, trường chia thành hai trường: Phổ thông cấp 3 Lê Hồng Phong (học buổi sáng) và Phổ thông cấp 3 Lý Tử Trọng (học buổi chiều, cùng một địa điểm bên cạnh hồ Raquète (dân gọi là hồ “La két”)). (LNg.BXL. / 8i – 9đ- 10b / 1957 – 1960).

Năm 1959, trường đổi tên thành trường Lê Hồng Phong và nay là trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong Nam Định.

Năm 2000, trường được phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động thời kì đổi mới”.

Năm 2004, trường được tặng thưởng “Huân chương Độc lập hạng Nhất”.

Ngày 27/03/2010, trường tổ chức kỷ niệm 90 năm ngày thành lập (1920-2010), 50 năm trường mang tên cố Tổng Bí thư Lê Hồng Phong và đón nhận Cờ Thi đua của Chính phủ.

Năm 2010, trường có 03 Nhà giáo được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú: Thầy Cao Xuân Hùng (Hiệu trưởng), Cô Phạm Minh Hạnh (GV tiếng Anh), Thầy Trần Xuân Đáng (GV Toán).

Năm 2012, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 1848/QĐ-CTN về việc phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân và Quyết định số 1849/QĐ-CTN về việc phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú. Trong đợt phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú năm 2012, Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong – Nam Định có 3 Nhà giáo được vinh danh. Đó là nhà giáo Đặng Kim Long – nguyên giáo viên tổ Toán – Tin; Nhà giáo Lương Văn Thủy – Phó hiệu trưởng nhà trường và Nhà giáo Phạm Đình Chuẩn – giáo viên tổ Toán – Tin.

Năm 2013, trường được tặng thưởng “Huân chương Độc lập hạng Nhất” lần thứ 2.

Năm 2014, thầy Vũ Đức Thọ, Phó Hiệu trưởng nhà trường được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng nhà trường thay thầy Cao Xuân Hùng chuyển công tác về làm Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Nam Định.

Cơ cấu tổ chức triển khai[sửa|sửa mã nguồn]

Từ năm 2020 Ban giám hiệu nhà trường gồm:

Hiệu trưởng là tiến sỹ Phạm Thị HuệBa hiệu phó là thầy Nguyễn Hữu Thiêm, cô Phạm Thị Thanh Tâm và thầy Bùi Thái Họcquản trị ban chấp hành công đoàn trường là thầy Phạm Đình ChuẩnHệ thống giáo viên, cán bộ, công nhân viên của trường được chia làm 8 tổ :

  1. Tổ Ngữ văn- tổ trưởng: Vũ Thị Bích Ngọc
  2. Tổ Sử-Địa-Giáo dục công dân- tổ trưởng: Trần Thị Kim Oanh
  3. Tổ Ngoại ngữ- tổ trưởng: Trần Thị Hà
  4. Tổ Toán-Tin- tổ trưởng: Nguyễn Hoàng Cương
  5. Tổ Vật lý-Kỹ thuật- tổ trưởng: Lê Phương Dung
  6. Tổ Hóa-Sinh-Công nghệ- tổ trưởng: Vũ Văn Hợp
  7. Tổ Hành chính-Tổ trưởng: Trần Thị Minh Thơ
  8. Tổ Thể mĩ-Giáo dục quốc phòng- tổ trưởng: Trần Văn Huy.

Phương thức tuyển sinh[sửa|sửa mã nguồn]

Học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở muốn vào học cần tham gia kì thi tuyển sinh vào lớp 10 của trường thường là khá khắc nghiệt .

Chỉ tiêu tuyển sinh :[sửa|sửa mã nguồn]

Tuyển 14 lớp chuyên theo những môn chuyên : Toán, Tin học, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Tiếng Anh, Tiếng Nga, Tiếng Pháp. Trong đó 2 lớp chuyên Toán, 2 lớp chuyên Tiếng Anh, 2 lớp chuyên Văn mỗi lớp 35 học viên. Tuyển 2 lớp không chuyên : mỗi lớp 40 học viên .

Đối tượng dự thi :[sửa|sửa mã nguồn]

Là Học sinh đã tốt nghiệp Trung học cơ sở có độ tuổi từ 15 đến 17 tuổi và những trường hợp khác được lao lý tại Điều 1, Quyết định số 24/2008 / QĐ-BGDĐT ngày 28 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc sửa đổi, bổ trợ Điều 3 của Quy chế tuyển sinh phát hành kèm theo Quyết định số 12/2006 / QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 4 năm 2006 .
Học sinh phải thi 3 môn không chuyên gồm Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ và môn chuyên. Hệ số điểm những bài thi : Tuyển sinh lớp chuyên : Điểm bài thi không chuyên tính thông số 1, điểm bài thi chuyên tính thông số 2. Tuyển sinh lớp không chuyên : Chỉ tính điểm những bài thi không chuyên : Ngữ văn, Toán và Ngoại ngữ hệ số 1 .

Hình thức làm bài :[sửa|sửa mã nguồn]

Đề thi những môn chung ( Ngữ văn, Toán ) theo hình thức tự luận, Ngoại ngữ chung và những đề thi ngoại ngữ chuyên theo hình thức tự luận tích hợp với trắc nghiệm và phần thi nói. Phần trắc nghiệm của những đề ngoại ngữ chung và những đề ngoại ngữ chuyên chiếm không quá 50 % số điểm. Đề thi những môn chuyên còn lại theo hình thức tự luận. Thí sinh làm những bài thi ngoại ngữ trên giấy in đề thi. Các bài thi khác làm bài trên giấy thi thường thì theo mẫu của Sở GD-ĐT. Điểm mỗi bài thi theo thang điểm 10 .

Nguyên tắc tuyển sinh :[sửa|sửa mã nguồn]

Xét tuyển từ điểm cao xuống thấp đến khi đủ tiêu tốn được giao. Xét riêng cho từng khối lớp chuyên trước ; sau đó xét tuyển những lớp không chuyên. Trong trường hợp không tuyển hết những thí sinh có điểm xét tuyển ngang nhau thì tuyển chọn học viên theo thứ tự sau đây : Có điểm thi môn chuyên cao hơn ; Có điểm trung bình hoặc tổng số điểm trung bình 2 môn chuyên cuối năm học lớp 9 cao hơn ; Có điểm trung bình những môn học cuối năm học lớp 9 cao hơn ; Có tổng điểm trung bình môn dự thi vào chuyên của những lớp đã học ở cấp Trung học cơ sở cao hơn .

Hoạt động ngoại khóa[sửa|sửa mã nguồn]

Song hành với việc học tập, học viên trường Lê Hồng Phong Tỉnh Nam Định còn tổ chức triển khai rất nhiều hoạt động giải trí ngoại khóa hữu dụng sau những giờ học stress. Các giải thể thao của trường được tổ chức triển khai hàng năm như đá bóng, đá cầu, cầu lông … lôi cuốn phần đông học viên tham gia. Chuyên mục văn nghệ giữa những khối lớp chuyên thường được tổ chức triển khai vào mỗi thứ hai hàng tuần .Ngoài ra trường còn tổ chức triển khai rất nhiều hoạt động giải trí ngoại khóa khác như Dạ hội hàng năm của khối Chuyên Tiếng Anh ( The annual prom of English gifted classes ), cuộc thi Lăng kính khoa học, rung chuông vàng, làm bánh nhân ngày 20/10, cắm hoa nghệ thuật và thẩm mỹ, du lịch thăm quan du lịch … Các câu lạc bộ cũng hoạt động giải trí mạnh như CLB khoa học, CLB thẩm mỹ và nghệ thuật, CLB ngoại ngữ, CLB võ thuật, CLB tiếng Anh Flashlight, …

Thành tích điển hình nổi bật[sửa|sửa mã nguồn]

Trường Trung học đại trà phổ thông chuyên Lê Hồng Phong là trường chuyên duy nhất của tỉnh Tỉnh Nam Định. Trường luôn là một trong những trường chuyên nổi tiếng của cả nước với bề dày thành tích trong học tập. Trong 15 năm gần đây, trường Trung học đại trà phổ thông chuyên Lê Hồng Phong có 971 giải học viên giỏi cấp vương quốc, 24 huy chương những kì thi Olimpic khu vực và quốc tế. Trường đạt chuẩn vương quốc, được Nhà nước Nước Ta trao tặng nhiều phần thưởng và được phong tặng thương hiệu ” Anh hùng Lao động thời kì thay đổi ” .Tỉnh Tỉnh Nam Định đã quyết định hành động góp vốn đầu tư trên 250 tỷ đồng thiết kế xây dựng trường Trung học đại trà phổ thông chuyên Lê Hồng Phong thành trường chất lượng cao trọng điểm trên khuôn viên rộng 8 ha với vừa đủ trang, thiết bị giáo dục văn minh, đồng nhất, đủ năng lượng hội nhập quốc tế đến năm 2020 .

Danh sách học viên đạt giải quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]

2019-2020

  • Đàm Thị Minh Trang: Huy chương Vàng Olympic Hóa Học quốc tế (ICO lần thứ 52) tại Thổ Nhĩ Kỳ.

2017-2018

  • Hoàng Thanh Tùng: Huy chương Bạc Olympic Hóa học quốc tế (ICO lần thứ 50) tại Cộng hòa Czech và Cộng hòa Slovakia

2014-2015:

  • Đinh Thị Hương Thảo: Huy chương Vàng Olympic Vật Lý Quốc tế tại Ấn Độ, Huy chương Bạc Olympic Vật Lý châu Á tại Trung Quốc.
  • Phạm Minh Đức: Huy chương Đồng Olympic Sinh học quốc tế tại Đan Mạch

2013-2014:

  • Phạm Minh Đức: Huy chương Đồng Olympic Sinh học quốc tế tại Indonesia
  • Nguyễn Thị Minh Nguyệt: Huy chương vàng Olympic Tiếng Nga quốc tế

2012-2013:

  • Trần Thị Thu Hương: Huy chương Đồng và danh hiệu “Thí sinh nữ xuất sắc nhất châu Á” kì Olympic Vật lý Quốc tế tại Đan Mạch.
  • Đặng Tuấn Linh: Bằng khen Olympic Vật lý châu Á

2011-2012:

  • Nguyễn Thu Trang: Huy chương Bạc Olympic Sinh học Quốc tế tại Singapore
  • Trần Đức Huy: Huy chương Đồng Olympic Sinh học Quốc tế tại Singapore
  • Đinh Việt Thắng: Huy chương Bạc Olympic Vật lý châu Á tại Ấn Độ, Huy chương Đồng Olympic Vật lý Quốc tế tại Estonia
  • Bùi Xuân Hiển: Huy chương Đồng Olympic Vật lý châu Á tại Ấn Độ, Huy chương Đồng Olympic Vật lý Quốc tế tại Estonia
  • Trần Thị Mai Hương: Huy chương Đồng Olympic Hóa học Quốc tế tại Hoa Kỳ.

2010-2011:

  • Nguyễn Thu Trang: Huy chương Đồng Sinh học Quốc tế,
  • Đặng Thu Trang: Bằng khen Sinh học Quốc tế,
  • Nguyễn Văn Thế: Huy chương Đồng Toán Quốc tế.

2009 – 2010:

  • Phạm Văn Quyền: Huy chương Bạc Vật Lý Quốc tế tại Croatia.

2008 – 2009:

  • Phạm Văn Quyền, HC Bạc Vật lý Quốc tế tại Mexico.

2006 – 2007:

  • Lương Kim Doanh, Bằng khen Vật lý châu Á.
  • Đinh Đăng Đức, HC Đồng Vật lý châu Á,

2005 – 2006:

  • Trần Mạnh Tùng, Bằng khen Vật lý châu Á.

2003 – 2004:

  • Đoàn Văn Khánh, HCB Vật lý Quốc tế,
  • Đoàn Văn Khánh, HCB Vật lý châu Á

2002 – 2003:

  • Nguyễn Đăng Hợp, HCB Toán Quốc tế,
  • Trần Công Toán, HCB Vật lý châu Á

2000 – 2001:

  • Hoàng Thu Quỳnh, HCĐ Olimpic Tiếng Nga tại Nga,
  • Trần Công Tú, HC Đồng Sinh học Quốc tế

1999 – 2000:

  • Nguyễn Trung Dũng, Bằng khen Vật lý Quốc tế,
  • Hoàng Tiến, Bằng khen Vật lý châu Á,
  • Vũ Việt Tài, HCB Toán châu Á – TBD

1998 – 1999:

  • Hoàng Mạnh Quang, HCB Toán châu Á – TBD,
  • Phạm Văn Quyền, HCĐ Toán châu Á – TBD,

1997 – 1998:

  • Chu Văn Trung, HCĐ Sinh học Quốc tế,
  • Nguyễn Anh Hoa, HCĐ Toán châu Á – TBD

1996 – 1997:

  • Trần Thế Truyền, HCB Vật lý Quốc tế,
  • Lương Văn Huấn, HCĐ Hóa học Quốc tế,
  • Vũ Hải Sâm, HCB Toán châu Á – TBD

1994 – 1995:

  • Đặng Thu Giang, HCV Olimpic Tiếng Nga tại Nga,
  • Cao Hồng Hạnh, HCV Olimpic Tiếng Nga tại Nga,
  • Nguyễn Quỳnh Hương, HCV Olimpic Tiếng Nga tại Nga,
  • Trần Vân Anh, HCB Olimpic Tiếng Nga tại Nga,
  • Vũ Việt Hà, HCĐ Olimpic Tiếng Nga tại Nga

1993 – 1994:

  • Cao Minh Trí, HCĐ Olimpic Tin học Quốc tế

BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ THI HỌC SINH GIỎI CẤP QUỐC GIA

Năm học Số HS dự thi Tỉ lệ đạt giải %
2014-2015 90 78/90= 87
2013-2014 88 72/88= 82
2012-2013 88 77/88=87,5
2011-2012 84 82/84=97.6
2010-2011 84 81/84=96.4
2009-2010 84 82/84=97.6
2008-2009 82 79/82=96.3
2007-2008 66 90.9
2006-2007 66 84.8
2005-2006 88 79.5
2004-2005 88 65.9
2003-2004 88 87.5
2002-2003 88 84.1
2001-2002 88 75
2000-2001 88 76.1

Cựu học sinh nổi tiếng[sửa|sửa mã nguồn]

Suốt chiều dài lịch sử dân tộc của mình, trường Thành Chung mà nay là Lê Hồng Phong Tỉnh Nam Định đã giảng dạy ra rất nhiều nhân tài cho quốc gia. Một số đã đảm nhiệm những trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, giữ những cương vị quan trọng như Tổng bí thư Đảng, quản trị HDNN, Ủy viên bộ Chính trị, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Cục trưởng, là sĩ quan hạng sang trong những lực lượng vũ trang, nhiều người khác nữa hoạt động giải trí trong những nghành nghề dịch vụ kinh tế tài chính, XH, khoa học, văn hóa truyền thống, giáo dục … một số ít đã trở thành những nhà giáo, nhà văn, nhà khoa học, những nhà hoạt động giải trí XH, những nghệ sĩ nổi tiếng trong và ngoài nước .

Cách mạng – Chính trị[sửa|sửa mã nguồn]

Kinh tế – xã hội[sửa|sửa mã nguồn]

Danh hiệu và phần thưởng[sửa|sửa mã nguồn]

2012: Huân chương Độc lập hạng Nhất lần thứ 2

2010: Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ (V)

2009: Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ (IV)

2004:

2003: Cờ “Đơn vị xuất sắc nhất ngành GD ĐT” của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

2002: Cờ “Đơn vị xuất sắc nhất ngành GD ĐT” của ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định

2001

2000

  • Nhà nước tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới”
  • Cờ “Đơn vị 3 năm liền dẫn đầu trong phong trào thi đua của Trung ương Đoàn”
  • Tặng cờ tập thể Anh hùng của Bộ giáo dục
  • Cờ tiến tiến xuất sắc của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam
  • Cờ “Giải Nhất toàn đoàn thi học sinh giỏi tỉnh Nam Định”

1999: Huân chương Độc lập hạng Nhì

1998: Cờ thi đua xuất sắc của tổng liên đoàn Lao động Việt Nam

1995: Huân chương Độc lập hạng Ba

1992, 1994: Cờ của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam

1993 – 1994: Huân chương Lao động hạng Nhất (lần 2)

1991 – 1992

  • Cờ luân lưu của Chính phủ (lần 3)
  • Huân chương Lao động hạng Ba (giáo viên tổ Vật lý – Kĩ thuật)

1990 – 1991: Huân chương Lao động hạng Ba (giáo viên tổ Văn chuyên)

1982: Cờ luân lưu của Chính phủ (lần 3)

1981: Huân chương Lao động hạng Nhất (lần 1)

1977: Huân chương Lao động hạng Nhì

1976: Cờ luân lưu “Đơn vị dẫn đầu thi đua” toàn ngành Giáo dục của Chính phủ (lần 1)

1971: Huân chương Lao động hạng Ba

1955: Cờ thi đua khá nhất của UBHC Liên khu Ba.

Trường đã nhiều lần được đón các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương về thăm trường.

Tháng 7 năm 1987 Tổng Bí thư Đảng CSVN Trường ChinhTháng 2 năm 1992 Đại tướng Võ Nguyên GiápTháng 2 năm 1998 quản trị nước Trần Đức LươngTháng 3 năm 1999 Phó quản trị nước Nguyễn Thị BìnhTháng 9 năm 2001 Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Vũ Ngọc HảiTháng 3 năm 2005 Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Đặng Huỳnh MaiTháng 9 năm 2005 Thường trực Ban Bí thư Đảng Phan DiễnTháng 4 năm 2007 Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện NhânTháng 9 năm 2009 Phó quản trị Quốc hội Uông Chu LưuTháng 9 năm 2009 Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thị Nghĩa

Tháng 9 năm 2010
Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Trần Quang Quý
Tháng 9 năm 2013

  • Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thế Huynh;
  • Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Quang Quý

Danh sách hiệu trưởng[sửa|sửa mã nguồn]

Nguồn[4]

Nhiệm kỳ Họ và tên
2019-nay Phạm Thị Huệ
2017-2019 Ngô Vỹ Nông
2014-2017 Vũ Đức Thọ[cần dẫn nguồn]
2008-2014 Cao Xuân Hùng
1997-2008 Nguyễn Viết Hùng
1988-1997 Vũ Đức Thứ
1985-1988 Nguyễn Văn Xuyên
1981-1985 Phạm Tiến
1965-1981 Lê Văn Hạp
1964-1965 Trần Đức Dực
1962-1964 Nguyễn Văn Chiển
1948-1962 Đào Văn Định
1947-1948 Phó Đức Tố

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://mix166.vn
Category: Giáo Dục

Xổ số miền Bắc