Một số bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để huy động vốn trong bối cảnh phục hồi và phát triển hậu Covid-19


Trong những năm vừa qua, lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp 48% vào GDP cả nước và tạo ra 50% số lượng việc làm của toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn một số hạn chế nhất định như: trình độ công nghệ lạc hậu, mô hình quản trị doanh nghiệp còn yếu, năng suất lao động thấp, kém minh bạch về thông tin,… Những nhược điểm này phần nào đã hạn chế khả năng tiếp cận những nguồn vốn trên thị trường tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa như: phát hành chứng khoán, tìm kiếm nguồn vốn từ đối tác chiến lược, thu hút vốn từ các quỹ đầu tư…
Theo số liệu thống kê, kênh tín dụng ngân hàng hiện vẫn là kênh cung ứng vốn chủ yếu, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu đầu tư mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này, một mặt, sẽ gây cản trở cho quá trình phát triển bền vững của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, mặt khác, cũng gây ra những áp lực về thanh khoản cho hệ thống các tổ chức tín dụng. Vì vậy, trong bài viết này, tác giả tiến hành nghiên cứu thực trạng các kênh huy động vốn tại Việt Nam trong thời gian qua để từ đó đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn khác trên thị trường tài chính cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thời gian sắp tới.

1. Thực trạng các kênh huy động vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
Một cách khái quát, vốn cung ứng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường được huy động thông qua hai kênh chủ yếu, đó là (1) thông qua hệ thống các các tổ chức tín dụng và (2) thông qua thị trường tài chính bằng cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng. Tại các nền kinh tế phát triển, hệ thống tổ chức tín dụng sẽ đảm nhận vai trò cung ứng vốn ngắn hạn, trong khi đó, thị trường tài chính sẽ đảm nhận vai trò chủ đạo trong việc đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê, hiện nay, tại Việt Nam, vai trò huy động vốn cho nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào hệ thống các tổ chức tín dụng là chính.
Số liệu từ Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia (biểu đồ 1) cho thấy, mặc dù tỷ trọng cung ứng vốn cho nền kinh tế thông qua kênh thị trường tài chính đã tăng từ 21,6% trong năm 2012 lên mức 36,9% vào cuối năm 2018, tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn còn thấp nếu so với tỷ trọng cung ứng vốn cho nền kinh tế từ các tổ chức tín dụng. Cụ thể, đến hết năm 2018, tỷ lệ cung ứng vốn từ các tổ chức tín dụng đạt mức 63,1%, và số liệu này phản ánh thực trạng lệ thuộc vào nguồn vốn vay tổ chức tín dụng của phần lớn các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng.
Biểu đồ 3 so sánh mức độ đóng góp nguồn vốn vào quá trình tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 2012 – 2018. Trong giai đoạn này, dư nợ tín dụng từ hệ thống các TCTD đã đóng góp tích cực nhất vào sự tăng trưởng GDP của Việt Nam xét cả trên khía cạnh giá trị tuyệt đối lẫn tỷ lệ % so với GDP. Vào năm 2012, tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP chỉ tương đương mức 95% nhưng tỷ lệ này đều tăng qua các năm và đạt mức 130% GDP vào năm 2018. Trong khi đó, giá trị chứng khoán niêm yết và giá trị vốn hoá thị trường cho đến cuối năm 2018 cũng chỉ lần lượt chiếm 22% GDP và 72% GDP.
Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung vẫn còn lệ thuộc vào sự tăng trưởng tín dụng hàng năm của hệ thống tổ chức tín dụng để phát triển kinh doanh. Tuy nhiên, sự lệ thuộc này cũng có những mặt trái nhất định đối với nền kinh tế như: (1) gây áp lực thanh khoản cho hệ thống tổ chức tín dụng do hệ thống tổ chức tín dụng phải gánh vác trọng trách cung ứng vốn vay trung và dài hạn thay cho thị trường chứng khoán; (2) gây áp lực lạm phát khi sự phát triển kinh tế phải dựa nhiều vào tăng trưởng dư nợ tín dụng của các tổ chức tín dụng. Vì vậy, việc tìm ra những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của các kênh huy động vốn khác cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm san sẻ bớt gánh nặng cho hệ thống tổ chức tín dụng là việc làm cần thiết, khách quan để hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế bền vững.
2. Nguyên nhân hạn chế khả năng tiếp cận các kênh huy động vốn từ thị trường tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa
2.1. Những yếu tố thuộc về nội tại của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Thứ nhất, đó là mức độ minh bạch thông tin của doanh nghiệp nhỏ và vừa là không đáp ứng được kỳ vọng của các nhà đầu tư trên thị trường tài chính. Một trong những điều kiện cần thiết, quan trọng nhất đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa để những doanh nghiệp này có thể tiếp cận các kênh huy động vốn, kể cả vay tổ chức tín dụng cũng như phát hành chứng khoán huy động vốn, chính là mức độ minh bạch thông tin của doanh nghiệp. Hiện nay không phải cứ là doanh nghiệp nhỏ và vừa là khó vay vốn ngân hàng thương mại. Trên thực tế, những doanh nghiệp nhỏ và vừa mà chứng minh được năng lực tài chính, có phương án kinh doanh hiệu quả khả thi, minh bạch thông tin đều có thể dễ dàng vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Ngược lại, những doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa tạo được niềm tin nơi các tổ chức tín dụng mới gặp khó khăn khi vay vốn, bởi lẽ các tổ chức tín dụng cũng có những chuẩn mực cho vay riêng nhằm thực hiện công tác quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay của mình. Do đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cần phải nhanh chóng thay đổi mô hình quản trị theo hướng minh bạch hoá, tự nguyện công bố thông tin doanh nghiệp, tự nguyện kiểm toán báo cáo tài chính định kỳ để nâng cao uy tín của mình với các tổ chức tín dụng, với các nhà đầu tư trên thị trường tài chính, từ đó có thể tiến hành nhiều hình thức huy động vốn khác nhau cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ hai, tuy các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có những bước phát triển mạnh trong thời gian vừa qua, nhưng nhìn chung, trình độ phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là còn thấp. Do hạn chế về quy mô và nguồn vốn, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn áp dụng công nghệ lạc hậu, trình độ quản trị kém, năng suất lao động thấp, chưa chú trọng đến công tác xây dựng thương hiệu, không quan tâm đến công tác truyền thông và quan hệ với các nhà đầu tư chứng khoán, chưa chú trọng đến công tác đa dạng hoá các nguồn vốn kinh doanh… Những yếu tố trên đã cộng hưởng và làm hạn chế cho năng lực cạnh tranh, khiến các doanh nghiệp nhỏ và vừa ít nhận được sự quan tâm đầu tư của các nhà đầu tư chứng khoán.
2.2. Những yếu tố thuộc về cấu trúc và trình độ phát triển của thị trường tài chính Việt Nam
Thứ nhất, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa phát triển. Thị trường nợ của Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là kênh tín dụng ngân hàng truyền thống, trong khi đó, một thị trường nợ quan trọng khác, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, là chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Từ năm 2015 đến 2018, số lượng trái phiếu doanh nghiệp được phát hành và niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh chỉ tăng khiêm tốn từ 6 đến 26 loại trái phiếu doanh nghiệp và chủ yếu chỉ tập trung được phát hành bởi các doanh nghiệp lớn đang niêm yết. Nếu tính theo giá trị niêm yết, tính đến hết 2018, giá trị trái phiếu doanh nghiệp niêm yết chỉ đạt mức 32.671 tỷ VND, tức chỉ tương đương 0,45% tổng dư nợ cấp tín dụng toàn hệ thống tổ chức tín dụng. Điều này cho thấy hầu như các doanh nghiệp nhỏ và vừa không thể tiếp cận được nguồn vốn trung dài hạn thông qua việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Một số lý do có thể giải thích cho sự kém phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp có thể kể đến như sau: (1) vấn đề về minh bạch thông tin của doanh nghiệp nhỏ và vừa như đã phân tích; (2) các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam chưa đáp ứng được những điều kiện về phát hành và niêm yết trái phiếu theo quy định pháp luật và (3) sự thiếu vắng của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập trên thị trường tài chính Việt Nam.
Thứ hai, sự kém phát triển của các định chế tài chính trung gian phi ngân hàng. Kinh nghiệm tại các thị trường phát triển trên thế giới cho thấy, để phát huy tối đa vai trò huy động vốn của thị trường tài chính thì hệ thống các định chế tài chính phải hoàn thiện và phát triển đa dạng để làm cầu nối giữa bên cung vốn – những nhà đầu tư có vốn nhà rỗi và bên cầu vốn – tức các doanh nghiệp cần vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh. Một hệ thống các định chế tài chính phát triển hoàn thiện phải bao gồm: hệ thống các ngân hàng thương mại, hệ thống các định chế tài chính phi ngân hàng như: Ngân hàng đầu tư, công ty chứng khoán, các loại hình quỹ hưu trí, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư khởi nghiệp,… Liên hệ thực tế tại Việt Nam thì hiện chỉ có hệ thống các tổ chức tín dụng là đang làm tốt vai trò huy động vốn của mình. Trong khi đó, các loại hình định chế tài chính trung gian khác còn phát triển chậm, phạm vi và quy mô hoạt động vẫn còn nhỏ và chủ yếu chỉ tập trung vào các doanh nghiệp lớn đang niêm yết. Điều này phần nào cũng ảnh hưởng đến khả năng đa dạng hoá các kênh huy động vốn của phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ ba, sự đa dạng và quy mô vốn của các nhà đầu tư tổ chức tại Việt Nam là còn thấp. Các nhà đầu tư tổ chức, mà cụ thể là những loại hình quỹ đầu tư, thường phát triển rất mạnh, kể cả về chủng loại và quy mô vốn, tại các quốc gia phát triển. Đây là lực lượng rất quan trọng góp phần thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ các nhà đầu tư nhỏ lẻ, các nhà đầu tư không chuyên nghiệp, và từ nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội. Quá trình này sẽ tạo vốn cho các quỹ đầu tư, những nhà đầu tư chuyên nghiệp, tiến hành hoạt đầu tư cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa – nơi có dư địa tăng trưởng rất cao trong nền kinh tế tại các quốc gia. Tuy nhiên, dữ liệu tại Việt Nam cho thấy số lượng, chủng loại và quy mô vốn hoạt động của các quỹ đầu tư hiện vẫn còn rất khiêm tốn. Tính đến cuối tháng 2/2019, hiện cả thị trường chứng khoán Việt Nam mới chỉ có 41 quỹ đầu tư đang hoạt động với quy mô giá trị tài sản ròng NAV là 24.399 tỷ đồng, một con số khá kiêm tốn so với mức vốn hoá của thị trường chứng khoán Việt Nam và so với tổng dư nợ tín dụng của toàn hệ thống tổ chức tín dụng.
3. Một số giải pháp nhằm đa dạng hoá các kênh huy động vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Đại dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng trên khắp toàn cầu, tác động mạnh mẽ và làm suy thoái nền kinh tế thế thế giới. Không ngoại lệ, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều tổn thất nặng nề trên nhiều phương diện, nhất là khu vực DN. Nhằm giúp DN Việt Nam tiếp cận hiệu quả các kênh dẫn vốn, đầu tư phát triển SXKD, cần phải có sự chung tay vào cuộc của nhiều bên để đạt được mục tiêu hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cụ thể:
Thứ nhất, đối với các cơ quan quản lý
Để ứng phó với tác động của đại dịch Covid-19, các doanh nghiệp Việt Nam đang có xu hướng tiếp cận các kênh huy động vốn phi ngân hàng như: thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu và kể cả các kênh phi truyền thống khác như huy động vốn cộng đồng, huy động vốn bằng hình thức thuê tài chính, huy động từ tín dụng thương mại… Trong đó, hình thức gọi vốn cộng đồng hay gọi vốn thông qua tiền mã hóa ngày càng trở nên phổ biến và đa dạng về hình thức. Do vậy, các cơ quan quản lý cần xây dựng các chính sách vĩ mô hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận hiệu quả các nguồn vốn trên. Theo đó, cần có lộ trình, giải pháp khuyến khích đồng bộ các thị trường tài chính, đa dạng hóa các kênh huy động vốn trong nên kinh tế; Hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính trong điều hành lãi suất, để đảm bảo lãi suất trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường…
Cùng với đó, ngân hàng nhà nước tiếp tục cung ứng vốn qua nghiệp vụ thị trường mở và nghiệp vụ tái cấp vốn để hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại, điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt để điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu nhằm tạo điều kiện tối đa để doanh nghiệp có thể tiếp cận được vốn vay.
Thứ hai, đối với các tổ chức tín dụng
Các tổ chức tín dụng tiếp tục xây dựng chính sách tín dụng phù hợp đối với từng loại hình doanh nghiệp. Đồng thời, nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay của doanh nghiệp sau khi giải ngân; Tăng cường quản lý rủi ro, quản lý nợ xấu… Đồng thời, phân tích và đánh giá chính xác mức sinh lời của doanh nghiệp để từ đó xác định mức lãi suất cho vay hợp lý, đảm bảo đôi bên cùng phát triển.
Các tổ chức tín dụng cần nâng cao khả năng dự báo và thực hiện tốt vai trò tư vấn về lãi suất cho vay đối với khách hàng để giúp doanh nghiệp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Đồng thời, thường xuyên và kịp thời thực hiện các chính sách ưu đãi, chia sẻ khó khăn về lãi suất với các khách hàng. Xem xét, đẩy mạnh việc cho vay thông qua tín chấp, đánh giá hiệu quả và lợi nhuận của các dự án đầu tư để cấp vốn cho các doanh nghiệp. Chủ động đánh giá lại các khoản nợ, gia hạn nợ, đáo nợ, cùng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, phục hồi sản xuất. Cơ cấu lại nợ, giãn nợ, ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp chứng minh được các nguồn thu để trả nợ ngân hàng; Phát triển hình thức thuê tài chính để giúp doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới công nghệ…
Thứ ba, đối với Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa
Một là, cần tích cực tuyên truyền và nâng cao nhận thức về việc minh bạch thông tin cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cần thường xuyên thực hiện các giải pháp nhằm khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa từng bước công bố thông tin, áp dụng mô hình quản trị của các công ty đại chúng. Vấn đề minh bạch thông tin được cải thiện sẽ là tiền đề quan trọng giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa từng bước tiếp cận với thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong tương lai.
 Hai là, thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, các lớp đào tạo chuyên môn về thị trường tài chính để giới thiệu về vai trò, lợi ích, cách thức khai thác các kênh huy động vốn khác trên thị trường tài chính, qua đó giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng.
Thứ tư, đối với các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp sớm hoàn thiện cơ chế quản lý, kế hoạch kinh doanh, tài chính, đầu tư công nghệ, nâng cao trình độ quản lý để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm; Lựa chọn các phương án kinh doanh hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh chủ chốt, có thế mạnh, có khả năng tạo ra dòng tiền bền vững không đầu tư dàn trải, mạo hiểm; Thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán cho doanh nghiệp.
Đặc biệt, các doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến công tác phân tích, lập kế hoạch, chiến lược kinh doanh, tăng cường quản lý tài chính… vừa chủ động tìm kiếm, nắm bắt, hiện thực hóa cơ hội, đồng thời củng cố các điều kiện để tiếp cận các nguồn vốn vay.
Đồng thời, các doanh nghiệp cần đổi mới hệ thống quản trị nội bộ. Minh bạch vấn đề tài chính để sử dụng hiệu quản nguồn lực, giảm thiểu chi phí, rủi ro cho cả doanh nghiệp và ngân hàng, tạo lòng tin trên thị trường… Chủ động trong việc xây dựng dự án, phương thức đầu tư phù hợp với năng lực về vốn, công nghệ và con người. Tích cực tham gia các hiệp hội doanh nghiệp để tiếp cận thông tin về các chính sách, chương trình hỗ trợ đối với doanh nghiệp của Chính phủ, Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng./.