MỘT SỐ BIỆN PHÁP LÀM TỐT CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM – Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt
Là người giáo viên dạy Tiểu học, không những truyền đạt cho học sinh về nội dung kiến thức các môn học, mà còn phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên không chỉ có trình độ chuyên môn mà còn phải biết tổ chức, quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục.
LỜI GIỚI THIỆU
Là người giáo viên dạy Tiểu học, không những truyền đạt cho học sinh về nội dung kiến thức các môn học, mà còn phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên không chỉ có trình độ chuyên môn mà còn phải biết tổ chức, quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục, đó là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của người giáo viên. Muốn giáo dục cho một đứa trẻ được hoàn thiện quả không đơn giản, người giáo viên phải bao quát tất cả các kĩ năng, kiến thức, nội dung lẫn phương pháp khi đứng trên bục giảng. Để nhận thấy được tầm quan trọng đó, bản thân tôi luôn cần phải trang bị cho mình một số biện pháp, phương pháp và linh hoạt xử lí mọi tình huống diễn ra trong quá trình giảng dạy. Tôi đã 13 năm làm công tác chủ nhiệm và đặc biệt là 11 năm được chủ nhiệm lớp 4, tôi đúc rút cho mình một số biện pháp về làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4. Năm nay tôi mạnh dạn viết Sáng kiến kinh nghiệm, với đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4” giới thiệu cùng với bạn bè đồng nghiệp gần, xa. Góp một phần nhỏ vào công tác chủ nhiệm học sinh Tiểu học nói chung và chủ nhiệm lớp 4 nói riêng, nhằm đưa ra một số biện pháp tốt nhất để giáo dục học sinh nói chung và mỗi học sinh mình chủ nhiệm nói riêng một cách hoàn thiện nhất. Rất mong được sự quan tâm, giúp đỡ, góp ý chân thành từ quý cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn!A – PHẦN MỞ ĐẦU
I – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đất nước ta đang trong thời kì phát triển và hội nhập với các nước trên thế giới, nhất là phát triển kinh tế trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, thì ngành giáo dục là ngành đầu tiên khai trương mở lối. Vì vậy, ngành giáo dục chúng ta luôn chú trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Trong những năm gần đây, bản thân tôi nhận thấy rằng đạo đức, lối sống bị suy thoái ngày một gia tăng, lứa tuổi vị thành niên vi phạm Pháp luật rất nhiều. Trong nhà trường phổ thông nói chung và Tiểu học nói riêng, các em còn rất nhỏ, vốn hiểu biết chưa nhiều, các em như “Tờ giấy trắng” viết như thế nào thì nó in đậm, in sâu khó xóa mờ. Các em rất thơ ngây, hiếu động, dễ bị dụ dỗ, nghe theo. Mặt khác trong học tập có một số em còn ham chơi, ít chú ý, học hay quên, ý thức tự giác chưa cao. Xét thấy nhiệm vụ của mình cũng rất lớn trong việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách cho mỗi con người trong xã hội, bắt đầu là những em học sinh mà mình đang chủ nhiệm. Hằng ngày, hằng giờ đau đáu, trăn trở, làm thế nào để có kết quả tốt nhất cho việc hoàn thiện một đứa trẻ, trở thành một người công dân tốt của gia đình và xã hội? Xuất phát từ những lý do trên, mà bao nhiêu năm làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn tìm cho mình những biện pháp tối ưu nhất để áp dụng vào công tác chủ nhiệm của mình sao cho đạt được kết quả như mong muốn, sao cho từng “Mầm non của đất nước” phát triển tươi tốt, đơm hoa kết trái cho đời. Đó cũng là lý do tôi chọn viết Sáng kiến kinh nghiệm, đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4”
II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI.
1- Mục tiêu:
– Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân học sinh còn hạn chế về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống.
– Đề xuất “Một số biện pháp về làm tốt công tác chủ nhiệm” để giúp các em học sinh trở thành một người có năng lực, có phẩm chất đạo đức, lối sống chuẩn mực, nhân cách tốt trong xã hội.
2- Nhiệm vụ: Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên tôi chỉ hướng tới giải quyết các nhiệm vụ sau:
– Tìm hiểu nguyên nhân học sinh còn hạn chế về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống.
– Từ thực trạng và kết quả nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc làm công tác chủ nhiệm lớp 4 của giáo viên trong quá trình dạy- học trên lớp.
– Đề xuất một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm, nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng về mọi mặt của lớp mình chủ nhiệm.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU.
1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu đề tài này là một số biện pháp, mức độ hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống của từng đối tượng học sinh trong tập thể lớp 4B trường TH Lý Thường Kiệt.
2. Khách thể nghiên cứu:
Đề tài này tôi tiến hành nghiên cứu 22 em học sinh lớp 4B, trường TH Lý Thường Kiệt – Huyện CưMgar – Tỉnh DăkLăk.
IV. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
– Phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống. Cụ thể là 22 em học sinh lớp 4B tôi chủ nhiệm. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống là do nhận thức, ý thức tự giác, giao tiếp còn kém và những đề xuất nhằm hoàn thiện năng lực, phẩm chất, nhân cách đạo đức chuẩn mực của từng học sinh lớp 4B trường TH Lý Thường Kiệt – Huyện CưMgar.
– Rút ra bài học kinh nghiệm cùng với kết quả nghiên cứu của đề tài.
– Thời gian thực hiện nghiên cứu và áp dụng từ đầu tháng 8/2015 đến cuối tháng 3/2016.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
– Phương pháp quan sát
– Phương pháp điều tra, trò chuyện.
– Phương pháp nêu gương.
– Phương pháp tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh TH.
– Phương pháp phân tích, tổng hợp, xử lý số liệu.
– Phương pháp đọc sách tham khảo và tài liệu.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Lý luận khoa học:
Trong lịch sử nhân loại, giáo dục đã không ngừng phát triển và là động lực để phát triển kinh tế xã hội; giáo dục đã phục vụ đắc lực cho xã hội, kịp thời điều chỉnh qui mô, thích ứng nhanh với những yêu cầu biến đổi nguồn nhân lực. Ngược lại, sự phát triển nhanh của kinh tế xã hội, của khoa học kỹ thuật cũng đã tác động trở lại để phát triển giáo dục. Hiện nay các nước phát triển, cũng như các nước đang phát triển đều quan tâm cải cách giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập hóa, quốc tế hóa. Đây là thời cơ và cũng là thách thức đối với quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam). Một mặt nó tạo ra cơ hội cho giáo dục phát triển do nhu cầu về nguồn nhân lực có trí tuệ ngày càng tăng. Mặt khác, kinh tế đòi hỏi giáo dục đáp ứng nhu cầu trước mắt và đón đầu, định hướng đúng cho tương lai. Một ngôi nhà vững chắc thì cần có một nền móng vững chắc. Bởi thế ngay từ trường Tiểu học, học sinh phải được học đầy đủ các môn học để phát triển toàn diện. Ngoài việc lĩnh hội các kiến thức môn học, các em còn cần được trang bị cho mình nhiều kĩ năng khác như: giao tiếp, kĩ năng sống, xử lý tình huống, biết phân biệt đúng sai,…thì mới tạo tiền đề cho các em bước tiếp lên các cấp học cao hơn, tiến đến hoàn thiện nhân cách cho các em sau này.
2. Lý luận thực tiễn:
Là người giáo viên dạy Tiểu học, hầu như chịu hoàn toàn trách nhiệm về lớp mình phụ trách, trực tiếp giảng dạy các môn học, đồng thời tổ chức, hướng dẫn tất cả các hoạt động giáo dục. Trong những giờ tới trường giáo viên chủ nhiệm lúc nào cũng ở cạnh các em, là người “mẹ thứ hai” của các em, luôn gần gũi, dõi theo mọi hành động, hành vi của từng em trong lớp. Học sinh tiểu học còn chưa biết hành động độc lập, giáo viên phải là người tổ chức các hoạt động, làm sao cho từng em học sinh có được công việc thích hợp và bộc lộ được khả năng của mình. Mở rộng và khơi sâu trí thức, rèn luyện kĩ năng, giáo dục ý thức tự giác và ứng xử, thỏa mãn nhu cầu, kích thích sự hứng thú, phát triển năng lực của học sinh. Trong mắt các em, giáo viên chủ nhiệm là “Thần tượng”, là người mà các em tin tưởng tuyệt đối nhất, cô giáo nói gì các em cũng nghe, vâng lời cô giáo là cái duy nhất có ở tất cả các em học sinh. Chính vì thế mà người giáo viên chủ nhiệm phải chú trọng từng lời nói, hành động, việc làm chuẩn mực nhất trước học sinh, là tấm gương sáng để các em noi theo. Qua công tác chủ nhiệm, người giáo viên tiểu học góp phần to lớn trong việc hình thành và phát triển toàn diện cho các em, giúp các em trở thành người có ích cho xã hội, gia đình và bản thân, để các em trưởng thành, lớn lên, vững vàng bước vào đời.
II. THỰC TRẠNG:
1.Thuận lợi, khó khăn:
1.1. Thuận lợi:
– Năm học 2015-2016 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4B. Với tổng số: 22; nữ: 14; Dân tộc: 1; Khuyết tật:1. Số lượng học sinh không đông, dân tộc chiếm ít, việc quản lý, giáo dục các em tương đối thuận lợi.
– Lớp được học 2 buổi/ngày, Toán được ôn tập 3 tiết/tuần, tiếng Việt 2 tiết/tuần. Nên có thời gian ổn định để kèm cặp các em yếu.
– Các em phần đông được gia đình quan tâm, trang bị tương đối đầy đủ về trang phục, đồ dùng học tập, sách giáo khoa,….
– Mặt khác phòng học khang trang, thoáng mát, cơ sở vật chất đầy đủ.
– Hầu hết các em đều cố gắng học tập, biết vâng lời, lễ phép với cô giáo.
1.2. Khó khăn:
– Địa bàn thuần nông, thời gian đi làm là nhiều, ít có thời gian dành cho sự dạy dỗ, chỉ bảo cho con cái.
– Lớp có 3 em thuộc hộ cận nghèo và một số em gia đình kinh tế còn khó khăn nên ảnh hưởng đến cuộc sống của các em, sự chăm lo về mọi mặt không được đầy đủ, chu đáo. Có 6 em nhà ở xa trường, việc đi lại tốn nhiều thời gian, đi suốt đoạn đường xa, mệt mỏi nên ảnh hưởng tới sức khỏe khi các em đến lớp.
– Mặt khác trí tuệ các em không đồng đều, khả năng nhận thức (tiếp thu) cũng không đồng đều. Có một số em không chú ý, không có thái độ tích cực học, mà đến lớp như một thói quen, với thái độ lơ đễnh. Khi cô giáo giảng xong, hỏi lại là không biết gì, chính vì vậy những em đó thường hay tự ti, mặc cảm, sợ sệt, nhút nhát, chưa biết thể hiện mình.
– Đa số vốn giao tiếp của các em rất hạn chế, lời nói chưa được to, rõ ràng, hay có kiểu nói rất nhỏ, nói lắp bắp, không thể nghe được.
* Điều tra thực trạng
Tiến hành nghiên cứu tìm hiểu về quá trình tiếp thu bài, học bài và những hành vi ứng xử, giao tiếp, kĩ năng sống, sự hiểu biết,…trong lớp học của 22 em học sinh lớp 4B, trường Tiểu học Lý Thường Kiệt.
Vào đầu năm, qua tìm hiểu, trao đổi, kiểm tra về tình hình chung của tất cả các em học sinh trong lớp, tôi nhận thấy: Lớp có một số em chưa tự giác học tập, trong giờ học còn lơ là, ít chú ý, tiếp thu chậm, tự ti, mặc cảm, trầm tính, không năng động,…; Một số em còn mang tính là quậy phá, hay chọc bạn, đánh bạn; Một số em chưa thực sự ngoan, nói năng còn trống không, chưa lễ phép; Rất nhiều em viết chữ còn sai lỗi nhiều, chưa đẹp; Trang phục chưa mua sắm đầy đủ;… Đó là thực trạng mà bản thân tôi luôn lo lắng, băn khoăn khi làm công tác chủ nhiệm lớp 4B trong năm học này. Do thực hiện áp dụng đề tài, nên sau hai tuần đầu năm học, qua trao đổi, tìm hiểu, tôi hướng tới một vài số liệu có nội dung chủ yếu sau:
Tổng số HS
Nội dung tìm hiểu
Số lượng
Tỉ lệ
22
(1 KT)
1) Học sinh chưa tự giác học bài cũ.
2) Học sinh viết chữ sai lỗi nhiều, chưa đẹp.
3) Học sinh học chưa chú ý, tiếp thu chậm.
4) Học sinh nói trống không, chưa lễ phép.
5) Học sinh còn quậy phá, chọc bạn, đánh bạn.
6) Học sinh cá biệt.
7) Học sinh chưa có trang phục đầy đủ.
8) Học sinh còn trầm, tự ti, rụt rè.
9) Học sinh có vốn kĩ năng sống hạn chế.
10) Học sinh hay quên vở, sách, đồ dùng,…
10
7
8
12
5
2
4
6
9
7
47,6
33,3
38,0
57,1
23,8
9,5
19,0
28,5
42,9
33,3
Kết quả trên cho thấy, tỉ lệ học sinh thuộc các nội dung trên chiếm nhiều so với tổng số học sinh của lớp.
2. Thành công- hạn chế
2.1. Thành công: Khi có ý tưởng và thực hiện đề tài này, tôi thấy đối với đối tượng học sinh của lớp 4B sẽ có hiệu quả cao hơn, dựa vào những thuận lợi trên và sự quan tâm của giáo viên cũng như một số biện pháp, giải pháp và xử lý linh hoạt phù hợp với đối tượng của học sinh, nắm bắt được tâm sinh lý của học sinh. Chắc chắn cuối năm, lớp sẽ đạt kết quả cao trong học tập, các em sẽ ngoan, đi vào nề nếp tốt, bước lên các lớp tiếp theo, sẽ đem lại thành công như mong muốn.
2.2. Hạn chế: Trong quá trình dạy học trên lớp, hằng ngày cô trực tiếp tổ chức và hướng dẫn các em về mọi mặt tôi thấy một số em khả năng giao tiếp kém, tiếp thu bài còn chậm, có thái độ thờ ơ. Các em chưa tự tin, mạnh dạn trong tŕnh bày ư kiến của ḿnh. Ngược lại trốn tránh, mặc cảm, nhút nhát, sợ sệt. Cha mẹ các em hay đi làm trên nương rẫy, nên có việc gì muốn gặp để trao đổi, liên lạc sẽ không được kịp thời. Một số hạn chế trên, tôi cảm thấy việc áp dụng đề tài cũng gặp ít, nhiều hạn chế.
3. Mặt mạnh, mặt yếu của vấn đề.
3.1. Mặt mạnh:
Tôi là một giáo viên đã làm công tác chủ nhiệm liên tục 13 năm, chủ nhiệm lớp 4 được 11 năm, do đó tôi cũng có nhiều cơ hội trau dồi, học hỏi, để đúc rút kinh nghiệm, nhiều biện pháp tốt trong công tác chủ nhiệm của mình.
Ngay từ đầu năm tôi đã nhận thấy đa số các em học sinh của lớp ngoan, vâng lời luôn có sự phấn đấu. Khi các em phạm lỗi sai là biết nhận lỗi và sửa lỗi ngay. Các em biết lắng nghe, chia sẻ, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè trong lớp và trong trường. Các em ham học, muốn tiến bộ, muốn cô chỉ bảo, làm mẫu. Rất thích thú khi làm được điều đúng, được cô giáo khen.
Bản thân luôn được các em yêu quý, kính trọng, vâng lời. Cô phân công, giao việc các em đều nghe và chấp hành tốt. Mặt khác được cha mẹ các em tin tưởng, sẵn sàng hỗ trợ, kết hợp chặt chẽ với cô để giáo dục con em họ, tạo điều kiện tốt nhất để giúp đỡ cô trong công tác chủ nhiệm lớp.
3.2. Mặt yếu:
– Một số em ham chơi, không chăm học, không tích cực, không biết, không hiểu là các em càng không chịu học, không để ý gì đến những lời giảng giải phân tích của cô.
– Một số em tâm trạng không được tốt, vốn giao tiếp không có, năng lực hạn chế, sức khỏe không đảm bảo, thể trạng gầy, nhỏ so với các bạn đồng trang lứa.
– Gia đình các em đa số đi làm về, là nghỉ ngơi một lúc rồi đi ngủ, không còn thời gian bảo ban các em xem ti vi, đọc báo, đọc sách,…để mở rộng tầm hiểu biết, tầm nhìn.
4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Từ thực trạng mà học sinh còn hạn chế về sự tiếp thu bài, ít học bài, ít chú ý trong giờ học. Kĩ năng sống, hành vi ứng xử, giao tiếp còn hạn chế,… là do các nguyên nhân, các yếu tố tác động sau:
4.1. Về tâm sinh lí: Với lứa tuổi lớp 4, các em đang chuẩn bị bước sang tuổi dậy thì, nên có sự thay đổi về thể chất lẫn tâm sinh lý,…Các em mới vừa bước lên lớp 4, có những thay đổi về môn học, kiến thức, các hoạt động khác cũng được nâng cao, dẫn đến các em cũng có phần lo sợ, hoang mang. Mặt khác kiến thức lớp dưới các em học xong rồi quên, không nắm chắc để áp dụng, có nhiều em không còn nhớ một nội dung gì ở dưới lớp 1,2,3 mà mình đã học. Một số em hiếu động, hay bắt nạt bạn, chọc bạn, ít chịu ngồi im. Ở lứa tuổi các em đa số là ham chơi, ít chú ý, thói quen là để cô cùng các bạn giải quyết vấn đề xong, rồi có sẵn để ghi vào. Cách giao tiếp bằng ngôn ngữ của các em chưa hoàn chỉnh, nói năng còn cộc lốc. Việc thực hiện đi vào nề nếp các em vẫn chưa coi trọng, cứ làm những gì mình thích, không quan tâm gì đến nội quy của trường, lớp.
4.2. Về hoàn cảnh gia đình của học sinh:
Hầu hết học sinh của lớp tôi chủ nhiệm sống trong môi trường là vùng nông thôn, nên suy nghĩ và nhận thức của các em còn hạn hẹp. Điều kiện học ở nhà của các em còn thiếu thốn: Thiếu sự hướng dẫn bảo ban của cha mẹ, vì phần lớn cha mẹ các em trình độ còn thấp, chỉ biết việc trên nương rẫy, ít có thời gian giáo dục, dạy dỗ con cái hay đôn đốc việc học hành của con; Thiếu thốn về vật chất, góc học tập chưa phù hợp hoặc có em không có. Có em, mẹ bị mất, sống với bố, nên bị thiệt thòi rất nhiều về tình cảm, tinh thần và sự chăm sóc.
Cha mẹ các em chưa chú trọng đến việc rèn cho con mình nói năng, xưng hô như thế nào cho lễ phép, cho lịch sự. Con cái giao tiếp với ông bà, cha mẹ, anh chị em của mình đa số trả lời cụt ngủn chưa thành câu, lâu dần thành thói quen.
4.3. Về phía giáo viên: Về phía giáo viên thì chưa nắm bắt được tâm lý của học sinh, khi hỏi các em điều gì là yêu cầu các em trả lời được, mà các em không có khả năng hình dung, suy nghĩ như mình mong muốn, cứ đặt ra những câu hỏi khuôn mẫu, áp đặt học sinh yêu cầu học sinh phải trả lời theo ý của mình. Phương pháp truyền thụ chưa phù hợp. Đôi khi các em trả lời chưa đúng thì bỏ qua, gọi em khác trả lời là xong, chưa thực sự quan tâm đến việc tại sao các em trả lời chưa đúng ? Chưa đặt những câu hỏi để phát huy tính tự giác tích cực của học sinh. Đôi khi giáo viên chưa thực sự gần gũi, thân mật với các em, nên các em phần thì sợ, phần thì chây lì. Kiến thức lớp 4 thì hơi nặng và nhiều, nên việc truyền thụ cho các em chiếm hết thời gian, dẫn đến không còn thời gian dành cho các em. Vì vậy mà đôi khi việc xử lý một số tình huống chưa kịp thời, học sinh phạm lỗi thì cho qua, chưa có sự bảo ban tỉ mỉ.
III. CÁC GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP:
1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Bản thân tôi cảm thấy công tác chủ nhiệm vô cùng nan giải. Nó có vai trò quan trọng trong việc giáo dục và đào tạo một em học sinh ở lứa tuổi tiểu học, là nền móng để cho các em lớn lên và trưởng thành, là một người có năng lực và phẩm chất đạo đức chuẩn mực. Vì vậy mục đích các biện pháp, giải pháp của đề tài này là muốn nâng cao chất lượng học tập, rèn ý thức tự giác, tự quản, rèn các kĩ năng sống, giáo dục nhân cách, phẩm chất đạo đức cho các em học sinh tiểu học nói chung và các em học sinh của lớp mình đang chủ nhiệm nói riêng. Sao cho cuối năm đạt kết quả cao trong mọi lĩnh vực.
2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
2.1. Nội dung: Các biện pháp, giải pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm thì rất nhiều và đa dạng, nhưng bản thân tôi xin được đúc kết lại với các nội dung chính, quan trọng nhất, cụ thể như sau:
– Triển khai công tác xây dựng nề nếp đầu năm.
– Xây dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực”
– Một số phương pháp giúp các em học tốt ở lớp và ở nhà.
– Phối kết hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu, Đội và các giáo viên bộ môn.
2.2. Cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
2.2.1. Triển khai công tác xây dựng nề nếp đầu năm: Công tác xây dựng nề nếp lớp học là nhiệm vụ hàng đầu của một giáo viên chủ nhiệm, muốn làm tốt công tác chủ nhiệm, người giáo viên cần phải đưa tập thể lớp đi vào nề nếp ngay từ đầu năm, thì lớp học đó mới đạt được nhiều thành tích trong suốt năm học. Để làm tốt công tác xây dựng nề nếp của lớp, tôi hướng tới thực hiện những việc làm sau:
a) Nắm thông tin học sinh: Việc nắm các thông tin của học sinh đầu năm là rất cần thiết. Có được thông tin học sinh giúp cho giáo viên chủ nhiệm phục vụ cho việc ghi chép hồ sơ giáo viên, nắm được hoàn cảnh gia đình, lực học của năm trước, việc liên lạc với gia đình các em,…Vì thế ngay từ đầu năm, tôi đã làm Phiếu ghi thông tin học sinh, phát cho từng em, hướng dẫn các em ghi đầy đủ, rõ ràng, sau đó thu lại để phục vụ cho công tác chủ nhiệm lớp của mình. Mẫu phiếu như sau:
PHIẾU GHI THÔNG TIN HỌC SINH
1) Họ và tên:…………………………… Dân tộc:…………………………………..
2) Ngày tháng năm sinh:…………………………………………………………
3) Nơi sinh:…………………………. Quê quán:………………………………..
4) Địa chỉ: Số nhà:….Đội:…Thôn:…Xã:………Huyện:………………………..
(Số điện thoại gia đình:…………………………)
5) Họ và tên bố:………………….Năm sinh:…….Nghề nghiệp:………………..
Họ và tên mẹ:……………… …Năm sinh:…….Nghề nghiệp:……………….
6) Sống với: Bố + mẹ: o ;Bố: o ; Mẹ: o ; Ông, bà: o ;Người đỡ đầu: o
7) Hoàn cảnh gia đình: (khá giả, đủ ăn, cận nghèo, nghèo):…………………….
8) Kết quả học tập cuối lớp 3: (HT, TH tốt, HT xuất sắc):………………………
9) Những môn học yêu thích:……………………………………………………
10) Góc học tập riêng ở nhà: (Có, không, học chung):………………………….
11) Sở thích (Năng khiếu):……………………………………………………….
b) Xử lý thông tin:
Sau khi thu phiếu điều tra, tôi đã có đầy đủ các thông tin của học sinh, phục vụ cho những việc sau:+ Ghi chép vào hồ sơ: Tôi đã ghi chép đầy đủ thông tin cần thiết vào sổ theo dõi chất lượng, sổ chủ nhiệm, sổ liên lạc với gia đình học sinh,…Cập nhật phần mềm smax 3.0 (Quản lý học sinh).
+ Xếp chỗ ngồi học sinh: Tôi dựa vào kết quả học lực của các em, phần nào nắm được những em học khá, giỏi và yếu kém, để xếp chỗ ngồi cho hợp lý như: Nam ngồi xen kẽ nữ, em khá giỏi ngồi với em yêu kém, kết hợp phân công đôi bạn cùng tiến,…
+ Trao đổi, chia sẻ: Tôi chủ động đến gặp một số em, để hỏi thăm thêm về gia đình, hoàn cảnh sống thường ngày của gia đình,…động viên, chia sẻ, giúp đỡ.
c) Bầu ban cán sự lớp: Bầu ban cán sự lớp là việc cần làm ngay từ đầu năm, đây là một trong những điều kiện để các em thể hiện mình, có ý thức tự quản tốt, có ý thức đi vào nề nếp. Do đó tôi đã sắp xếp thời gian hợp lý nhất, cho các em tổ chức bầu ban cán sự lớp theo quy định, chọn ra những em có năng lực tốt để đảm nhận nhiệm vụ của lớp giao phó, sau đó phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong ban cán sự.
2.2.2. Xây dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực”:
Thực hiện Chỉ thị số 40/CT-BGĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo về phát động phong trào thi đua và kế hoạch số 307/KH-BGD&ĐT ngày 22/07/2008 của Bộ giáo dục và đào tạo về kế hoạch triển khai “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm nâng cao giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách, kĩ năng sống cho học sinh. Qua nhiều năm thực hiện bản thân tôi thấy nó đem lại hiệu quả rất cao cho ngành giáo dục nói chung và nhất là trường Tiểu học nói riêng. Mà để xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp phải xây dựng “Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Dựa vào 5 nội dung được quy định trong kế hoạch của Bộ, tôi đã thực hiện như sau:
a)Trang trí lớp học thân thiện: Phòng học là nơi các em học tập, vui chơi. Bởi thế mà ngoài việc có một phòng học khang trang, thoáng mát, đầy đủ tiện nghi, còn cần có phòng học trang trí đẹp, thân thiện, gần gũi với các em, tạo cho các em sự thích thú, say mê, niềm phấn khởi khi ngồi vào lớp học. Cho nên ngay từ đầu năm tôi cùng các em đã trang trí lớp học rất đẹp, với nhiều nội dung, hình ảnh phong phú, đa dạng phục vụ cho việc học tập tốt hơn, mang lại nhiều niềm vui hơn cho các em mỗi ngày đến lớp.
b) Xây dựng mối quan hệ Thầy – trò, bạn bè trong và ngoài lớp:
* Mối quan hệ giữa thầy-trò: Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy và học, quan hệ thầy – trò đã trở thành thân thiện, gần gũi như là những người bạn thực sự, người thầy chỉ là người tổ chức, hướng dẫn cho các em trong quá trình dạy học, thế nên việc xây dựng mối quan hệ thầy trò quả không khó đối với bản thân tôi. Cụ thể là tôi luôn tạo cho các em mối quan hệ mật thiết, gần gũi, nói năng nhỏ nhẹ, dịu dàng, không để các em phải sợ sệt khi đứng trước mặt giáo viên, tôi luôn chủ động chỉ bảo, tôi thường nói: “Các em muốn có ý kiến gì thì cứ mạnh dạn trao đổi với cô, cô sẽ luôn giúp đỡ, hỗ trợ các em trong học tập cũng như trong cuộc sống”. Trong lớp có vấn đề xảy ra giữa các em, tôi luôn từ từ giải quyết công bằng, hợp tình, hợp lý. Khen, thưởng những em có thành tích cũng như phạt, răn đe rõ ràng đối với những phạm lỗi, nhưng trong quá trình răn đe, giáo dục, tôi vẫn động viên, khuyến khích tìm những điểm tốt của các em để nêu gương, sau đó mới đưa ra những lỗi phạm và yêu cầu các em không được vi phạm nữa. Đối với những em học sinh khuyết tật và cá biệt, tôi luôn giáo dục nhẹ nhàng, chỉ bày tỉ mỉ, thể hiện sự cảm thông, chia sẻ, sự nhân ái, bao dung sẵn sàng tha thứ, bỏ qua những lỗi lầm mà các em đã phạm. Chính vì thế mà tôi luôn được các em kính trọng, yêu quý và vâng lời, từ đó các em rất tự tin, phấn khởi, kích thích sự ham học, thích thú khi đến lớp.
* Mối quan hệ bạn bè trong và ngoài lớp: Tình bạn là tình cảm quý nhất của mỗi con người chúng ta, ở nhà chúng ta có tình cảm của ông bà, cha mẹ, anh chị em, họ hàng,….đến lớp chúng ta không thể không có tình bạn. Có nhiều bạn tốt thì chúng ta luôn tự hào và là điều kiện giúp chúng ta vươn lên trong cuộc sống, người ta thường nói: “Học thầy không tày học bạn”, bạn bè cần phải giúp đỡ lẫn nhau, vui buồn có nhau, phải biết thương yêu, đoàn kết, chia sẻ, cùng nhau phấn đấu trong học tập, trong cuộc sống, sao cho có kết quả cao nhất. Để xây dựng tốt mối quan hệ bạn bè trong và ngoài lớp của học sinh lớp tôi chủ nhiệm, tôi đã giáo dục các em những điều sau:
– Trong học tập, các em phải biết giúp đỡ, hợp tác với nhau, bạn học giỏi chỉ bài cho bạn học yếu, bạn học chưa giỏi nên hỏi, trao đổi với bạn biết hơn mình. Các em không được ích kỉ, hẹp hòi.
– Trong giao tiếp các em phải nói năng lịch sự, dễ nghe, nói từ tốn, nói lời hay ý đẹp, không được xúc phạm bạn, có điều gì không hài lòng hay bạn phạm lỗi với mình thì nói cho bạn hiểu để bạn sửa sai, hoặc nữa là trình với cô để cùng nhau giải quyết.
– Trong cuộc sống các em cần phải biết đoàn kết, chia sẻ giúp đỡ những bạn còn khó khăn hơn mình, chia sẻ nỗi buồn, niềm vui cùng bạn,…thương yêu nhau như anh, chị em cùng một nhà.
– Tuyệt đối không được chọc bạn, đánh nhau với bạn, xúc phạm bạn, không nói tục, chửi thề. Không được nói xấu về bạn, không chia rẽ, chia bè phái hoặc không chơi với bạn này, bạn kia,…
c) Tổ chức, tham gia các hoạt động tập thể: Tham gia các hoạt động tập thể giúp cho các em rất nhiều về kĩ năng sống, các em có cơ hội thể hiện mình trước đám đông, thể hiện những tài năng, năng lực và kĩ năng giao tiếp của mình. Qua đó giáo dục các em về sự hiểu biết nhiều lĩnh vực của cuộc sống, phẩm chất, nhân cách, đạo đức,…Chính vì thế trong công tác chủ nhiệm, tôi luôn chú trọng việc tham gia, tổ chức cho các em hoạt động tập thể theo quy định, lịch của trường, lớp. Các giờ hoạt động tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động thể dục thể thao, vui chơi, múa hát,…tôi đều tạo điều kiện cho các em được luyện tập, tham gia đầy đủ và có hiệu quả nhất.
2.2.3. Một số phương pháp giúp các em học tốt ở lớp và ở nhà.
Làm công tác chủ nhiệm, ai cũng muốn học sinh của mình học giỏi, có nhiều thành tích trong học tập và cuối năm đạt được kết quả như mong muốn. Để được như thế, người giáo viên cần phải có trình độ chuyên môn, phải có phương pháp dạy học phù hợp, linh hoạt giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách có hiệu quả nhất. Cho nên ngoài việc hướng dẫn các em học ở lớp, thì cần phải học tốt khi ở nhà. Do đó tôi đã đưa ra một số phương pháp giúp các em học tốt ở lớp và ở nhà như sau:
a) Học ở lớp: Dựa vào kết quả điều tra thông tin học sinh đầu năm, tôi đã xếp chỗ ngồi cho các em hợp lý, em khá giỏi ngồi gần em yêu kém, kết hợp phân công đôi bạn cùng tiến, tạo điều kiện cho các em học tập theo nhóm đôi, từ đó các em giúp đỡ, hỏi bài nhau trong những lúc giải quyết bài tập khó. Trong giờ học tôi luôn bao quát lớp, không để tình trạng các em không chú ý. Giảng giải thật kĩ những bài tập khó, dùng nhiều phương pháp dạy học linh hoạt như: Phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp hỏi đáp, phương pháp kĩ thuật khăn trải bàn, … kích thích sự hứng thú, tích cực và tính tự học, sáng tạo của học sinh. Mặt khác tôi luôn biểu dương, khen ngợi những em hăng say trong giờ học, động viên, giúp đỡ kịp thời những em còn chưa trả lời đúng, hay tự tin, mặc cảm để các em cố gắng vươn lên.
Thực hiện Thông tư số 30/2014/TT-BGD-ĐT ngày 28/08/2014 của Bộ giáo dục và đào tạo về việc đánh giá học sinh tiểu học. Thực hiện Công văn hướng hẫn thực hiện Thông tư 30 số 6169/BGDĐT- GDTH ngày 27/10/2014. Bản thân tôi luôn thực hiện đúng và kịp thời như trong Thông tư chỉ đạo, không tạo áp lực cho các em khi học, mà ngược lại kích thích, động viên các em rất nhiều. Ngoài việc tổ chức kiểm tra, đánh giá các em bằng lời nhận xét, tôi còn tổ chức cho các em nhận xét lẫn nhau để các em rút ra được bài học kinh nghiệm khi học tốt cũng như học chưa tốt, các em kịp thời sửa chữa, chấn chỉnh ngay, còn thi đua, phấn đấu cao trong học tập.
b) Học ở nhà: Ngoài việc học tốt ở lớp, nếu các em về nhà không ôn tập, không học lại thì dẫn tới dễ quên, mạch kiến thức sẽ bị hỏng, không thực hành được tốt. Vậy việc học bài và làm bài tập thêm ở nhà cũng rất cần thiết, phần nào giúp các em nắm vững kiến thức ở lớp, học thuộc bài khi cô kiểm tra bài cũ,…Thế nên tôi đã có một số biện pháp giúp các em học tốt khi ở nhà, đó là:
+ Lập thời gian biểu hợp lý nhất chung cho tất cả các em.
+ Thường xuyên kiểm tra bài cũ, việc làm bài tập thêm ở nhà.
+ Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, để trao đổi tình hình học tập của các em, như là gọi điện, liên lạc bằng sổ, trực tiếp đến nhà,…Đặc biệt quan tâm trao đổi thường xuyên với phụ huynh học sinh cá biệt, những em còn yếu kém, tạo mọi điều kiện giúp đỡ kịp thời.
2.2.4. Phối kết hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu, Đội và các giáo viên bộ môn.
Công tác phối kết hợp, là một trong những biện pháp hữu hiệu, nhằm răn đe, quán triệt có hiệu quả cao. Đôi khi có những công việc, nội dung hay tình huống mà một mình giáo viên không thể giải quyết được thì cần phải nhờ sự hỗ trợ của Ban giám hiệu nhà trường, hoặc Đội và các giáo viên bộ môn nếu có thể. Vì vậy, khi làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn nhờ sự tư vấn, chỉ đạo từ phía Ban giám hiệu nhà trường cho phép tôi mới thực hiện, gặp trường hợp nào cần đến sự hỗ trợ xử lư của Ban giám hiệu là tôi lập tức báo cáo, cùng với Ban giám hiệu để có biện pháp tốt và hay nhất.
Về phía Đội, tôi luôn kết hợp giáo dục các em cùng với anh Tổng phụ trách Đội, vì chức năng của Đội là tổ chức lễ chào cờ, các buổi sinh hoạt tập thể, các cuộc thi, các phong trào,…Cho nên để phát huy khả năng, năng lực của các em, tôi luôn cộng tác với anh Tổng phụ trách tạo cơ hội, điều kiện cho các em thể hiện. Bên cạnh đó, nếu có những những em chưa ngoan, phạm lỗi thì tôi cũng kết hợp với Đội để tạo sức răn đe, giáo dục có hiệu quả.
Ngoài kết hợp với Ban giám hiệu, Đội tôi còn phối kết hợp với các thầy, cô giáo bộ môn, như là hỏi thăm về tình hình học tập, các hoạt động khác mà các thầy cô giáo bộ môn phụ trách, đồng thời kết hợp, đưa ra những biện pháp phù hợp giáo dục các em trong tất cả các giờ học trên lớp dù không có giáo giên chủ nhiệm, các em cũng vẫn ngoan, vâng lời, học tập và tham gia tốt mọi hoạt động.
3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp.
– Năm học này tôi được tiếp tục giảng dạy và kiêm công tác chủ nhiệm lớp 4B. Bản thân đã làm công tác chủ nhiệm liên tục 13 năm, nên đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm.
– Do có sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường, cùng với các bạn bè đồng nghiệp.
– Sự hợp tác của cha mẹ học sinh trong lớp mình chủ nhiệm.
– Học sinh đa số ham học, biết vâng lời, yêu quý, tin tưởng cô giáo chủ nhiệm của mình.
4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
– Việc sử dụng các biện pháp trên được kết hợp vận dụng phù hợp, linh hoạt sáng tạo cộng với sự khéo léo, thông minh của giáo viên chủ nhiệm..
– Cách xử lý thuyết phục, nói năng dịu dàng, nhỏ nhẹ, cùng với sự nêu gương, làm mẫu.
– Các phương pháp, biện pháp trên được sử dụng một cách linh hoạt, không nhất thiết phải theo thứ tự trước, sau mà sử dụng bất kỳ lúc nào, trường hợp nào cảm thấy phù hợp, cùng một lúc có thể sử dụng cả hai biện pháp, như: Việc học tốt ở lớp chưa đủ mà cần phải học tốt ở nhà thì mới có kết quả tốt. Học tốt không chưa đủ mà cần phải có đạo đức tốt, nhân cách tốt. Cuối cùng nhằm giúp các em hưởng ứng mạnh mẽ, hứng thú, phấn khởi và cảm thấy “mỗi ngày đến trường là một niềm vui”.
IV- KẾT QUẢ THU ĐƯỢC QUA KHẢO NGHIỆM, GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
Sau khi áp dụng đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4” từ đầu năm cho đến cuối tháng 3/2015, tôi đã kiểm tra, theo dõi, nhận định thì thấy số liệu về những nội dung tìm hiểu đầu năm đã khác như sau:
Tổng số HS
Nội dung tìm hiểu
Số lượng
Tỉ lệ
21
1) Học sinh chưa tự giác học bài cũ.
2) Học sinh viết chữ sai lỗi nhiều, chưa đẹp.
3) Học sinh học chưa chú ý, tiếp thu chậm.
4) Học sinh nói trống không, chưa lễ phép.
5) Học sinh còn quậy phá, chọc bạn, đánh bạn.
6) Học sinh cá biệt.
7) Học sinh chưa có trang phục đầy đủ.
8) Học sinh còn trầm, tự ti, rụt rè.
9) Học sinh có vốn kĩ năng sống hạn chế.
10) Học sinh hay quên vở, sách, đồ dùng,…
2
2
3
0
0
0
0
2
3
1
9,5
9,5
14,3
0
0
0
0
9,5
14,3
4,7
Ngoài số liệu khảo thí trên, lớp còn có những thành tích nổi bật sau:
– Lớp có nề nếp tốt: Các em ngoan, hiền, biết vâng lời làm theo và làm đúng với lời chỉ bảo của cô giáo, trong lớp chú ý nghe cô giáo giảng bài. Là lớp rất đoàn kết, các em luôn thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, trong lao động. Có tinh thần tự giác, trách nhiệm cao. Thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy, 5 nhiệm vụ của người học sinh,…
– Đa số các em tích cực trong mọi hoạt động, nhất là trong học tập. Đặc biệt ban cán sự của lớp rất có năng lực, các em mẫu mực, học giỏi, viết chữ đẹp, nhanh nhẹn, luôn làm tốt mọi công việc được giao.
– Về rèn luyện giữ gìn vở sạch, viết chữ đẹp: Đa số các em có ý thức giữ gìn sách vở sạch, đẹp luôn bao bọc, nhãn tên, viết bài đầy đủ, không quăn góc, không bôi bẩn, không xé rách…, chữ viết luôn luôn trau dồi, rèn luyện dưới sự uốn nắn, sửa sai của cô giáo. Đặc biệt có một số em viết rất đẹp như: em Bích Ngọc, Vân, Triệu, Kiều, Trinh, Trang, Thuận,…
– Về công tác Đội: Với ban cán sự năng động, nhiệt tình, với tinh thần tự giác trách nhiệm ý thức cao cộng với sự rèn luyện tốt. Các em đã luôn thực hiện và tham gia đầy đủ mọi phong trào của Đội đề ra: Kế hoạch nhỏ, Vòng tay bè bạn, các phong trào từ thiện, Viết thư UPU, tham gia Câu lạc bộ kể chuyện, yêu thơ,…đạt kết quả cao và tham gia 100%.
– Về trang trí lớp: Đạt giải A
Trong một thời gian thực tế áp dụng các biện pháp, giải pháp nêu trên từ tháng 22/08/ 2015 đến 31/03/2016, kết quả thu được khả quan hơn rất nhiều. Kết quả hai môn Toán, Tiếng Việt đạt chất lượng cao hơn so với đầu năm, số lượng các em thuộc các nội dung trên giảm đáng kể, điều này cho tôi thấy được phần nào an tâm hơn khi làm công tác chủ nhiệm lớp. Với kết quả này, tôi sẽ tiếp tục duy trì, áp dụng và luôn giúp đỡ các em cho đến cuối năm học, tôi tin rằng kết quả cuối năm sẽ đạt được như mong muốn.
* Bài học kinh nghiệm được rút ra từ việc áp dụng đề tài:
Qua quá trình thực hiện đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4”, tôi đã rút ra được những kinh nghiệm sau:
– Giáo viên chủ nhiệm cần thực hiện đầy đủ các công việc đầu năm của lớp mình chủ nhiệm.
– Người giáo viên chủ nhiệm cần phải học hỏi, trau dồi kinh nghiệm, vốn sống, năng lực chủ nhiệm luôn được năng cao.
– Theo dõi, kiểm tra, quan tâm đến tất cả các hoạt động của học sinh lớp mình chủ nhiệm. Tránh bỏ qua, mặc kệ, không phân giải rõ ràng khi các em trao đổi hay thưa kiện việc gì đó. Mà ngược lại phải biết xử lý tốt trong mọi tình huống.
– Quan tâm nhiều và đặc biệt đến các HS yếu kém, cá biệt, HS có hoàn cảnh khó khăn, hoàn cảnh đặc biệt.
– Thường xuyên theo dõi nề nếp 15 phút đầu giờ, giao nhiệm vụ cho tổ trưởng kiểm tra, chữa bài tập cùng với lớp trưởng và lớp phó học tập. Ban cán sự lớp tự tổ chức giờ Sinh hoạt cuối tuần, các tổ trưởng, lớp trưởng lên nhận xét, đánh giá từng bạn trong tổ, để các em noi gương, học tập lẫn nhau và đặc biệt là biết sửa chữa lỗi của mình trước tập thể.
– Giáo dục đạo đức, nề nếp học sinh thông qua các biện pháp thuyết phục, nêu gương tốt, rèn luyện, khen thưởng và kỉ luật.
Việc áp dụng vào đề tài này phải cần có thời gian, không phải chỉ trong thời gian ngắn mà làm được. Cũng có những khó khăn nhất định của nó nhưng tôi đã kiên trì và với lòng yêu nghề, mến trẻ, thật sự tâm huyết với đề tài nên tôi đã có được những kết quả như mong muốn. Và tôi tin chắc rằng đồng nghiệp của mình còn có kinh nghiệm hơn, đưa kết quả của đề tài này vươn cao hơn nữa.
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Kết luận:
Mỗi giáo viên, ai cũng muốn học sinh của mình chăm ngoan, học giỏi, phát triển toàn diện, để sau này trở thành người có ích cho xã hội. Mỗi học sinh Tiểu học như những cây non, chúng ta cần uốn nắn, chăm chút cẩn thận, nhẹ nhàng chỉ bảo, nêu gương nhiều hơn là khiển trách để giúp học sinh tự tin vào bản thân mình và phát triển.
Đứng trước vai trò, vị trí, tầm quan trọng của một giáo viên chủ nhiệm lớp 4 tôi luôn tìm tòi, học hỏi trau dồi nhiều kinh nghiệm hơn nữa, để sao cho lớp mình chủ nhiệm luôn đạt được kết quả và thành tích cao trong mọi lĩnh vực. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra còn nhiều hạn chế, thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm.
II. Kiến nghị:
– Hằng năm cần tổ chức các phong trào thi đua về một số nội dung liên quan đến công tác chủ nhiệm giữa các lớp, các khối.
– Tổ chức những buổi sinh hoạt dành riêng cho giáo viên chủ nhiệm trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, kể những câu chuyện liên quan đến công tác chủ nhiệm,…cho nhau nghe để học hỏi, trau dồi lẫn nhau.
– Trong thư viện cần bổ sung thêm sách, tài liệu về công tác chủ nhiệm, để giáo viên tham khảo, học tập.
Rất mong quý cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp góp ý để tôi hoàn thành tốt đề tài của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!
Ea M’nang , ngày 4 tháng 4 năm 2016
Người viết