Phân tích vai trò của văn hoá và các lĩnh vực chính của văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh
I. Khái niệm về “văn hoá” và vai trò của văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Khái niệm “văn hoá”
Khái niệm “văn hoá” được Hồ Chí Minh định nghĩa lần đầu tiên vào năm 1942-1946 như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương tức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
2. Vai trò của văn hoá
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh xác định: Văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội,là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Văn hoá đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Điều này khẳng định vai trò quan trọng của văn hoá đối với đời sống.
Bốn yếu tố văn hoá, kinh tế, chính trị và xã hội có quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau. Ba yếu tố còn lại là cơ sở để có thể hình thành được một nền văn hoá phát triển.
Văn hoá không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải có tác động qua lại với hai yếu tố đó.
Để làm rõ hơn về vai trò ta tìm hiểu những nội dung sau:
- Văn hóa quan trọng ngang kinh tế, chính trị, xã hội.
Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển.
Cho dù là ở các nước thuộc địa hay ở Việt Nam thì làm chính trị cũng là làm cách mạng giải phóng dân tộc giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. Người nói: “ Xã hội nào, văn nghệ thế ấy… Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được”. Do đó, để văn hoá có cơ hội được tự do phát triển, tự do phát huy được khả năng của nó thì dân ta phải làm cách mạng chính trị trước. Ở nước ta, tiến hành cách mạng chính trị cũng chính là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội. Để từ cơ sở đó, chúng ta giải phóng được văn hoá, tạo điều kiện cho con đường phát triển văn hoá được mở rộng.
Không chỉ riêng chính trị mà với kinh tế cũng vậy, từ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng không thể thiếu trong việc phát triển văn hoá. Người cho rằng: “văn hoá là một kiến trúc thượng tầng, nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được”. Như vậy, vấn đề đặt ra là kinh tế phải đi trước một bước. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã tổng kết: Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa… để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”.
- Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng nhưng không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
Tuy “kinh tế có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được”, nhưng điều đó không có nghĩa là văn hóa “thụ động” chờ cho kinh tế phát triển xong rồi mới đến lượt mình phát triển. Văn hóa có tính tích cực chủ động, đóng vai trò to lớn thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển như một động lực. Theo Hồ Chí Minh, “Trình độ văn hoá của nhân dân sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
“Văn hóa ở trong chính trị” tức văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi lãnh đạo nhân dân đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối mới, không đi theo hướng nâng cao trình độ văn hoá rồi mới tính đến độc lập tự do mà thay vào đó là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, để giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, nhờ đó mới có thể giải phóng văn hoá, tạo cơ hội cho văn hoá có cơ hội phát triển.
“Văn hóa ở trong kinh tế” tức là văn hóa phải phục vụ, thúc đẩy việc xây dựng và phát triển kinh tế. Không chỉ vậy, kinh tế là thuộc cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hoá, xây dựng kiến trúc thượng tầng. Từ đó, Hồ Chí Minh nêu ra luận điểm phải dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hoá.
“Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị” cũng có nghĩa là chính trị và kinh tế phải có tính văn hóa. Đây là một đòi hỏi chính đáng của văn hóa hiện đại. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương gắn văn hoá với phát triển, chủ trương đưa các giá trị văn hoá thấm sâu vào kinh tế và chính trị, làm cho văn hoá thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
II. Một số lĩnh vực chính của văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Văn hoá bao gồm nhiều lĩnh vực, tuy nhiên theo quan điểm của Hồ Chí Minh thfi những lĩnh vực chính bao gồm: văn hoá giáo dục, văn hoá văn nghệ và văn hoá đời sống.
1.Văn hoá giáo dục
Theo Người, nền giáo dục phong kiến là nền giáo dục xa rời thực tế, không quan tâm đến thực nghiệm, coi kinh sách cả thánh hiền là đỉnh cao của tri thức. Nền giáo dục này coi trọng và hướng tới là kẻ sĩ, người quân tử, bậc trượng phu. Trong khi đó, người phụ nữ bị tước quyền học vấn.
Nền giáo dục của thực dân theo quan điểm của Hồ Chí Minh là nền giáo dục “ngu dân” mà chúng áp dụng ở các nước thuộc địa. Không những không giúp người dân được mở mang trí tuệ mà nó còn khiến cho nhân dân “đần độn thêm”. Đó là nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát. Người đã tố cáo nền giáo dục thực dân trước cả thể giới nhằm thức tỉnh nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân các nước thuộc địa đứng lên đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, việc xác định xây dựng một nền giáo dục mới được xác định là mục tiêu lâu dài và cấp bách của nước ta, không thể để vấn đề này bị chậm trễ.
Để xây dựng nền văn hoá giáo dục của nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh đã nêu ra nhều quan điểm rất quan trọng. Những quan điểm ấy được Người nêu ra cũng với thực tiễn phát triển nền giáo dục của nước ta định hướng cho văn hoá giáo dục phát triển đúng đắn và giành được những thành tựu to lớn. Nền văn hoá giáo dục mới ra đời trong cách mạng và phát triển trong hai cuộc kháng chiến lâu dài, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta thực sự là niềm tự hào của nhân dân.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục tập trung ở các điểm sau:
– Mục tiêu của văn hoá giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hoá bằng giáo dục, có nghĩa là bằng quá trình dạy và học, vì theo Người dạy và học là để mở mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phẩm chất trong sáng và phong cách lành mạnh cho nhân dân; dạy và học là để đào tạo những con người mới của có đức vừa có tài, theo Người, học để làm việc, làm người, làm cán bộ, do vậy, phải có thực học, học không phải để chạy theo bằng “công noong trí thức hoá”, “trí thực công nông hoá”, xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng đông đảo và có trình độ ngày càng cao; dạy và ọc còn phải đào tạo những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh để theo kịp các nước khác trên thế giới.
– Phải tiến hành cải cách giáo dục để xây dựng một hệ thống trường lớp với chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với những bước phát triển của ta, bao gồm cả văn hoá, chính trị, khoa học – kĩ thuật, chuyên môn nghề nghiệp và lao động. Học văn hoá, kĩ thuật phải đồng thời với học chính trị, nếu không đồng thời thì chẳng khác nào như người nhắm mắt mà đi. Học chính trị là học chủ nghĩa Mác- Lênin và đường lối quan điểm của Đảng để hiểu được nhiệm vụ cách mạng và xây dựng cho bản thân mình là một phương pháp nhận thức đúng đắn trước những diễn biến phức tạp của cuộc sống và vững tin vào lý tưởng cách mạng, tránh được những sai lầm, vấp ngã. Do vậy, học phải sáng tạo, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học ập phải kết hợp với lao động và phải tẩy sạch mọi tàn dư của nền giáo dục nô dịch; để đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục cần phải phối hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Sự nơi lỏng, yếu kém ở bất cứ khâu nào cũng đều hạn chế kết quả của giáo dục.
– Học ở mọi nơi, mọi lúc; học mọi người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Học ở trường lớp chỉ là một phần, phần còn lại chủ yếu là học trong lao động, trong công tác và trong thực tiễn. Không chỉ có những người thầy ở trường mà còn xung quanh ta còn có nhiều người thầy khác. Học không bao giờ là thừa. Học tâp là quá trình lao động gian khổ, học phải có quyết tâm, có nghị lực và phải say mê, hơn nữa học còn phải có phương pháp đúng mới đạt được hiệu quả cao. Người nào tự cho mình biết đủ, tài giỏi rồi thì đó mới chính là người dốt nát nhất.
– Phải giáo dục để không ngừng nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nghĩa là vừa nâng cao trình độ của dân trí vừa nâng cao trình độ đảng trí.Vì có trình độ mới có khả năng tổng kết kinh nghiệm, hiểu rõ quy luật và làm theo đúng quy luật sẽ thúc đẩy sự phát triển, không hiểu quy luật mà làm trái quy luật sẽ phải trả giá. Đối với cán bộ , đảng viên, Người đòi hỏi: một là, phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác- Lênin để vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp Mác- Lênin vào tổng kết những kinh nghiệm hoạt động của Đảng; hai là,phải học tập văn hoá, khoa học, kĩ thuật, kinh tế và quản lí, cán bộ ngành nào thì phải biết chuyên môn ngành ấy. Có như vậy mới không rời vào tình trạng lãnh đạo chung chung, giáo điều.
2. Văn hoá văn nghệ
Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hoá, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Hồ Chí Minh đã khai sinh ra một nền văn nghệ cách mạng và chính Người là một trong những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận sáng tạo văn hoá văn nghê. Những cống hiến của Hồ Chí Minh về văn hoá văn nghệ là một bộ phận đặc sắc trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của người.
Văn nghệ là một trong ba lĩnh vực quan trọng nhất của văn hoá. Nền văn hoá văn nghệ cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những đặc điểm sau:
-Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới. Trên mặt trận văn hoá văn nghệ, Hồ Chí Minh hoạt động rất tích cực. Cùng với một số sáng tác văn nghệ như “bản án chế độ thực dân Pháp”, “con rồng tre”,..Người đã lật mặt được bộ mặt tàn ác cũng như âm mưu của cướp nước, đồng thời cũng cổ vũ được tinh thần của nhân dân, biến những sáng tạo nghệ thuật của mình thành vũ khí sắc bén chống lại những kẻ đầu sỏ của chủ nghĩa thực dân Pháp, bè lũ vua quan phong kiến bạc nhược. Với tinh thần “Nay trong thơ có thép; Nhà thơ cũng phải biết xung phong”, Người chỉ rõ ngòi bút của các văn nghệ sĩ cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà.
-Văn nghệ phải gắn với đời sống của nhân dân. Đó chính là thực tiễn đời sống lao động sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt và xây dựng xã hội mới. Văn nghệ phản ánh thực tiễn đời sống, vừa thúc đẩy sự phát triển của thực tiễn đời sống theo quy luật của cái đẹp. Theo Hồ Chí Minh, chỉ có thực tiễn đời sống của nhân dân mới đem lại nguồn sinh khi vô tận cho sáng tác và sáng tạo văn hoá văn nghệ và nghệ thuật. Thực tiễn ấy cung cấp những chất liệu vô tận cho văn nghệ sĩ sáng tạo và mọi sự sáng tạo của họ luôn hướng về nhân dân, hướng về người lao động. Do vậy, người chiến sĩ văn nghệ phải hoà mình với quần chúng và không được quên rằng chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của mình. Bên cạnh đó, nhân dân không chỉ là những người thưởng thức các sáng tác văn nghệ mà họ cũng là những người sáng tác. Chính những tác phẩm đó là những viên ngọc quý giá của xã hội.
-Cần phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước cũng như của dân tộc, phải phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân và chúng cần phải có được sự yêu mến của quần chúng nhân dân. Những tác phẩm muốn đạt được điều đó cần phải có tính nghệ thuật cao, phải khiến cho người đọc hiểu được nội dung mà tác giả muốn truyền đạt và sau khi đọc xong, người đọc phải ngẫm nghĩ, phải nhớ đến nó. Về văn phong thì phải trong sáng, tươi vui, chân thật và gần gũi, đem lại nhiều điểu bổ ích đối với nhân dân. Trong đó có thể chứa những chi tiết hư cấu nhưng những điều ấy cần được dựa trên những điều có thực chứ không nên tạo ra những tình tiết hư cấu quá đà, xa rời hiện thực. Phản ánh chân thực còn là phản ánh có tính định hướng, giúp cho nhân dân nhận ra và loại bỏ những điều xấu xa, sai trái để hướng tới những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống. Tuy nhiên định hướng chứ không phải ép buộc. Không nên ép mọi người cứ chăm chăm, răm rắp theo một khuôn mẫu nào đó mà cần có sự đa dạng và sáng tạo phong phú các tác phẩm nghệ thuật để tránh sự nhàm chán.
3.Văn hoá đời sống
Ngay sau khi cách mạng thành công, Hồ Chí Minh đã phát động phong trào xây dựng đời sống mới vào tháng 1/1947. Đó là phong trào xây dựng lối sống, nếp sống, phong cách sống, chất lượng sống,… và đến tháng 3/1947 Hồ Chí Minh viết cuốn sách đời sống mới để hướng dẫn nhân dân cách làm. Cuộc vận động của Người đã nhanh chóng trở thành phong trào quần chúng sôi nổi và có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
Cuốn Đời sống mới của Hồ Chí Minh bao gồm đạo đức mới, lối sống mới và cả nếp sống mới. Ba nội dung này gắn bó với nhau tạo thành một khối thống nhất có quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó quan trọng nhất là đạo đức vì nó gắn liền với nếp sống và lối sống và được thể hiện qua hai nội dung này. Chính vì điều này mà xây dựng đạo đức mới cần được tiến hành đồng thời với xây dựng lối sống mới và nếp sống mới.
Đạo đức mới bao gồm Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Theo như Hồ Chí Minh đã từng viết: “…thực hành đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính”; “ Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở thành hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”; “Nêu cao và thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho cuộc sống mới.
Lối sống mới theo quan điểm của Người là lối sống có lý tưởng, có đạo đức, có phong cách sống và phong cách làm việc. Theo Người thì đó là lối sống văn minh, tiên tiến và có sự kết hợp hài hoà truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hoá nhân loại. Xây dựng lối sống mới cũng là sửa đổi cách sống và cách làm việc sao cho khoa học và hợp lí. Giống như lối sống của Người thực hiện. Hồ Chí Minh luôn thể hiện một cách viết, cách nói chân thật, dễ hiểu mà tế nhị, bình dân và không thô thiển, phô trương hay cầu kì. Điều này khiến cho tư tưởng của Người dễ dàng đi vào lòng người dân bởi chúng dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm.
Nếp sống mới là quá trình xây dựng thói quen cho lối sống mới. Nó hướng tới xoá bỏ thói quen của lối sống cũ, xây dựng những phong tục tập quán mới và xoá bỏ những thứ cũ. Tuy nhiên không phải là bất cứ thứ gì cũ cũng bỏ đi, ta nên thay thế những hủ tục hoặc những điều chưa hợp lí thì sửa đổi sao cho phù hợp. Đối với những phong tục cũ nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu, phù hợp với lối sống thì vẫn nên giữ lại và phát huy nó. Tất cả nhằm hướng tới một nếp sống mới, nếp sống văn minh, lịch sự. Tuy rằng việc sửa đổi những phong tục tập quán cũ còn gặp nhiều khó khăn nhưng ta vẫn nên cố gắng làm điều đó bằng cách nâng cao nhận thức của nhân dân, kiên trì theo đuổi mục tiêu thì mới có thể làm được. Hơn nữa trong việc này cần có những tấm gương đi đầu để mọi người có thể làm theo và đó chính là những người cán bộ. Họ phải nói được và làm được mới có thể khiến nhân dân tin và làm theo.
Việc xây dựng văn hoá đời sống không phải chuyện của một người mà nó cần có sự chung tay thực hiện của mọi người, từng gia đình, làng, xã, huyện,…Mọi người có chung tay thì mới có thể xây dựng đất nước ta ngày càng phát triển được.
Tham khảo thêm: