Phát triển du lịch biển đảo để thúc đẩy kinh tế biển
Việt Nam là quốc gia biển với gần 50% dân số sinh sống ở vùng duyên hải, 28 tỉnh, thành ven biển, kinh tế biển đóng góp 60% tổng GDP. Trong 6 ngành chủ đạo để phát triển kinh tế biển thì du lịch biển đảo ngày càng trở thành một xu hướng và động lực mới, với nhiều tiềm năng ở Việt Nam.
Với lượng khách đến tăng liên tục trong nhiều năm qua và luôn chiếm khoảng 70% tổng khách du lịch cả nước, du lịch biển đảo hiện đang là loại hình du lịch chủ đạo, góp phần quan trọng đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam.
Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng để phát triển du lịch biển
Việt Nam có nhiều tiềm năng về du lịch biển đảo khi sở hữu đường bờ biển dài hơn 3.260 km và hơn 3.000 hòn đảo, với những bờ cát trắng, vịnh biển hoang sơ, những hòn đảo nhiệt đới quanh năm tươi tốt…
Việt Nam đứng thứ 27 trong số 156 quốc gia có biển trên thế giới và là nước có diện tích ven biển lớn ở khu vực Đông Nam Á. Và có tới 125 bãi biển mà hầu hết là các bãi tắm đẹp, trong đó bãi biển Đà Nẵng đã được Tạp chí Forbes bầu chọn là 1 trong 6 bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh. Việt Nam cũng là 1 trong 12 quốc gia có các vịnh đẹp nhất thế giới là Vịnh Hạ Long, Vịnh Nha Trang.
Ngoài ra, từ bao đời nay, biển đảo không chỉ là nơi cung cấp nguồn sống, mà còn là không gian để cộng đồng người Việt tạo lập nên một nền văn hóa biển đảo, với những di sản văn hóa đặc sắc. Đó là hệ thống di tích lịch sử-văn hóa liên quan đến môi trường biển, hệ thống thần linh biển, những bậc tiền bối có công trong công cuộc chinh phục biển, xác lập và thực thi chủ quyền quốc gia trên biển…; các lễ hội dân gian của cư dân miền biển; tín ngưỡng, phong tục tập quán liên quan đến biển; văn hóa sinh kế, văn hóa cư trú, văn hóa ẩm thực, diễn xướng dân gian, tri thức bản địa… Ðây chính là nguồn tài nguyên giàu có để phát triển du lịch biển đảo bền vững.
Thời gian qua, nhiều khu du lịch biển tiềm năng đã được quy hoạch và đầu tư phát triển như: bãi biển Sầm Sơn (Thanh Hóa); bãi biển Non Nước, Mỹ Khê (Đà Nẵng); Vịnh Nha Trang, Vịnh Cam Ranh (Khánh Hòa); bãi biển Mũi Né (Bình Thuận); bãi biển Vũng Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu)…
Việt Nam đã hình thành 3 trung tâm du lịch biển có sức hút với khách quốc tế, gồm Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), Đà Nẵng, Nha Trang (Khánh Hòa) với những cơ sở lưu trú hiện đại 4-5 sao, có thể đón những đoàn khách đến nghỉ dưỡng và phát triển du lịch MICE (du lịch hội nghị, hội thảo).
Cùng với việc đầu tư xây dựng hạ tầng du lịch, nhiều dịch vụ giải trí, thể thao biển đã được đưa vào hoạt động như: chèo thuyền du lịch, kéo dù bằng ca nô, lướt ván, đua thuyền, bóng đá, bóng chuyền bãi biển… Đặc biệt, loại hình ngắm biển bằng dù lượn, khinh khí cầu, máy bay mô hình (ở biển Nha Trang, Đà Nẵng) hay bằng máy bay trực thăng (ở Vịnh Hạ Long) đang được rất nhiều khách du lịch yêu thích.
Với sự đầu tư mạnh mẽ về cơ sở hạ tầng cùng các dịch vụ giải trí, du lịch biển đã thu hút hàng triệu lượt khách đến thăm quan và nghỉ dưỡng mỗi năm. Hoạt động du lịch biển đảo hiện chiếm khoảng 70% hoạt động của ngành du lịch Việt Nam.
Các sản vật địa phương liên quan đến biển cũng theo đó mà phát triển thành thương hiệu, đậm dấu ấn địa phương, góp phần đáng kể vào việc phát triển sản phẩm gắn với các tour du lịch. Có thể kể đến một số sản phẩm nổi tiếng như: nước mắm Phú Quốc, chả mực Hạ Long, tỏi Lý Sơn, yến sào Nha Trang, mật ong rừng Cát Bà…
Du lịch biển phát triển cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác; tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội dải ven biển, góp phần bảo đảm an ninh – quốc phòng, bảo vệ môi trường biển.
Vẻ đẹp của hòn Trống Mái trên vịnh Hạ Long. (Ảnh Internet)
Tăng cường quảng bá, xây dựng thương hiệu du lịch biển Việt Nam
Với nguồn tài nguyên du lịch biển hấp dẫn và quá trình đầu tư phát triển, các khu nghỉ dưỡng ở biển miền Trung có khả năng cạnh tranh với các khu du lịch biển nổi tiếng của các nước trong khu vực như: Bali (Indonesia); Pattaya, Phukhet (Thái Lan); các bãi biển Tanjong, Siloso và Palawan trên đảo Sentora (Singapore); các khu du lịch biển của Malaysia.
Lợi thế lớn nhất và cũng là sự khác biệt của sản phẩm du lịch biển Việt Nam so với các nước trong khu vực là phong cảnh đẹp và tính nguyên sơ của tài nguyên du lịch biển. Các bãi biển tại miền Trung của Việt Nam và Di sản thiên nhiên vịnh Hạ Long, đảo Phú Quốc và Côn Đảo… tạo nên tính nổi trội cho sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng giải trí biển của nước ta trong tương lai.
Quá trình phát triển, đặc biệt ngày một mở rộng khai thác và phát triển các điểm đến du lịch mới, sản phẩm du lịch mới, nhiều điểm đến của du lịch Việt Nam đã được khách du lịch quốc tế khám phá, ưa thích. Nhiều tổ chức quốc tế đại diện cho khách du lịch, cho các hãng lữ hành quốc tế toàn cầu hoặc các tạp chí quốc tế đã có những bầu chọn vinh danh các điểm đến du lịch Việt Nam mà trong đó nhiều điểm đến du lịch biển được đánh giá cao. Vịnh Hạ Long có tầm quan trọng đặc biệt của du lịch biển Việt Nam với hai lần được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.
Nhiều khảo sát thị trường cho thấy, 70% khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đều đến thăm Vịnh Hạ Long. Cùng với Vịnh Hạ Long, Vịnh Nha Trang và Vịnh Lăng Cô đều nằm trong top 30 vịnh đẹp nhất thế giới. Nhiều bãi biển của Việt Nam được các tổ chức quốc tế bầu chọn là bãi biển đẹp trên thế giới như: Mỹ Khê (Đà Nẵng) được Tạp chí Forbes của Mỹ bình chọn là một trong 6 bãi biển quyến rũ nhất hành tinh. Tạp chí Du lịch Rough Guides của Anh bình chọn Bãi Dài (đảo Phú Quốc – Kiên Giang) xếp hạng 13 thế giới về các bãi biển hoang sơ đẹp nhất. Tạp chí National Geographic của Mỹ xếp bãi biển Nha Trang vào danh sách 100 bãi biển đẹp nhất thế giới…
Để thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch vùng biển, ngành Du lịch cần xác định mục tiêu: phát triển thành công, đột phá ngành kinh tế du lịch và dịch vụ biển; xây dựng văn hóa biển góp phần từng bước đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh.
Trong đó, ngành tập trung vào các định hướng như: tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các ngành, địa phương và cộng đồng về phát triển du lịch biển theo hướng bền vững; đầu tư phát triển hạ tầng du lịch biển, phát triển các vùng biển dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, hài hòa giữa bảo tồn và phát triển; đào tạo nâng cao nguồn nhân lực về văn hóa, thể thao và du lịch các vùng ven biển; phát triển, nâng cao và đa dạng hóa các sản phẩm du lịch và du lịch sinh thái biển; xây dựng nền văn hóa biển, phát triển du lịch cộng đồng vùng ven biển; bảo vệ môi trường, bảo tồn, bảo vệ đa dạng sinh học, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Việc phát triển thương hiệu biển Việt Nam cần coi là một thương hiệu quốc gia mà trong đó thương hiệu du lịch biển là một trong những nhân tố quan trọng nhất. Các hình ảnh về một quốc gia được chuyển tải nhanh hơn thông qua các hình ảnh du lịch. Cụ thể là cần có các biện pháp xúc tiến quản bá phù hợp từ Trung ương đến địa phương, mang tính tập trung, hình thành rõ nét từng khu vực với từng thế mạnh sản phẩm, thế mạnh thương hiệu của mỗi địa phương ven biển.
Các nhìn nhận quốc tế về các bãi biển, vịnh đẹp Việt Nam là động lực cho hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch biển ra nước ngoài. Ngoài ra, du lịch biển cũng được định vị qua các đặc trưng văn hóa, các giá trị ẩm thực cùng các tập tục từng vùng miền có biển, góp phần quan trọng trong phát triển thương hiệu du lịch biển Việt Nam.