So sánh giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và “Vợ nhặt” của Kim Lân
Gía trị nhân đạo trong văn chương truyền thống thể hiện ở nhiều phương diện, khía cạnh. Song nhìn chung, đó là thái độ thương yêu trân trọng những tác phẩm tốt đẹp của con người, đó là sự đồng cảm với những đau khổ cũng như ngợi ca, đề cao những khát vọng của con người, lên án, tố cáo những thế lực áp bức, bóc lột người lao động, … Một tác phẩm hàm chứa những nội dung trên được coi là có tính nhân văn sâu sắc.
Gía trị nhân đạo trong văn chương truyền thống thể hiện ở nhiều phương diện, khía cạnh. Song nhìn chung, đó là thái độ thương yêu trân trọng những tác phẩm tốt đẹp của con người, đó là sự đồng cảm với những đau khổ cũng như ngợi ca, đề cao những khát vọng của con người, lên án, tố cáo những thế lực áp bức, bóc lột người lao động, … Một tác phẩm hàm chứa những nội dung trên được coi là có tính nhân văn sâu sắc.
Đề : So sánh giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và “Vợ nhặt” của Kim Lân.
I. Nêu vấn đề:
– Giới thiệu Kim Lân và tác phẩm “Vợ nhặt”
– Giới thiệu Tô Hoài và “Vợ chồng A Phủ”
Tô Hoài (bên trái) và Kim Lân (bên phải)
– Giới thiệu vấn đề nghị luận: Những điểm giống và khác nhau trong tư tưởng nhân đạo của Kim Lân và Tô Hoài được thể hiện qua hai tác phẩm “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ”.
Kim Lân và Tô Hoài là những cây bút truyện ngắn nổi tiếng trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” là hai truyện ngắn có giá trị nhân đạo sâu sắc nhưng tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn trong từng tác phẩm vẫn có những nét riêng.
II. Giải quyết vấn đề:
1. Định nghĩa khái niệm giá trị nhân đạo (luận điểm phụ)
Gía trị nhân đạo trong văn chương truyền thống thể hiện ở nhiều phương diện, khía cạnh. Song nhìn chung, đó là thái độ thương yêu trân trọng những tác phẩm tốt đẹp của con người, đó là sự đồng cảm với những đau khổ cũng như ngợi ca, đề cao những khát vọng của con người, lên án, tố cáo những thế lực áp bức, bóc lột người lao động, … Một tác phẩm hàm chứa những nội dung trên được coi là có tính nhân văn sâu sắc.
2. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ”
a. Số phận bi thảm của con người:
Tô Hoài dành sự cảm thông chia sẻ cho những nhân vật của mình. Ông dành cho nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” một tình cảm yêu thương trân trọng vô cùng. Sự trân trọng đó bộc lộ ở những chi tiết tài tình khi miêu tả tâm lí, tình cảm và nỗi cơ cực của nhân vật. Tô Hoài đã rất chắt lọc chi tiết và nhịp văn để nhấn mạnh thêm cuộc sống lao khổ, buồn bã của Mị phải chịu đựng. “Ngày ngày cô ngồi bên một tảng đá, cạnh tàu ngựa, cúi mặt buồn rười rượu”. Người ta đã quên Mị với tư cách nàng dâu của nhà thống lí. Thực chất, Mị sống một cuộc đời nô lệ, chôn vùi tuổi thanh xuân, sắc đẹp ở đó. Mị là nạn nhân của đồng tiền và các thế lực phong kiến cường quyền tàn ác. Mị sống âm thầm, làm lụng quần quật suốt ngày đến nỗi quên mất cả khái niệm thời gian.
– Mị đã sống đời con dâu gạt nợ, bề ngoài là con dâu nhưng thực chất bên trong là con nợ. Một con nợ thông thường dù khốn khổ thì vẫn còn hi vọng ngày nào đó thoát khỏi thân phận con nợ khi đã thanh toán đầy đủ cho chủ nợ, oái ăm là ở chỗ Mị là con nợ nhưng cũng là con dâu, linh hồn Mị đã bị đem “trình ma” nhà thống lí. Mị không thể chạy đâu cho thoát, chỉ đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi.
Mị bị đày đọa cả thể xác lẫn tâm hồn
– Mị bị đày đọa về thể xác: Mị bị tê liệt về tinh thần và sức phản kháng. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì mình tưởng mình cũng là con trâu, mình là con ngựa. Cuộc sống tẻ nhạt, mòn mỏi, Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, liên tiếp nhau, vẽ ra trước mặt mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng, lại làm đi làm lại. Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, đến giữa năm thì giặc đay se đay, đến mùa thì đi nương, bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cô cũng cài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, còn đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm cả ngày. Mị trở thành một con rùa nuôi trong xó cửa.
– Mị bị đày đọa về tinh thần. Cô Mị trẻ trung phơi phới ngày nào giờ đây chỉ như một cái xác không hồn, sức phản kháng hoàn toàn bị tê liệt. Căn buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Đó là sự diễn tả tuyệt hay một thứ ngục thất tinh thần, nó không giam hãm thể xác Mị nhưng nó cách li tâm hồn cô với cuộc đời. Nó cấn cổ tuổi xuân và sức sống của cô. Nhân danh quyền sống, tác giả cất tiếng nói tố cáo phong kiến vì chế độ ấy mà đã làm cạn khô nhựa sống, làm tắt đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống. Cuộc sống của Mị bị giam hãm tù đày ở nhà thống lí Pá Tra với một nhịp điệu buồn tẻ, nặng nề của những công việc khổ sai, lặp đi lặp lại.
Dàn trải nỗi đau khổ, nhục nhã mà Mị chịu đựng trên trang giấy cũng là nỗi khổ đau của Tô Hoài. Ông viết lên sự thật, mặc dầu rơi lệ, xót xa cho nhân vật. Ông đã không dè đặt tố cáo các thế lực đã đẩy con người vào vực thẳm cuộc đời. Trước ngòi bút của Tô Hoài, cuộc sống yên ổn của người dân miền núi còn là một cái gì đó rất xa xôi.
b. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt:
* Trong đêm tình mùa xuân:
Khung cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài năm ấy thật lộng lẫy, rực rỡ, có sức say người với những chiếc váy hoa sặc sỡ trên những mỏm đá cùng tiếng cười rộn rã của đám trẻ đợi Tết chơi đùa trước nhà.
– Âm thanh của tiếng sáo gọi bạn. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi.
– Tiếng sáo là biểu tượng của tình yêu và tự do. Mị ngồi nhẩm thầm lời bài hát:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.”
Ngôn từ bài hát mộc mạc, giản dị, vậy mà chất chứa cả cái lối sống phóng khoáng, tự do của con người. lẽ phải đơn sơ ấy đã vọng vào tâm hồn cô gái đã có một thời thổi sáo rất hay.
– Cô ấy đã tìm đến rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát như thể cô đang uống đi cái đắng cay của phần đời đã qua, như thể cô đang khao khát hạnh phúc cho phần đời còn lại. Mị say nhưng lòng Mị luôn nhớ về những ngày trước, ý thức bản thân dần trở lại. Tiếng sáo gọi bạn đầu làng như thôi thúc, mời mọc, vẫy gọi Mị. Mị nhớ lại ngày trước Mị thổi sáo giỏi và cô thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những ngày tết trước đó. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Và một ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thực xuất hiện trong đầu Mị. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Đó chính là sự phản kháng với hoàn cảnh, chứng tỏ Mị đã ý thức lại được cái tình cảnh đau xót, dai dẳng này.
– Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường, thôi thúc Mị tìm đến với khát vọng tự do, hạnh phúc. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Đó là hành động thức tỉnh, như thắp sáng lên phần đời còn lại của mình.
Mị quấn lại tóc chuẩn bị đi chơi xuân
Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo, tiếng sáo như một hiện tượng ngoại cảnh đã xâm nhập vào nội tâm của Mị, hiện hữu trong tâm hồn Mị. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. => Hành động của Mị khiến cho A Sử ngạc nhiên, hắn đã trói Mị vào cột làm cho Mị không cúi không nghiêng được nữa.
– Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác Mị, chứ không trói buộc được tâm hồn của Mị. Tiếng sáo vẫn đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Mị vùng bước đi nhưng tay chân đau không cựa được. Mị ý thức nghĩ mình không bằng một con ngựa. Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế, lúc thì khắp người bị dây trói khít lại đua nhức, lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ, hơi rượu tỏa. Tiếng sáo, tiếng chó sủa xa xa, Mị lúc mê lúc tỉnh. Mị còn nhớ lại câu chuyện ngày xưa người ta hay kể. Đời trước ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ đến ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn thì vợ đã chết. Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết.
A Sử trói Mị khiến Mị không thể đi chơi
=> Khép lại khát vọng được đi chơi, được sống tự do. Trong đêm tình mùa xuân, Mị lại rơi vào tình cảnh bi đát còn hơn trước đó. Nhưng ít ra cô cũng đã có những thay đổi về tâm lí, cô muốn sống hơn là chết.
* Sức phản kháng thể hiện ở hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ:
Có thể nói Tô Hoài đã đồng cảm sâu sắc với khát vọng của Mị. Tô Hoài khám phá ra quy luật của cuộc sống ở nhân thân bé nhỏ của Mị. Ông hiểu được điều gì ắt phải đến. Cuộc đời có khốc liệt tới đâu cũng không thể chôn vùi khao khát cuộc sống tự do, hạnh phúc của Mị. Và Mị phản kháng là điều tất yếu. Sức sống, sức trẻ, tình thương vốn tiềm tàng trong cô đã giúp cô đủ sức mạnh để cở trói cho A Phủ.
– Lúc đầu Mị chỉ thản nhiên ngồi thổi lửa hơ tay, nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi. Đó là thái độ lạnh lùng, vô cảm. Mị bị chai sạn về tâm hồn bởi vì nỗi đau của cô quá lớn nên đâu còn có thể quan tâm đến một ai khác nữa đâu. Và cũng bởi vì đây là cảnh tượng thường xuyên xảy ra nhà thống lí.
– Lúc đêm khuya, Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng cháy sáng, Mị lóe mắt trông sáng thì thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. => Đó là nước mắt của sự bất lực, bế tắt và hoàn toàn tuyệt vọng.
– Mị chợt nhớ lại vào một đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị xúc động và thương mình, thương người, đồng cảm với nỗi đau của A Phủ. Nhận ra rõ bản chất độc ác của kẻ thù, lòng thương người lớn dần, lấn át cả nỗi sợ hãi. Mị đã quyết định cắt dây trói cho A Phủ. Hành động của Mị có ý nghĩa phản kháng quyết liệt, chống lại cường quyền và thần quyền. Cởi trói cho A Phủ xong, Mị đứng lặng trong bóng tối với bao dằn xé trong tâm hồn và rồi khát vọng sống trỗi dậy mãnh liệt, Mị chạy theo cùng A Phủ để đến với tự do.
=> Như vậy, với Mị, Tô Hoài đã thể hiện mình là một ngòi bút tâm lí sâu sắc, tinh tế, đạt đến trình độ bậc thầy. Nhân vật Mị là kết tinh cho lòng yêu thương con người sâu sắc của nhà văn. => Làm nên giá trị nhân đạo bền vững cho tác phẩm.
3. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong “Vợ nhặt”:
a. Số phận bi thảm của con người:
– Số phận cơ cực của các nhân vật: Tràng, thị, bà cụ Tứ, người dân xóm ngụ cư.
Những người dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945
+ Tràng nhà nghèo, dân ngụ cư, xấu trai, ế vợ. Xét về hoàn cảnh gia đình và bản thân thì anh khó mà lấy được vợ.
+ Thị có nguồn gốc xuất thân không rõ ràng, không có họ tên cụ thể, nghề nghiệp cũng không ổn định. Lần đầu tiên gặp Tràng cô hồn nhiên vô tư. Nhưng khi trở lại lần hai, thị rách quá, áo quần tả tơ như tổ đĩa. Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Hoàn cảnh tàn nhẫn xô đẩy thị có lúc thành ra kẻ cong cớn, trơ trẽn, trân tráo. Thị chửi Tràng “Điêu! Người thế mà điêu!”, rồi thị gợi ý để được ăn, khi được Tràng đãi ăn, thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc chẳng chuyện trò gì. Và sau lời nói đùa của Tràng, thị đã theo chàng về thật.
+ Cụ Tứ già nua, gầy ốm, bệnh tật, có con trai có vợ giữa ngày đói khiền lòng mẹ buồn tủi trăm bề. Lúc đầu bà nín lặng, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp thằng con mình. Bà tủi thân khi “người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mày mở mặt sau này, còn mình thì …” Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt. Bà lại lo lắng không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này không.
b. Khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai:
“Vợ nhặt” không chỉ cho chúng ta thêm trân trọng những phẩm chất đáng quý của con người mà còn giúp ta hiểu thêm về khát vọng sống của họ. Cái đói, cái chết có thể khiến người ta phần nào tha hóa nhân cách nhưng hạnh phúc đã như một nguồn sinh lực thay đổi cuộc đời họ.
Cuộc hôn nhân lạ lùng của Tràng và người vợ nhặt ngoài đường là một minh chứng. Không phải trước đó Tràng không có khát khao hạnh phúc gia đình, có một người vợ chăm sóc mẹ già lúc đau yếu. Không phải Tràng không mơ về môt ngày nhà cửa sẽ sạch sẽ, gọn gàng, đàn gà ấp nở trong sân, vợ chồng mẹ con vui sum vầy. Cái cảnh chết chóc, tiếng khóc tỉ tê, cái đói rợn ngợp đã khiến con người ta có lúc tưởng như không đủ sức với tới hạnh phúc bé nhỏ ấy. Chỉ tới khi người đọc bắt gặp ánh mắt rạng rỡ, hân hoan của cả Tràng và bà cụ Tứ trước ngọn đèn hiếm hoi, chúng ta mới hiểu rằng nỗi khát khao ấy đã cháy bỏng da diết đến như thế nào trong lòng họ. Hài hào dầu phung phí đổi lấy một chút sáng sủa đón mừng hạnh phúc của con trai khiến bà cụ Tứ như khỏe và trẻ lại.
Những mảnh đời nghèo đói đến với nhau, cùng chắp nên một cuộc đời ấm áp, nhen nhóm lên hi vọng. Chủ nghĩa nhân đạo của nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm vào nhân vật, tác phẩm của mình vừa trực tiếp thể hiện qua tâm trạng nhân vật, vừa gián tiếp qua bố cục câu chuyện. Chiều hướng vận động của thời gian trong truyện đi từ chiều tàn, đêm tối tới ánh sáng từ tuyệt vọng tới hi vọng tràn trề, từ một ngọn đèn hiếm hoi được khêu lên đến hình ảnh “lá cờ đỏ” phấp phới trong trí nhớ của Tràng. Tất cả là tích cực, là sự tin tưởng vào khả năng thay đổi cuộc sống, hoàn cảnh của nhà văn và nhân vật. Một nhân cách, một khát vọng và một sự chuẩn bị cho tương lai yên ổn chắc chắn sẽ khiến mỗi người tự tin hơn. Và phải chăng qua lá cờ đỏ trên con đê, Kim Lân muốn báo trước một ngày mai rạng rỡ hơn, một cuộc đời mới được sưởi ấm bởi ánh sáng của ngọn đèn vĩnh cửu cách mạng?
=> Một lần nữa, chúng ta nhận thấy rằng dù ở đề tài nào, góc độ nào, nhân đạo luôn là giá trị cốt lõi của các tác phẩm văn học. nhờ có giá trị nhân đạo mà qua hơn nửa thế kỳ nay, người đọc vẫn cảm thấy gắn bó với con người, với những tình tiết của câu chuyện. Nỗi cơ cực của con người cùng với khát vọng sống của họ mãi mãi là vấn đề của văn học. Mỗi khám phá mới mẻ của một nhà văn đều nhằm hoàn thiện con người, bản thân họ cũng như cách nhìn của con người với cuộc đời.
Lòng nhân đạo sâu sắc từ tình yêu thương con người trong hai tác phẩm
4. So sánh điểm giống nhau và khác nhau:
a. Giống nhau:
Đều thể hiện sự cảm thông sâu sắc trước số phận bi thảm của con người, nhất là người nông dân trong xã hội cũ. Đều tố cáo, lên án các thế lực tàn bạo đã gây ra bi kịch cho con người và sự trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của người lao động.
b. Khác nhau:
– Ở truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
+ Nhà văn cảm thông trước số phận bi thảm của người lao động cùng cao Tây Bắc, đặc biệt là thân phận của người phụ nữ dước ách áp bức bóc lột của bọn chúa đất phong kiến.
+ Tố cáo, lên án tội ác của giai cấp phong kiến thống trị (điển hình là cha con thống lí Pa Tra: bắt trả lãi cắt cổ, bắt người gạt nợ, trói người đã man, tục trình ma, xử kiện không công bằng, …)
+ Trân trọng khát vọng tự do, tinh thần đấu tranh phản kháng của quần chúng bị áp bức.
– Trong truyện “Vợ nhặt”:
+ Đặt nhân vật vào một tình huống đặc biệt, độc đáo, bất ngờ, tác giả bày tỏ sự thương cảm trước số phận bi thảm của người nông dân bị nạn đói dồn đẩy đến bước đường cùng, giá trị con người trở nên rẻ mạc.
+ Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
+ Phát hiện và ngợi ca khát vọng sống, hạnh phúc, tình cảm cưu mang đùm bọc lẫn nhau giữa những người cùng chung cảnh ngộ và niềm tin hướng về một tương lai tươi sáng.
5. Lý giải sự giống nhau và khác nhau:
+ Do hoàn cảnh sáng tác.
+ Do phong cách, cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn.
III. Kết bài:
Mục lục bài viết