Logic – Wikipedia tiếng Việt

Logic (hợp lý, hữu lý, hàm lý) hay luận lý học, từ tiếng Hy Lạp cổ điển λόγος (logos), nghĩa nguyên thủy là từ ngữ, hoặc điều đã được nói, (nhưng trong nhiều ngôn ngữ châu Âu đã trở thành có ý nghĩa là suy nghĩ hoặc lập luận hay lý trí). Logic thường được nhắc đến như là một ngành nghiên cứu về tiêu chí đánh giá các luận cứ, mặc dù định nghĩa chính xác của logic vẫn là vấn đề còn đang được bàn cãi giữa các triết gia. Tuy nhiên khi môn học được xác định, nhiệm vụ của nhà logic học vẫn như cũ: làm đẩy mạnh tiến bộ của việc phân tích các suy luận có hiệu lực và suy luận ngụy biện để người ta có thể phân biệt được luận cứ nào là hợp lý và luận cứ nào có chỗ không hợp lý.

Theo truyền thống lịch sử, logic được nghiên cứu và điều tra như thể một nhánh của triết học. Kể từ giữa thế kỉ 19 logic đã thường được điều tra và nghiên cứu trong toán học và luật. Gần đây nhất logic được vận dụng vào khoa học máy tính và trí tuệ tự tạo. Là một ngành khoa học hình thức, logic điều tra và nghiên cứu và phân loại cấu trúc của những khẳng định chắc chắn và những lý lẽ, cả hai đều trải qua việc nghiên cứu và điều tra những hệ hình thức của việc suy luận và qua sự điều tra và nghiên cứu lý lẽ trong ngôn từ tự nhiên. Tầm bao quát của logic do vậy là rất rộng, đi từ những đề tài cốt lõi như là điều tra và nghiên cứu những lý lẽ ngụy biện và nghịch lý, đến những nghiên cứu và phân tích chuyên viên về lập luận, ví dụ điển hình lập luận có Tỷ Lệ đúng và những lý lẽ có tương quan đến quan hệ nhân quả. Ngày nay, logic còn được sử dụng thông dụng trong lý thuyết lý luận .

Qua suốt quá trình lịch sử, đã có nhiều sự quan tâm trong việc phân biệt lập luận tốt và lập luận không tốt, và do đó logic đã được nghiên cứu trong một số dạng ít nhiều là quen thuộc đối với chúng ta. Logic Aristotle chủ yếu quan tâm đến việc dạy lý luận thế nào cho tốt, và ngày nay vẫn được dạy với mục đích đó, trong khi trong logic toán học và triết học phân tích (analytical philosophy) người ta nhấn mạnh vào logic như là một đối tượng nghiên cứu riêng, và do vậy logic được nghiên cứu ở một mức độ trừu tượng hơn.

Các quan tâm về các loại logic khác nhau cho thấy rằng logic không phải là một ngành có thể nghiên cứu tách biệt. Trong khi logic thường có vẻ sự thúc đẩy chính nó, môn học này phát triển tốt nhất khi lý do mà chúng ta quan tâm đến logic được đặt ra một cách rõ ràng.

Một trong những tác phẩm logic sớm nhất còn sống sót đến ngày này là của Aristotle. [ 1 ] Logic của Aristotle được gật đầu thoáng đãng trong khoa học và toán học và vẫn còn được sử dụng thoáng rộng ở phương Tây đến đầu thế kỉ 19. [ 2 ] Hệ thống logic của Aristotle tương thích cho việc trình làng suy diễn giả định, [ 3 ] và logic quy nạp. [ 4 ] Ở châu Âu, trong cuối thời kỳ trung đại, có nhiều nỗ lực nhằm mục đích chứng tỏ những tư tưởng của Aristotle thích hợp với niềm tin Cơ Đốc. Trong suốt thời kỳ Trung kỳ Trung cổ, logic trở thành đề tài chính của những nhà triết học, những người muốn tham gia vào những cuộc tranh luận triết học về nghiên cứu và phân tích logic học .Logic trong triết học Hồi giáo, đặc biệt quan trọng là logic của Avicennia, chịu tác động ảnh hưởng lớn từ logic của Aristotle. [ 5 ]Tại Ấn Độ, những thay đổi trong phe phái triết học, gọi là Nyaya, tiếp nối từ thời cổ đại đến đầu thế kỉ 18 với phe phái Navya-Nyaya. Đến trước thế kỉ 16, nó đã tăng trưởng những kim chỉ nan giống với logic văn minh. [ 6 ]

Logic tam đoạn luận[sửa|sửa mã nguồn]

Tác phẩm Organon là một công trình của Aristotle về logic, với Phân tích tiên nghiệm (Prior Analytics) làm nên công trình rõ ràng đầu tiên về ngành logic hình thức và giới thiệu hình thức tam đoạn luận. Các phần thuộc về tam đoạn luận, cũng còn được biết đến dưới cái tên lôgic cổ truyền hay lôgic hạng tử (term logic), là sự phân tích các phán đoán thành các mệnh đề gồm hai hạng tử liên quan với nhau bởi một trong số một số các quan hệ định trước, và biểu diễn của sự suy luận bằng tam đoạn luận bao gồm 2 mệnh đề có chung một hạng tử với vai trò giả thuyết, và một kết luận là một mệnh đề chứa hai hạng tử chưa có quan hệ với nhau trong giả thuyết.

Vào thời Cổ đại và thời Trung cổ ở châu Âu, công trình của Aristotle được xem như là hình ảnh của một hệ thống đã được phát triển đầy đủ. Đó không phải là hệ thống duy nhất: các triết gia khắc kỷ (Stoics) đã đưa ra một hệ thống logic mệnh đề đã được nghiên cứu bởi các nhà logic học thời Trung cổ; và sự hoàn hảo của hệ thống Aristotle cũng không phải là không có bàn cãi; ví dụ như vấn đề tổng quát hóa nhiều lần được nhận ra trong thời trung cổ. Tuy nhiên, những vấn đề với hệ thống tam đoạn luận không được xem là cần có những giải pháp mang tính cách mạng.

Ngày nay, một số học giả cho rằng hệ thống Aristotle nhìn chung là không có giá trị gì hơn ngoài giá trị lịch sử (mặc dù có một số quan tâm đến việc mở rộng logic hạng tử), nó được xem là đã bị lỗi thời bởi sự ra đời của lôgic mệnh đề và phép tính vị từ (predicate calculus). Những người khác sử dụng lôgic Aristotle trong lý thuyết lý luận để giúp cho việc phát triển và xem xét kỹ càng các sơ đồ lý luận sử dụng trong trí tuệ nhân tạo và trong luật pháp.

Logic vị từ[sửa|sửa mã nguồn]

Môn Logic như được nghiên cứu ngày nay rất khác với môn học đã được nghiên cứu trước đây, và sự khác biệt chính là sự phát minh của logic vị từ. Trong khi logic tam đoạn luận của Aristote định ra những dạng thức cho những phần có liên quan với nhau trong mỗi phán đoán, logic vị từ cho phép các câu được phân tích thành chủ đề và các luận cứ theo nhiều cách khác nhau, do vậy cho phép logic vị từ giải quyết được vấn đề tổng quát hóa nhiều lần – vấn đề đã làm bối rối các nhà logic học thời trung cổ. Với logic vị từ, lần đầu tiên, các nhà logic học đã có khả năng đưa ra các phép lượng hóa (quantifiers) đủ tổng quát để diễn tả mọi luận cứ có mặt trong ngôn ngữ tự nhiên.

Sự khám phá ra logic vị từ thường được coi là công của Gottlob Frege, người cũng được xem là một trong những sáng lập viên của ngành triết học phân tích, nhưng dạng phát biểu có hệ thống thông dụng nhất ngày nay của logic vị từ là logic bậc nhất (first-order logic) được trình bày trong cuốn sách Các nguyên lý về logic lý thuyết (Grundzüge der theoretischen Logik) của David Hilbert và Wilhelm Ackermann vào năm 1928. Tính tổng quát có tính phân tích của logic vị từ cho phép hình thức hóa toán học và đẩy mạnh nghiên cứu về lý thuyết tập hợp, cho phép sự phát triển của cách tiếp cận của Alfred Tarski đối với lý thuyết mô hình; và không quá lời khi nói rằng nó là nền tảng của logic toán học hiện đại.

Hệ thống nguyên thủy của Frege về logic vị từ không phải là bậc nhất mà là bậc hai. Logic bậc hai được bảo vệ can đảm và mạnh mẽ nhất bởi George Boolos và Stewart Shapiro ( trước những phê phán của Willard Van Orman Quine và những người khác ) .

Logic mô thái[sửa|sửa mã nguồn]

Trong ngôn ngữ, tính mô thái nói đến hiện tượng các phần của một câu có thể bị thay đổi về ngữ nghĩa bởi các động từ đặc biệt hay các tiểu từ cách thức. Ví dụ, “Chúng ta đi xem trận đấu” có thể sửa lại thành “Chúng ta nên đi xem trận đấu“, và “Chúng ta có thể đi xem trận đấu“” và có thể “Chúng ta sẽ đi xem trận đấu“. Một cách trừu tượng hơn, chúng ta có thể nói rằng tính mô thái ảnh hưởng đến các hoàn cảnh trong đó chúng ta muốn một khẳng định được thỏa mãn.

Các nghiên cứu về mô thái trong logic đã có từ Aristotle. Ông đã quan tâm đến mô thái của sự cần thiết và các khả năng – hai thứ mà ông thấy rằng chúng có tính đối ngẫu theo kiểu tính đối ngẫu De Morgan. Trong khi việc nghiên cứu sự cần thiết và các khả năng vẫn còn quan trọng đối với các triết gia, có rất ít đổi mới trong logic cho đến thời của những nghiên cứu quan trọng của Clarence Irving Lewis vào năm 1918. Ông đã hệ thống hóa một họ các hệ thống tiên đề cạnh tranh lẫn nhau của alethic modalities. Công trình của ông đã mở ra một hướng cho một loạt các công trình trong đề tài này, mở rộng các loại mô thái đã được xem xét để bao gồm cả logic nghĩa vụ (deontic logic) và logic tri thức (Epistemic logic). Công trình hạt giống của Arthur Prior áp dụng cùng một ngôn ngữ hình thức để xử lý logic thời gian (temporal logic). Công trình này đã mở đường cho việc kết hợp hai ngành học này. Saul Kripke khám phá ra (cùng với các đối thủ) lý thuyết của ông về khung ngữ nghĩa, nó đã cách mạng hóa các kỹ thuật hình thức hiện có cho các nhà logic học về logic hình thức và đưa và một cách nhìn mới vấn đề mô thái theo hướng lý thuyết đồ thị và đã dẫn đến nhiều ứng dụng trong các ngành ngôn ngữ tính toán và khoa học máy tính, chẳng hạn như logic động (dynamic logic).

Suy diễn và lập luận[sửa|sửa mã nguồn]

Như đã nói ở trên, vào thời trung cổ, động cơ cho việc điều tra và nghiên cứu logic là để ta hoàn toàn có thể học cách phân biệt giữa luận cứ tốt với luận cứ không tốt, nhờ đó hoàn toàn có thể tranh luận và diễn thuyết hiệu suất cao hơn, và cũng có lẽ rằng để trở thành một người tốt hơn .

Động cơ này vẫn còn tồn tại, mặc dù nó không còn đóng vai trò trung tâm trong bức tranh toàn cảnh của logic; thông thường, logic biện chứng sẽ cấu thành trung tâm của một khóa học về tư duy phê phán (critical thinking), một khóa bắt buộc ở nhiều trường đại học, đặc biệt là các trường theo mô hình của Mỹ.

Logic toán học[sửa|sửa mã nguồn]

Logic toán học thực sự nói về hai lãnh vực điều tra và nghiên cứu khác nhau : thứ nhất là vận dụng của những kỹ thuật trong ngôn từ hình thức vào toán học và lập luận toán học, và thứ hai, theo một hướng khác, sự vận dụng của những kỹ thuật trong toán học vào việc màn biểu diễn và nghiên cứu và phân tích logic hình thức .Những vận dụng sớm nhất của toán học và hình học trong quan hệ với logic và triết học truy ngược về những người Hy Lạp cổ đại như Euclid, Plato, và Aristotle. Nhiều triết gia cổ đại và trung cổ khác đã vận dụng những ý tưởng sáng tạo và chiêu thức toán học vào những khẳng định chắc chắn triết học của họ .

Cố gắng táo bạo nhất để áp dụng logic vào toán học chắc chắn là chủ nghĩa luận lý (logicism) do các triết gia kiêm nhà logic như Gottlob Frege và Bertrand Russell đi tiên phong: ý tưởng là các lý thuyết toán học là những điều khẳng định mang tính logic, và chương trình cần chứng minh điều này bằng cách suy giản toán học về logic. Nhiều cố gắng khác nhau để tiến hành việc này đã gặp phải một loạt các thất bại, từ việc dự án của Frege trong công trình Grundgesetze bị nghịch lý Russell làm cho lụn bại, đến sự thất bại của chương trình Hilbert trước định lý Gödel về sự không toàn vẹn (của bất kì hệ thống logic nào).

Cả khẳng định của Chương trình Hilbert và sự phủ nhận nó bởi Gödel đều dựa trên các công trình của họ, thiết lập nên lãnh vực thứ hai của logic toán học, áp dụng của toán học vào logic dưới hình thức lý thuyết chứng minh. Mặc cho bản chất phủ định của các định lý về sự không toàn vẹn, định lý Gödel về sự toàn vẹn, một kết quả trong lý thuyết mô hình và một áp dụng khác của toán học vào logic, có thể được hiểu như là một
cách cho thấy logicism đã gần đạt tới tính đúng đắn như thế nào: bất kì lý thuyết toán nào được định nghĩa chặt chẽ đều có thể được thâu tóm một cách chính xác bởi một lý thuyết logic bậc nhất; tính toán chứng minh của Frege đủ
để mô tả toàn bộ toán học tuy không tương đương với nó. Do vậy chúng ta thấy được hai ngành đó hỗ trợ lẫn nhau như thế nào.

Nếu như lý thuyết chứng minh và lý thuyết mô hình đã là cơ sở của logic toán học, thì chúng chỉ là hai trong bốn trụ cột của ngành học đó. Lý thuyết tập hợp bắt nguồn trong sự nghiên cứu của Georg Cantor về sự vô hạn, và nó đã là nguồn của nhiều vấn đề quan trọng và thách thức nhất trong logic toán học, từ định lý Cantor, qua vị thế của Tiên đề của sự chọn lựa (Axiom of Choice) và câu hỏi về sự độc lập của giả thuyết về tính liên tục (continuum hypothesis), đến những tranh cãi hiện đại về những tiên đề về số đếm cực lớn (large cardinal).

Lý thuyết đệ quy thu tóm ý tưởng của việc tính toán với các toán hạng logic và số học; thành tựu cổ điển nhất của lý thuyết này là tính không quyết định được của bài toán Entscheidungsproblem mà Alan Turing đã tìm ra, và trình bày của ông về luận đề Church-Turing. Ngày nay, lý thuyết đệ quy liên quan chủ yếu đến bài toán tinh vi hơn về các lớp của độ phức tạp tính toán(complexity class) — khi nào thì bài toán có thể giải được một cách hiệu quả? — và sự phân loại về mức độ không giải được.

Logic triết học[sửa|sửa mã nguồn]

Logic triết học thao tác với những miêu tả hình thức của ngôn từ tự nhiên. Đa số những triết gia giả sử rằng phần đông những lập luận đúng đắn ” thông thường ” hoàn toàn có thể được thu tóm bởi logic, nếu như người ta hoàn toàn có thể tìm được giải pháp đúng đắn để dịch từ ngôn từ thường thì thành logic. Về thực chất, logic triết học là một sự liên tục của ngành khoa học truyền thống lịch sử được gọi là ” Logic ” trước khi nó bị hất cẳng bởi sự ý tưởng ra logic toán học. Logic triết học có một mối chăm sóc lớn hơn tới mối quan hệ giữa ngôn từ tự nhiên và logic. Kết quả là, những nhà logic triết học đã góp phần rất nhiều vào sự tăng trưởng của logic không chuẩn ( v. d., logic tự do, logic thời ) cũng như là những lan rộng ra khác của logic cổ xưa ( v. d., logic mô thái ), và những ngữ nghĩa không chuẩn cho những loại logic như vậy ( v. d., kỹ thuật Kripke về sự nhìn nhận trội trong ngữ nghĩa của logic ) .Logic và triết học ngôn từ có liên hệ mật thiết với nhau. Triết học ngôn từ có tương quan đến điều tra và nghiên cứu về tương tác giữa ngôn từ và tâm lý. Logic có một ảnh hưởng tác động lập tức trên những lãnh vực điều tra và nghiên cứu đó. Nghiên cứu logic và mối tương quan giữa logic và ngôn từ thường thì hoàn toàn có thể giúp một người tổ chức triển khai lý lẽ của họ một cách tốt hơn và giúp phê phán những lý lẽ của người khác. Nhiều lý lẽ thông dụng chứa đầy những lỗi do tại nhiều người không được huấn luyện và đào tạo logic và không biết cách trình diễn một lý lẽ thế nào cho đúng .Triết học ngôn từ đã trải qua một thời kỳ phục hưng trong thế kỉ 20 bởi khu công trình của Ludwig Wittgenstein .

Logic và đo lường và thống kê[sửa|sửa mã nguồn]

Logic là nội dung TT của khoa học máy tính từ khi ngành này được hình thành : khu công trình của Alan Turing về Entscheidungsproblem theo sau từ khu công trình của Kurt Gödel về những định lý về sự không toàn vẹn, và khái niệm của những máy tính dành cho mục tiêu tổng quát bắt nguồn từ khu công trình này đã có tầm quan trọng mang tính nền tảng so với những nhà phong cách thiết kế máy tính trong những năm 1940 .Trong những năm 1950 và 1960, những nhà nghiên cứu Dự kiến rằng khi tri thức của con người hoàn toàn có thể được trình diễn bằng logic và những ký hiệu toán học, sẽ có năng lực tạo ra một máy tính có năng lực lập luận, hay nói cách khác là trí tuệ tự tạo. Điều này hóa ra là khó khăn vất vả hơn đã Dự kiến do sự phức tạp trong lập luận của con người. Trong lập trình logic, một chương trình gồm có một tập hợp những tiên đề và những luật. Các mạng lưới hệ thống lập trình logic như Prolog đo lường và thống kê những hệ quả của những tiên đề và luật để vấn đáp một truy vấn .Ngày nay, logic được ứng dụng thoáng rộng trong những lãnh vực của trí tuệ tự tạo, và khoa học máy tính, và những ngành này cung ứng một nguồn dồi dào những bài toán trong logic hình thức và phi hình thức. Lý thuyết lý luận là một ví dụ tốt cho thấy logic được vận dụng vào trí tuệ tự tạo như thế nào .Thêm vào đó, máy tính hoàn toàn có thể được sử dụng như công cụ cho những nhà logic học. Ví dụ, trong logic hình tượng và logic toán học, những chứng tỏ bởi con người hoàn toàn có thể được tương hỗ bởi máy tính. Sử dụng chứng minh định lý tự động hóa, máy tính hoàn toàn có thể tìm ra và kiểm tra những chứng tỏ, cũng như là thao tác với những chứng tỏ quá dài cho việc viết ra

Lý thuyết lý luận[sửa|sửa mã nguồn]

Lý thuyết lý luận là một ngành nghiên cứu và điều tra về logic không hình thức, những điều không bình thường, và những câu hỏi phê phán tương quan đến những trường hợp trong thực tiễn hàng ngày. Các hội thoại đơn cử hoàn toàn có thể được nghiên cứu và phân tích và xem xét để làm lộ ra những giả thuyết, Tóm lại, và những điều vô lý. Lý thuyết lý luận ngày này được vận dụng trong trí tuệ tự tạo và luật .

Các điều còn tranh cãi trong logic[sửa|sửa mã nguồn]

Như là tất cả chúng ta đã thấy là có sự không chấp thuận đồng ý về việc như thế nào là logic, cũng có những sự không tương đồng về những giá trị thực sự trong logic .

Hai giá trị và quy luật loại trừ giá trị giữa[sửa|sửa mã nguồn]

Logic được bàn luận bên trên đều gọi là ” lưỡng giá trị ” hay là ” có hai giá trị ” ; nghĩa là, chúng được hiểu một cách tự nhiên nhất như thể chia những ý kiến đề nghị ra thành ý kiến đề nghị đúng hoặc đề xuất sai. Các mạng lưới hệ thống từ bỏ hai giá trị được biết đến như là logic không cổ xưa .Vào năm 1910 Nicolai A. Vasiliev bỏ đi quy luật loại trừ giá trị giữa và quy luật xích míc và ý kiến đề nghị luật giá trị thứ tư bị loại trừ và loại logic đồng ý xích míc. Trong đầu thế kỉ 20 Jan Łukasiewicz điều tra và nghiên cứu sự lan rộng ra của những giá trị truyền thống lịch sử đúng / sai để gồm có một giá trị thứ ba, ” hoàn toàn có thể “, do vậy ý tưởng ra logic ba giá trị, hệ logic đa giá trị tiên phong .Logic trực giác được ý kiến đề nghị bởi L.E.J. Brouwer như là logic đúng đắn cho việc lý luận về toán học, dựa trên sự từ bỏ của ông về luật loại trừ giá trị giữa như là một phần của chủ nghĩa trực giác của ông. Brouwer từ bỏ những công thức mạng lưới hệ thống trong toán học, nhưng học trò của ông là Arend Heyting nghiên cứu và điều tra logic trực giác một cách khuôn mẫu, cũng như Gerhard Gentzen. Logic trực giác đã được chăm sóc nhiều bởi những nhà khoa học máy tính, chính bới nó là một logic kiến thiết xây dựng, và do vậy là một loại logic mà những máy tính hoàn toàn có thể làm được .Modal logic không đúng với những điều kiện kèm theo, và do vậy thường được đề xuất như thể một ngành logic không cổ xưa. Tuy nhiên, modal logic thường thì được hệ thống hóa với nguyên tắc loại trừ giá trị chính giữa, và ngữ nghĩa quan hệ của nó là hai giá trị, do vậy sự gộp chung này là còn bàn cãi. Mặt khác, modal logic hoàn toàn có thể được sử dụng để mã hóa những logic không cổ xưa, ví dụ như logic trực giác .

Logic như là logic mờ (fuzzy logic) từ đó đã được đưa ra với vô hạn các giá trị “mức độ của sự thật”, biểu diễn bằng một số thực giữa 0 và 1. Xác suất Bayesian có thể được phiên dịch như là một hệ thống logic mà xác suất là giá trị sự thật khách quan.

Hệ quả : ngặt nghèo hay quan trọng ?[sửa|sửa mã nguồn]

Rõ ràng là khái niệm hệ quả được hệ thống hóa trong logic cổ điển không diễn dịch một cách thoải mái vào ngôn ngữ tự nhiên thông qua “nếu… thì…”, do một số vấn đề gọi là nghịch lý của các hệ quả cần thiết.

Loại những nghịch lý thứ nhất gồm có những sự kiện không có thật, ví dụ điển hình như thể ” Nếu mặt trăng được làm từ phô mát màu xanh, thì 2 + 2 = 5 “, là điều làm điên đầu chính do ngôn từ tự nhiên không ủng hộ nguyên tắc bùng nổ. Loại bỏ loại những nghịch lý này là nguyên do dẫn đến sự hợp thức hóa của C. I. Lewis về hệ quả ngặt nghèo, mà sau cuối dẫn đến những loại logic xem xét lại một cách hài hòa và hợp lý ví dụ điển hình như logic tương quan .

Loại các nghịch lý thứ hai liên quan đến những giả thuyết dư thừa, đưa ra những đề nghị sai lầm rằng chúng ta biết điều sau bởi vì điều trước đó: do đó “nếu như người đàn ông đó trúng cử, ông ngoại sẽ qua đời” sẽ hết sức đúng nếu như ông ngoại lỡ ở trong những giai đoạn cuối cùng của một căn bệnh không thể nào qua khỏi, không cần biết đến viễn cảnh về sự bầu cử của người đàn ông đó. Những câu phát biểu như vậy vi phạm châm ngôn Gricean về sự liên quan thích hợp, và có thể được mô phỏng bằng những loại logic loại bỏ nguyên lý tăng dần của sự kế thừa, chẳng hạn như logic liên quan (relevance logic).

Thỏa hiệp với điều không hề[sửa|sửa mã nguồn]

Liên quan gần hơn đến những câu hỏi đem lại từ những nghịch lý của hệ quả mang đến những đề nghị thích hợp rằng logic phải thỏa hiệp với những điều không nhất quán. Logic liên quan và logic nhất quán ghép là những cách tiếp cận quan trọng nhất ở đây, dù cho điều quan tâm là khác nhau: một hệ quả quan trọng của logic cổ điển và một số đối thủ của nó, ví dụ như logic trực giác, là chúng tôn trọng quy luật bùng nổ, nghĩa làm logic sẽ sụp đổ nếu như nó có khả năng suy ra được một điều mâu thuẫn. Graham Priest, người ủng hộ chính của dialetheism, đã lập luận cho sự nhất quán ghép nối (paraconsistency) trên những nền tảng đáng ngạc nhiên rằng trong thực tế, có những điều mâu thuẫn thực sự đúng (Priest 2004).

Có phải logic mang tính thực nghiệm ?[sửa|sửa mã nguồn]

Vị trí của các quy luật logic trong nhận thức luận là gì? Loại lập luận nào là thích hợp cho việc phê phán những nguyên lý nổi tiếng của logic? Trong một bài báo gây ảnh hưởng lớn tựa đề Có phải logic mang tính thực nghiệm? Hilary Putnam, xây dựng trên một đề nghị của W.V. Quine, lập luận rằng nhìn chung việc logic mệnh đề có một vị trí trong nhận thức luận tương tự như những sự kiện trong vũ trụ vật lý, chẳng hạn như các định luật cơ học hay của thuyết tương đối, và đặc biệt là những gì các nhà vật lý đã biết được về vật lý lượng tử đưa ra một trường hợp thuyết phục cho việc loại bỏ một số nguyên lý quen thuộc của logic cổ điển: nếu như chúng ta muốn là những người theo chủ nghĩa hiện thực về những hiện tượng vật lý mô tả bởi vật lý lượng tử, thì chúng ta nên bỏ nguyên tắc phân phối, thay thế logic cổ điển bởi logic lượng tử (quantum logic) đưa ra bởi Garrett Birkhoff và John von Neumann.

Một bài báo khác cùng tên bởi Sir Michael Dummett lập luận rằng mong muốn của Putnam về chủ nghĩa hiện thực đã ủy nhiệm cho luật phân phối: luật phân phối của logic là quan trọng cho sự hiểu biết của những người theo chủ nghĩa hiện thực là những mệnh đề đúng như thế nào trong thế giới, cũng cùng
một cách anh ta lập luận về nguyên tắc chỉ có hai giá trị. Trong cách này, câu hỏi Có phải logic mang tính thực nghiệm có thể thấy là sẽ dẫn đến một cách tự nhiên những tranh cãi căn bản trong siêu hình học (metaphysics) về chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa phi hiện thực.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://mix166.vn
Category: Thuật Ngữ

Xổ số miền Bắc