Tìm hiểu về đời sống văn hoá tinh thần là gì? – Luật ACC – ACC GROUP

Tóm tắt: Qua phân tích các văn bản định hướng của Đảng và ý kiến của một số nhà nghiên cứu, bài viết đưa ra thời điểm xuất hiện và quan niệm về các cụm từ đời sống văn hóa, môi trường văn hóa. Nội hàm môi trường văn hoá rộng hơn đời sống văn hoá. […]

Tóm tắt: Qua phân tích các văn bản định hướng của Đảng và ý kiến của một số nhà nghiên cứu, bài viết đưa ra thời điểm xuất hiện và quan niệm về các cụm từ đời sống văn hóa, môi trường văn hóa. Nội hàm môi trường văn hoá rộng hơn đời sống văn hoá. Đời sống văn hoá đề cập đến những điều kiện, những hành vi văn hoá của con người xuất phát từ nhu cầu đặt ra trong từng hoàn cảnh cụ thể của đời sống. Môi trường văn hoá đề cao vai trò chủ động của con người trong các mối quan hệ ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Xây dựng đời sống văn hoá là một nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng nằm trong chiến lược xây dựng môi trường văn hoá. Môi trường văn hoá bao gồm các yếu tố văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể, môi trường tự nhiên và trên hết là những con người hiện diện văn hoá.

Những năm gần đây, trong nhiều bài viết, giới nghiên cứu văn hoá có nói tới hai cụm từ đời sống văn hoá và môi trường văn hoá. Nội hàm hai cụm từ trên như thế nào đang là vấn đề đặt ra, cần sự thống nhất về nhận thức, đồng thời làm rõ sự khác biệt của hai cụm từ trên chính là tạo sự thuận lợi cho nhận thức và hành động trong triển khai xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.

Đời sống văn hoá là cụm từ mới được sử dụng rộng rãi ở nước ta vào những năm 80, 90 của thế kỷ XX. Tiền thân của cụm từ này là cụm từ đời sống mới, tiêu đề của bài viết dưới dạng hỏi – đáp, công bố năm 1947, tác giả Tân Sinh, một bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bối cảnh ra đời cụm từ này là dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vùng lên làm cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, đánh đổ thực dân Pháp và tầng lớp thống trị phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (mồng 2 tháng 9 năm 1945). Sau đó, chính quyền nhân dân non trẻ bắt tay vào sự nghiệp kiến quốc và kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Nhiệm vụ cấp bách đối với văn hoá lúc đó là diệt giặt dốt, cổ động toàn dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống giặc đói, cổ vũ tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm, xây dựng đạo đức cách mạng và sửa đổi nề nếp sinh hoạt trong đời sống của mỗi người, mỗi nhà và mỗi cộng đồng làng bản, đơn vị công tác. Đây là công việc mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, chưa từng có trong các giai đoạn lịch sử trước đó nên được gọi là xây dựng đời sống mới. Đoạn văn mở đầu bài viết xác định mục đích, nội dung của đời sống mới gồm:

Một là, thái độ ứng xử với cái cũ, cái mới trong đời sống của nhân dân một cách hợp tình, hợp lý: “Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết. Không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng nhiều phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm… Cái gì mới mà hay, thì phải làm…“[1].

Hai là, gắn văn hóa với lao động sản xuất: “Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn”.

Ba là, gắn văn hóa với xây dựng đời sống tinh thần, làm cho dân ta “tinh thần được vui mạnh hơn”.

Bốn là, xây dựng đạo đức mới: “Thực hành đạo đức cách mạng: Cần – Kiệm – Liêm – Chính”.

Năm là, xây dựng nếp sống mới: “Việc trước tiên là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc”.

Trong bối cảnh trình độ học vấn của dân ta còn thấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng từ “mới” thay cho từ “văn hoá” để cho dân dễ hiểu về xây dựng đời sống văn hoá. Có thể coi Đời sống mới là bài viết đầu tiên đặt cơ sở lý luận cho việc xây dựng đời sống văn hóa ra đời sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Cho mãi tới những năm 80 của thế kỷ XX, trong chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá, Đảng, Nhà nước vẫn sử dụng từ “mới” được hiểu là kết tinh hàm lượng văn hoá, tri thức, cách tổ chức, giá trị mới trong xây dựng nếp sống, nền văn hoá và con người. Ví dụ ngày 15/1/1975, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 214/CT-TW về việc thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, ngày giỗ, ngày hội. Văn kiện Đại hội IV (1976) của Đảng: “Ra sức xây dựng nền văn hoá mới, từng bước xây dựng nước ta thành một xã hội văn hóa cao”[2]. Năm 1980, Ban Chỉ đạo Nếp sống mới Trung ương được thành lập ở các cấp để chỉ đạo vận động xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hoá mới.

Cụm từ đời sống văn hoá xuất hiện trong văn kiện của Đảng từ Đại hội IV, đoạn viết: “Hết sức quan tâm tổ chức tốt đời sống văn hoá (tác giả nhấn mạnh) ở các vùng kinh tế mới, các nông trường, lâm trường, công trường ở các vùng dân

tộc, ở miền núi và hải đảo”[1]. Đến Đại hội V (1982), Đảng ta xác định rõ hơn nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hoá, nhất là đời sống văn hoá ở cơ sở, coi đó là một chủ trương quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng văn hoá và con người: “Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đảm bảo mỗi nhà máy, công trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, phường ấp, đều có đời sống văn hóa”[2]. Sau Đại hội V, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trở thành một phong trào phát triển sâu rộng trên địa bàn dân cư, đơn vị sản xuất, công tác, học tập tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức và nhu cầu hưởng thụ, sáng tạo văn hoá trong đời sống của mọi tầng lớp nhân dân. Từ đó, khái niệm về đời sống văn hoá ngày một sáng tỏ. Năm 1987, cuốn sách Đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam đã luận giải: “Đời sống văn hoá chính là những hành vi sống biểu hiện một trình độ văn hoá, bao gồm các hoạt động của xã hội, của tập thể, của từng cá nhân, nhằm mục đích văn hóa hoá tức là hoàn thiện con người”[3]. Năm 2000, cuốn Giáo trình Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng đưa ra khái niệm: “Đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm các yếu tố văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa vật thể, các thiết chế văn hóa) cũng như các yếu tố văn hóa động thái (con người và các dạng hoạt động văn hóa của nó)[4]. Năm 2007, cuốn Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng cho rằng đời sống văn hoá bao gồm 4 yếu tố: văn hoá vật thể và phi vật thể; cảnh quan văn hoá; văn hoá cá nhân; văn hoá của các “tế bào” trong mỗi cộng đồng, từ đó đưa ra khái niệm: “Đời sống văn hoá là một bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm tổng thể những yếu tố hoạt động văn hoá vật chất và tinh thần, những tác động qua lại lẫn nhau trong đời sống xã hội để tạo ra những quan hệ có văn hoá trong cộng đồng, trực tiếp hình thành nhân cách và lối sống của con người”[5].

Con người sinh ra và trưởng thành, muốn cho đời sống cá nhân được phong phú, lành mạnh thì tất yếu người đó có quan hệ đến:

– Đời sống vật chất: đảm bảo yếu tố cho người đó sinh tồn.

– Đời sống tinh thần: nhằm thỏa mãn nhu cầu ý thức về tình cảm, lý trí, nghị lực, tư tưởng của người đó.

– Đời sống xã hội: xã hội hình thành nhân cách con người. Bản thân mỗi người đều muốn sống với cộng đồng, thông qua cộng đồng để chứng minh, khẳng định phẩm chất, năng lực của mình và hoàn thiện bản thân.

Đời sống văn hóa có thể hiểu là mọi hoạt động của con người tác động đến đời sống vật chất, đời sống tinh thần và đời sống xã hội, hướng con người đi theo những nguyên tắc chân, thiện, mỹ, vươn lên với những chuẩn mực của chân, thiện, mỹ. nhằm loại bỏ các hình thức biểu hiện tiêu cực. xa lánh mọi người. Đời sống văn hóa là quá trình giao tiếp thông qua các hoạt động văn hóa nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Là quá trình các yếu tố văn hóa được con người tiếp thu tác động đến đời sống vật chất, từ đó làm thay đổi môi trường tự nhiên, tạo ra môi trường nhân văn, sản xuất ra nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội; tác động đến đời sống tinh thần giúp con người đáp ứng nhu cầu chủ quan của mình và thỏa mãn tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống của họ.Đời sống văn hóa luôn được truyền lại. Kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước và tạo dựng sự ổn định là điều kiện tiên quyết để khẳng định những giá trị mới.Đời sống văn hóa luôn đổi mới, vì con người luôn hướng thiện, chỉ có sáng tạo mạnh dạn, cải cách mạnh mẽ mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của nhân văn về của cải vật chất và dịch vụ.Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, đời sống văn hóa là hiện thực sinh động của các hoạt động của con người trong môi trường sống nhằm duy trì và tái sản xuất đồng thời các sản phẩm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tinh thần không ngừng tác động và biến đổi tự nhiên và xã hội theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định, đáp ứng nhu cầu cập nhật và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.Thuật ngữ môi trường văn hóa lần đầu tiên xuất hiện trong Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng (1996): “Mọi hoạt động văn hóa, nghệ thuật phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đặc sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam vững mạnh về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm và lối sống, tạo môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội (tác giả nhấn mạnh) [1] Trước đây, các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam cũng đã tiếp thu những lý luận về môi trường văn hóa từ các học giả nghiên cứu văn hóa ở Liên Xô cũ, năm 1981, quyển sáchCơ sở lý luận văn hóa của chủ nghĩa Mác-Lênin, do A. I. Armondov chủ biên và Nhà xuất bản Văn hóa dịch thuật Nga xuất bản, đưa ra một khái niệm như vậy: khác. Chúng tác động đến hoạt động phát triển và sáng tạo giá trị văn hóa, nhu cầu tinh thần, sở thích và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hóa không chỉ là sự tổng hòa các yếu tố văn hóa vật chất mà còn là sự tồn tại văn hóa của con người.

Đời sống văn hóa có thể hiểu là mọi hoạt động của con người tác động đến đời sống vật chất, đời sống tinh thần và đời sống xã hội, hướng con người đi theo những nguyên tắc chân, thiện, mỹ, vươn lên với những chuẩn mực của chân, thiện, mỹ. nhằm loại bỏ các hình thức biểu hiện tiêu cực. xa lánh mọi người. Đời sống văn hóa là quá trình giao tiếp thông qua các hoạt động văn hóa nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Là quá trình các yếu tố văn hóa được con người tiếp thu tác động đến đời sống vật chất, từ đó làm thay đổi môi trường tự nhiên, tạo ra môi trường nhân văn, sản xuất ra nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội; tác động đến đời sống tinh thần giúp con người đáp ứng nhu cầu chủ quan của mình và thỏa mãn tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống của họ.Đời sống văn hóa luôn được truyền lại. Kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước và tạo dựng sự ổn định là điều kiện tiên quyết để khẳng định những giá trị mới.Đời sống văn hóa luôn đổi mới, vì con người luôn hướng thiện, chỉ có sáng tạo mạnh dạn, cải cách mạnh mẽ mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của nhân văn về của cải vật chất và dịch vụ.Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, đời sống văn hóa là hiện thực sinh động của các hoạt động của con người trong môi trường sống nhằm duy trì và tái sản xuất đồng thời các sản phẩm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tinh thần không ngừng tác động và biến đổi tự nhiên và xã hội theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định, đáp ứng nhu cầu cập nhật và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.Thuật ngữ môi trường văn hóa lần đầu tiên xuất hiện trong Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng (1996): “Mọi hoạt động văn hóa, nghệ thuật phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đặc sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam vững mạnh về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm và lối sống, tạo môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội (tác giả nhấn mạnh) [1] Trước đây, các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam cũng đã tiếp thu những lý luận về môi trường văn hóa từ các học giả nghiên cứu văn hóa ở Liên Xô cũ, năm 1981, quyển sáchCơ sở lý luận văn hóa của chủ nghĩa Mác-Lênin, do A. I. Armondov chủ biên và Nhà xuất bản Văn hóa dịch thuật Nga xuất bản, đưa ra một khái niệm như vậy: khác. Chúng tác động đến hoạt động phát triển và sáng tạo giá trị văn hóa, nhu cầu tinh thần, sở thích và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hóa không chỉ là sự tổng hòa các yếu tố văn hóa vật chất mà còn là sự tồn tại văn hóa của con người.

Quan niệm trên chỉ cho rõ hai thành tố quan trọng của môi trường văn hoá:

  1. Những yếu tố vật thể (vật thể tự nhiên và vật thể nhân tạo).
  2. Nhân cách (có thể hiểu là hành vi văn hoá biểu hiện ở cộng đồng người và cá thể người).

Hai thành tố này ảnh hưởng đến quá trình sáng tạo, hưởng thụ, phổ biến các giá trị văn hoá và ý chí vươn lên của con người hướng tới chuẩn mực giá trị nhất định.

Ở một góc nhìn khác, tác giả Đỗ Huy cho rằng “Môi trường văn hoá chính là môi trường nhân hóa” và từ góc nhìn giá trị học nhấn mạnh vai trò của con người: “Môi trường văn hoá chính là sự vận động của các quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình“[2].

Đánh giá từ vị trí của 8 văn bản lớn và thực tiễn sinh động của phong trào văn hóa đầu những năm 1990 (thế kỷ XX): phong trào xây dựng đại gia đình văn hóa; làng, thôn, buôn nhỏ văn hóa; khu dân cư văn hóa; môi trường văn hóa quân sự…, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đặc sắc dân tộc quy định 10 nhiệm vụ xây dựng cơ bản (1998) Văn hóa Việt Nam, nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa là lớn thứ hai sau nhiệm vụ tạo ra con người. Nghị quyết đề ra mục tiêu xây dựng môi trường văn hóa là: “Tạo dựng môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở (gia đình, thôn, làng, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường…), lâm trường, nhà trường, đơn vị quân đội. ..), khu dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi…) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và ngày càng cao của nhân dân.” Đồng thời, Nghị quyết trên cũng chỉ rõ những vấn đề cần quan tâm cụ thể của việc xây dựng một môi trường văn hóa: “Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam Thời trang Nâng vai emlàm gương cho cha mẹ. Coi trọng việc xây dựng gia đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa gia đình, nhà trường và xã hội.Thực hiện có chiều sâu các hoạt động xây dựng thôn, làng, xã, khu phố văn hóa, tăng cường tính tự quản của cộng đồng trong xây dựng nếp sống văn minh.Từng bước thu hẹp khoảng cách về đời sống văn hóa giữa đô thị và nông thôn, giữa vùng kinh tế phát triển với vùng núi, vùng sâu, vùng biển, hải đảo, giữa các tầng lớp nhân dân.Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm quốc gia. Củng cố hoạt động của các đoàn văn nghệ chuyên nghiệp và thực hiện các hoạt động văn hóa nghệ thuật quần chúng.

Đánh giá từ vị trí của 8 văn bản lớn và thực tiễn sinh động của phong trào văn hóa đầu những năm 1990 (thế kỷ XX): phong trào xây dựng đại gia đình văn hóa; làng, thôn, buôn nhỏ văn hóa; khu dân cư văn hóa; môi trường văn hóa quân sự…, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đặc sắc dân tộc quy định 10 nhiệm vụ xây dựng cơ bản (1998) Văn hóa Việt Nam, nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa là lớn thứ hai sau nhiệm vụ tạo ra con người. Nghị quyết đề ra mục tiêu xây dựng môi trường văn hóa là: “Tạo dựng môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở (gia đình, thôn, làng, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường…), lâm trường, nhà trường, đơn vị quân đội. ..), khu dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi…) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và ngày càng cao của nhân dân.” Đồng thời, Nghị quyết trên cũng chỉ rõ những vấn đề cần quan tâm cụ thể của việc xây dựng một môi trường văn hóa: “Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam Thời trang Nâng vai emlàm gương cho cha mẹ. Coi trọng việc xây dựng gia đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa gia đình, nhà trường và xã hội.Thực hiện có chiều sâu các hoạt động xây dựng thôn, làng, xã, khu phố văn hóa, tăng cường tính tự quản của cộng đồng trong xây dựng nếp sống văn minh.Từng bước thu hẹp khoảng cách về đời sống văn hóa giữa đô thị và nông thôn, giữa vùng kinh tế phát triển với vùng núi, vùng sâu, vùng biển, hải đảo, giữa các tầng lớp nhân dân.Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm quốc gia. Củng cố hoạt động của các đoàn văn nghệ chuyên nghiệp và thực hiện các hoạt động văn hóa nghệ thuật quần chúng.

Với Nghị quyết Trung ương 5, chúng ta đã có bước tiến tư duy về xây dựng môi trường văn hóa. Nội dung xây dựng môi trường văn hoá quy lại gồm các thành tố chính dưới đây:

– Xây dựng đời sống văn hoá ở các đơn vị cơ sở

– Xây dựng gia đình, cộng đồng dân cư văn hoá

– Xây dựng nếp sống văn minh

– Xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hoá.

– Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức, phong trào văn hoá, văn nghệ.

Nội dung trên chưa làm rõ yếu tố nhân cách và môi trường tự nhiên trong xây dựng môi trường văn hóa. Những bất cập này được bổ sung bởi nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh được đặt ra trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững (2014). Đảng ta đã tiếp thu học thuyết phát triển bền vững của UNESCO, gồm ba trụ cột cơ bản: kinh tế bền vững, xã hội bền vững và môi trường bền vững, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển con người trên phạm vi toàn cầu. Nghị quyết Trung ương 9 nêu rõ tư tưởng chỉ đạo “xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, đề cao vai trò của gia đình, cộng đồng”, đồng thời nhấn mạnh vấn đề nhân cách văn hóa, bảo vệ môi trường tự nhiên trong nội dung xây dựng môi trường văn hóa: “Mọi nơi, cộng đồng, cơ quan, đơn vị Mọi tổ chức, đoàn thể phải là môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện nhân cách, lối sống của con người. Kết hợp xây dựng môi trường văn hóa với bảo vệ môi trường sinh thái. Tích hợp nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân tích cực giáo dục xã hội.Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, vun đắp nhân cách văn hóa, giáo dục lối sống của con người. Tiếp nối các giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và nhân rộng mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, nề nếp, ông bà mẫu mực, cha mẹ hiếu thảo với con cháu, vợ chồng hòa thuận, anh em đoàn kết, thân ái. Xây dựng mỗi trường học thực sự là trung tâm văn hóa, giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống cho con người; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ”.Do đó, thông qua việc phân loại các tài liệu của đảng về các vấn đề văn hóa và môi trường, có thể thấy tư duy của đảng về các vấn đề văn hóa và môi trường ngày càng rõ ràng hơn. Nội hàm môi trường văn hóa rộng hơn đời sống văn hóa. Đời sống văn hóa là những điều kiện và hành vi văn hóa do con người tạo ra trong những hoàn cảnh sống cụ thể khác nhau nhằm thỏa mãn khát vọng hưởng thụ và sáng tạo văn hóa. Môi trường văn hóa đề cao vai trò tích cực của con người với tư cách là sản phẩm của văn hóa và là chủ thể sáng tạo văn hóa trong mối quan hệ giữa ứng xử, tự nhiên và môi trường xã hội. Ổn định, phát triển, hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ và không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Xây dựng đời sống văn hóa là trung tâm, nhiệm vụ quan trọng của chiến lược xây dựng môi trường văn hóa. Môi trường văn hóa bao gồm văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể, môi trường tự nhiên và các thành tố khác, đặc biệt là con người trong nền văn hóa.Tóm lại, môi trường văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất là sự tồn tại của các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể do con người sáng tạo ra; sự tồn tại của các yếu tố vật chất tự nhiên xung quanh con người trở thành nơi và điều kiện tồn tại của con người; tồn tại trong và tác động qua lại, dẫn dắt con người theo các chuẩn mực giá trị xã hội

5/5 – (2480 bình chọn)

✅ Dịch vụ thành lập công ty
⭕ ACC cung cấp dịch vụ thành lập công ty/ thành lập doanh nghiệp trọn vẹn chuyên nghiệp đến quý khách hàng toàn quốc

✅ Đăng ký giấy phép kinh doanh
⭐ Thủ tục bắt buộc phải thực hiện để cá nhân, tổ chức được phép tiến hành hoạt động kinh doanh của mình

✅ Dịch vụ ly hôn
⭕ Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn ly hôn, chúng tôi tin tưởng rằng có thể hỗ trợ và giúp đỡ bạn

✅ Dịch vụ kế toán
⭐ Với trình độ chuyên môn rất cao về kế toán và thuế sẽ đảm bảo thực hiện báo cáo đúng quy định pháp luật

✅ Dịch vụ kiểm toán
⭕ Đảm bảo cung cấp chất lượng dịch vụ tốt và đưa ra những giải pháp cho doanh nghiệp để tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác

✅ Dịch vụ làm hộ chiếu
⭕ Giúp bạn rút ngắn thời gian nhận hộ chiếu, hỗ trợ khách hàng các dịch vụ liên quan và cam kết bảo mật thông tin

Nội dung trên chưa làm rõ yếu tố nhân cách và môi trường tự nhiên trong xây dựng môi trường văn hóa. Những bất cập này được bổ sung bởi nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh được đặt ra trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững (2014). Đảng ta đã tiếp thu học thuyết phát triển bền vững của UNESCO, gồm ba trụ cột cơ bản: kinh tế bền vững, xã hội bền vững và môi trường bền vững, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển con người trên phạm vi toàn cầu. Nghị quyết Trung ương 9 nêu rõ tư tưởng chỉ đạo “xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, đề cao vai trò của gia đình, cộng đồng”, đồng thời nhấn mạnh vấn đề nhân cách văn hóa, bảo vệ môi trường tự nhiên trong nội dung xây dựng môi trường văn hóa: “Mọi nơi, cộng đồng, cơ quan, đơn vị Mọi tổ chức, đoàn thể phải là môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện nhân cách, lối sống của con người. Kết hợp xây dựng môi trường văn hóa với bảo vệ môi trường sinh thái. Tích hợp nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân tích cực giáo dục xã hội.Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, vun đắp nhân cách văn hóa, giáo dục lối sống của con người. Tiếp nối các giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và nhân rộng mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, nề nếp, ông bà mẫu mực, cha mẹ hiếu thảo với con cháu, vợ chồng hòa thuận, anh em đoàn kết, thân ái. Xây dựng mỗi trường học thực sự là trung tâm văn hóa, giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống cho con người; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ”.Do đó, thông qua việc phân loại các tài liệu của đảng về các vấn đề văn hóa và môi trường, có thể thấy tư duy của đảng về các vấn đề văn hóa và môi trường ngày càng rõ ràng hơn. Nội hàm môi trường văn hóa rộng hơn đời sống văn hóa. Đời sống văn hóa là những điều kiện và hành vi văn hóa do con người tạo ra trong những hoàn cảnh sống cụ thể khác nhau nhằm thỏa mãn khát vọng hưởng thụ và sáng tạo văn hóa. Môi trường văn hóa đề cao vai trò tích cực của con người với tư cách là sản phẩm của văn hóa và là chủ thể sáng tạo văn hóa trong mối quan hệ giữa ứng xử, tự nhiên và môi trường xã hội. Ổn định, phát triển, hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ và không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Xây dựng đời sống văn hóa là trung tâm, nhiệm vụ quan trọng của chiến lược xây dựng môi trường văn hóa. Môi trường văn hóa bao gồm văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể, môi trường tự nhiên và các thành tố khác, đặc biệt là con người trong nền văn hóa.Tóm lại, môi trường văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất là sự tồn tại của các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể do con người sáng tạo ra; sự tồn tại của các yếu tố vật chất tự nhiên xung quanh con người trở thành nơi và điều kiện tồn tại của con người; tồn tại trong và tác động qua lại, dẫn dắt con người theo các chuẩn mực giá trị xã hội