Tông huấn Amoris Laetitia – Niềm Vui Của Tình Yêu

AMORIS LAETITIA

NIỀM VUI CỦA TÌNH YÊU

Tông huấn hậu Thượng
Hội đồng
về Tình Yêu Trong Gia Đình

của Đức Thánh Cha
PHANXICÔ

gửi các Giám mục,
các
linh mục và các phó tế,
các người sống đời
thánh hiến,
các cặp vợ chồng kitô
hữu
và tất cả mọi tín hữu
giáo dân

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

AA: Apostolicam
Actuositatem.
Sắc lệnh về Tông đồ
Giáo dân hoạt động Tông đồ của CĐ
Vatican II (18.11.1965)

AAS: Acta
Apostolicae Sedis
. Các văn kiện chính thức của Tông Tòa.

AD: Ad
Gentes
. Sắc lệnh về Hoạt động Truyền giáo của Giáo hội Đến với muôn dân của CĐ Vatican II (7.12.1965)

CC: Casti
connubii.
Thông điệp Hôn nhân khiết tịnh
của ĐGH Piô IX (31.12.1930)

DCE: Deus
Caritas Est
. Thông điệp Thiên
Chúa là tình yêu
của ĐGH Bênêđictô XVI (25.12. 2005)

EG: Evangelii
Gaudium
. Tông huấn hậu THĐ Niềm vui
Tin mừng
của Đức Giáo Hoàng Phanxicô (24.11.2013)

EV: Evangelium
Vitae
. Thông điệp Tin Mừng Sự sống
của ĐGH Gioan Phaolô II (25.3.1995)

FC: Familiaris
Consortio
. Tông huấn hậu THĐ Các Bổn
phận của Gia đình
của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II (22.11.1981)

GL: Bộ
Giáo Luật Giáo hội Latinh
1983.

GLĐP: Bộ
Giáo Luật Giáo hội Đông Phương.

GLĐ: (Thánh
Bộ) Giáo Lý Đức Tin.

GLHTCG: Giáo lý Hội thánh Công Giáo 1992

GS: Gaudium
et Spes
. Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Vui
mừng và Hi vọng
của CĐ Vatican II (7.12.1965)

HĐGM: Hội Đồng
Giám mục

HG: Huấn
Giáo ngày thứ Tư
hằng tuần của Đức Giáo hoàng

HV: Humanae
Vitae
. Thông điệp Sự Sống Con Người
của Thánh Giáo hoàng Phaolô VI (25.7.1968)

LF: Lumen
fidei.
Thông điệp Ánh sáng Đức tin
của ĐGH Phanxicô (29.6.2013)

LG: Lumen
Gentium.
Hiến chế tín lý về Hội thánh Ánh
sáng muôn dân
của CĐ Vatican II (21.11.1964)

LS: Laudato
Si’
. Thông điệp Chúc tụng Chúa của
ĐGH Phanxicô về Chăm sóc Ngôi Nhà Chung (24.5.2015)

MCC: Mystici
Corporis Christi.
Thông điệp Nhiệm thể
Chúa Kitô
của ĐGH Piô XII (29.6.1943)

MV: Misericordiae
Vultus
. Tông sắc Dung Mạo của Lòng
Thương Xót
của ĐGH Phanxicô (11.4.2015)

RF: Relatio
Finalis.
Phúc trình chung kết của THĐGM tại Đại Hội Thường lệ lần XIV
(24.10.2015)

RH: Redemptoris
hominis.
Thông điệp Đấng Cứu chuộc
con người
 của ĐGH Gioan Phaolô II
(4.3.1979)

RS: Relatio
Synodi
. Phúc trình của THĐGM tại Đại Hội Ngoại thường lần III (18.10.2014)

ST: Summa
Theologiae
. Tổng Luận Thần Học của Thánh Tôma Aquinô.

Th: Tông huấn

Thđ: Thông điệp

THĐGM: Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới

TT: Tòa Thánh

CHƯƠNG
I – DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA. 4

      Bạn
và hiền thê của bạn. 5

      Bầy
con của bạn như những cây ô-liu mơn mởn. 7

      Một
con đường đau khổ và đẫm máu. 9

      Công
khó tay bạn làm ra. 10

      Dịu
dàng vòng tay ôm ấp. 11

CHƯƠNG
II – THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA GIA ĐÌNH. 13

      Thực
trạng của gia đình. 13

      Một
số thách đố. 24

CHƯƠNG
III – NHÌN NGẮM ĐỨC GIÊSU: ƠN GỌI GIA ĐÌNH. 28

      Đức
Giêsu phục hồi và hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa. 29

      Gia
đình trong các văn kiện của Giáo Hội 31

      Bí
tích Hôn Phối 33

      Hạt
giống của Lời và những hoàn cảnh bất toàn. 36

      Thông
truyền sự sống và nuôi dạy con cái 37

      Gia
đình và Hội thánh. 40

CHƯƠNG
IV – TÌNH YÊU TRONG HÔN NHÂN. 41

      Tình
yêu hằng ngày của chúng ta. 42

      Tình
yêu thương thì nhẫn nhục. 42

      Nhân
hậu. 43

      Chữa
lành ghen tương. 44

      Không
vênh vang, không tự đắc. 44

      Không
khiếm nhã. 45

      Quảng
đại (Không tìm tư lợi) 47

      Không
nóng giận không nuôi hận thù. 47

      Dung
thứ. 48

      Vui
với người khác. 50

      Tha
thứ tất cả. 50

      Tin
tưởng. 51

      Hi vọng. 52

      Chịu
đựng tất cả. 53

      Lớn
lên trong tình bác ái phu phụ. 54

      Chia
sẻ mọi sự suốt cuộc đời 55

      Niềm
vui và vẻ đẹp. 57

      Kết
hôn vì tình yêu. 59

      Một
tình yêu tự biểu lộ và tăng trưởng. 60

      Đối
thoại 61

      Tình
yêu đam mê. 63

      Thế
giới cảm xúc. 64

      Thiên
Chúa yêu thích niềm vui của con cái Ngài 65

      Chiều
kích dục tình của tình yêu. 66

      Bạo
lực và thao túng. 68

      Hôn
nhân và trinh khiết 70

      Sự
biến đổi của tình yêu. 73

CHƯƠNG
V – TÌNH YÊU TRỞ NÊN PHONG NHIÊU. 74

      Tiếp
đón một sự sống mới 75

      Yêu
thương chờ đợi trong lúc mang thai 76

      Tình
yêu của người mẹ và của người cha. 78

      Mở rộng
sự phong nhiêu. 81

      Phân
định nhiệm thể. 84

      Đời
sống gia đình theo nghĩa rộng. 85

      Con
cái 86

      Người
cao niên. 87

      Anh
chị em.. 88

      Một
trái tim lớn. 89

CHƯƠNG
VI – MỘT SỐ VIỄN ẢNH MỤC VỤ. 90

      Loan
báo Tin mừng gia đình ngày nay. 90

      Hướng
dẫn những người đính hôn trong hành trình chuẩn bị hôn nhân. 93

      Việc
chuẩn bị cử hành hôn lễ. 96

      Đồng
hành trong những năm đầu đời hôn nhân. 98

      Một
số nguồn lực. 102

      Soi
sáng những khủng hoảng, những âu lo và khó khăn. 105

      Thách
đố của những cuộc khủng hoảng. 106

      Những
vết thương cũ. 109

      Đồng
hành sau khi đổ vỡ và li dị 110

      Một
số hoàn cảnh phức tạp. 113

      Khi
cái chết gây đau thương. 115

CHƯƠNG
VII – CỦNG CỐ VIỆC GIÁO DỤC CON CÁI 118

      Con
cái của chúng ta đang ở đâu?. 118

      Huấn
luyện đạo đức cho con cái 120

      Việc
sửa phạt có giá trị kích hoạt 121

      Thực
tiễn trong kiên nhẫn. 123

      Đời
sống gia đình như một khung cảnh giáo dục. 124

      Cần
có giáo dục giới tính. 127

      Thông
truyền đức tin. 130

CHƯƠNG
VIII – VIỆC ĐỒNG HÀNH, PHÂN ĐỊNH VÀ HỘI NHẬP NHỮNG HOÀN CẢNH CHÔNG CHÊNH. 132

      Tiệm
tiến trong mục vụ. 133

      Phân
định những hoàn cảnh “bất qui tắc” 135

      Những
hoàn cảnh giảm khinh trong việc phân định mục vụ. 139

      Luật
lệ và sự phân định. 140

      Tâm
tư của lòng thương xót trong mục vụ. 142

CHƯƠNG
IX – LINH ĐẠO HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH. 145

      Một
linh đạo hiệp thông siêu nhiên. 146

      Họp
nhau cùng cầu nguyện trong ánh sáng Phục sinh. 147

      Linh
đạo của tình yêu tự do và độc hữu. 148

      Một
linh đạo chăm sóc, an ủi và khích lệ. 149

      Lời
cầu nguyện với Thánh Gia. 152

1. NIỀM VUI của TÌNH YÊU trong đời sống của các gia đình
cũng là niềm vui của Hội thánh. Như các nghị phụ trong Thượng Hội đồng đã ghi
nhận, mặc dầu vẫn có nhiều dấu chỉ cho thấy có khủng hoảng trong đời sống hôn
nhân, “khát vọng có được một mái ấm gia đình vẫn còn rất mạnh mẽ, đặc biệt nơi
những người trẻ, và vẫn đang là cảm hứng của Hội thánh”[1].
Như một đáp ứng cho khát vọng này, “loan báo Kitô giáo về gia đình đích thực là
một tin vui”[2].

2. Hành trình của Thượng Hội đồng đã giúp phác họa lại
hoàn cảnh các gia đình trong thế giới hiện nay, giúp chúng ta có cái nhìn rộng
lớn hơn và ý thức mới mẻ hơn về tầm quan trọng của hôn nhân và gia đình. Đồng
thời, tính phức tạp của các đề tài được đề cập đến cho chúng ta thấy cần phải
tiếp tục đào sâu thêm cách tự do một số vấn đề liên quan đến đạo lý, luân lý,
linh đạo và mục vụ. Những suy tư của các mục tử và các nhà thần học, nếu trung
thành với Hội thánh, trung thực, thực tiễn và sáng tạo, sẽ giúp chúng ta thấy
được vấn đề cách rõ ràng hơn. Những tranh cãi trên các phương tiện truyền thông
hay trên các sách báo và ngay cả giữa các thừa tác viên của Hội thánh, đi từ ước
muốn quá cao muốn thay đổi mọi sự mà không có suy tư đầy đủ, hoặc thiếu nền tảng,
đến thái độ tham vọng, muốn giải quyết tất cả mọi sự bằng cách áp dụng những
quy tắc chung hoặc bằng cách rút ra những kết luận không thích đáng từ một số
suy tư thần học cá biệt.

3. Khi nhắc lại “thời gian thì quan trọng hơn không gian”,
tôi muốn khẳng định lại rằng không phải tất cả mọi tranh luận về đạo lý, luân
lý hay mục vụ cần phải được giải quyết bằng can thiệp của Huấn quyền. Dĩ nhiên,
trong Hội thánh cần một sự hiệp nhất về đạo lý và về thực hành, nhưng điều đó
không ngăn cản việc có những giải thích khác nhau về một số khía cạnh của đạo
lý hay một số những hệ luận nảy sinh từ đó. Sẽ là như thế cho đến khi Thần Khí
dẫn đưa chúng ta đến chân lý toàn vẹn (cf. Ga
16,13), tức là, khi Ngài đưa chúng ta đi vào trọn vẹn trong mầu nhiệm Chúa Kitô
và khi chúng ta có thể thấy được tất cả mọi sự bằng cái nhìn của chính Chúa
Kitô. Ngoài ra, trong mỗi xứ sở hay vùng miền, vẫn có thể tìm ra được những giải
đáp thích hợp hơn với văn hóa của họ, quan tâm hơn đến các truyền thống và các
thách thức mang tính địa phương. Bởi vì “các nền văn hóa rất khác nhau và mỗi
nguyên lý chung […] cần phải được thích nghi với từng nền văn hóa, nếu muốn được
tuân giữ và áp dụng”[3].

4. Dù sao, tôi vẫn phải nói rằng tiến trình Thượng Hội đồng
cho thấy đã mang một vẻ đẹp rất hùng vĩ và nhiều khai sáng. Tôi cảm ơn tất cả mọi
đóng góp đã giúp tôi xem xét những vấn đề của các gia đình trên thế giới trong
tầm vóc bao quát nhất. Các tham luận của các Nghị phụ mà tôi đã chăm chú lắng
nghe, đối với tôi, nói chung là một viên ngọc quí đa diện, tạo nên từ nhiều nỗi
bận tâm chính đáng cũng như từ những vấn nạn trung thực và chân thành. Vì thế,
tôi nghĩ là thích hợp để biên soạn một Tông huấn hậu Thượng Hội đồng nhằm thâu
gom lại những đóng góp của hai Thượng Hội đồng vừa qua về gia đình, và bổ sung
thêm những nhận xét khác nữa có thể định hướng suy tư, đối thoại và thực hành mục
vụ, và đồng thời góp phần động viên, cổ vũ và giúp đỡ các gia đình trong nỗ lực
dấn thân cũng như trong những khó khăn của họ.

5. Tông huấn này mang một ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh
Năm Thánh Lòng Thương Xót. Trước tiên, bởi vì tôi coi Tông huấn này như một đề
nghị cổ vũ các gia đình Kitô hữu hãy biết quí trọng các ân huệ hôn nhân và gia
đình, duy trì một tình yêu mạnh mẽ và đong đầy các giá trị như lòng quảng đại,
sự dấn thân, trung tín và kiên nhẫn. Thứ đến, bởi vì Tông huấn này muốn khích lệ
mọi người hãy là một dấu chỉ của lòng thương xót và gần gũi ở những nơi mà cuộc
sống gia đình chưa được trọn vẹn hay còn thiếu vắng bình an và niềm vui.

6. Để triển khai bản văn, tôi sẽ bắt đầu với một chương dẫn
nhập được gợi hứng từ Thánh Kinh, để mang một cung giọng phù hợp. Từ đó, tôi sẽ
xem xét hoàn cảnh hiện nay của các gia đình nhằm bám sát thực tế. Tiếp đến, tôi
sẽ nhắc lại một số yếu tố cốt yếu theo giáo huấn của Hội thánh về hôn nhân và
gia đình, từ đó triển khai hai chương trung tâm, dành để nói về tình yêu. Để tiếp
tục, tôi sẽ nêu rõ một số đường lối mục vụ hướng chúng ta đến việc xây dựng gia
đình bền vững và phong nhiêu theo kế hoạch của Thiên Chúa, và tôi sẽ dành một
chương nói về việc giáo dục con cái. Sau đó, tôi sẽ đưa ra lời mời gọi thực
thi lòng thương xót và phân định mục vụ khi đối diện với những hoàn cảnh không
đáp ứng đầy đủ những gì Chúa đề nghị, và cuối cùng tôi sẽ đưa ra vài nét phác họa
về linh đạo gia đình.

7. Do hoa trái phong phú của hai năm suy tư với hai Thượng
Hội đồng, Tông huấn này sẽ đề cập đến nhiều đề tài khác nhau, với những cách thức
khác nhau. Điều đó giải thích độ dài như phải có của Tông huấn. Vì thế, tôi
không khuyến khích người ta đọc Tông huấn này một cách vội vàng và hời hợt.
Tông huấn này sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn cho các gia đình cũng như cho các
tác viên mục vụ gia đình, nếu được đào sâu từng phần một cách kiên nhẫn, hay nếu
người ta tìm trong đó những điều mình cần cho từng hoàn cảnh cụ thể. Chẳng hạn,
có thể các cặp vợ chồng sẽ quan tâm nhiều hơn các chương bốn và năm, còn các
tác viên mục vụ quan tâm hơn đến chương sáu và mọi người đều cảm thấy chương
tám thật là một thách đố đối với mình. Tôi hi vọng rằng, qua việc đọc Tông huấn
này, mỗi người sẽ cảm thấy mình được mời gọi yêu mến chăm sóc đời sống gia
đình, bởi lẽ các gia đình “không phải là một vấn đề, mà trước tiên là một cơ hội”[4].

8.         
Thánh Kinh nói nhiều về các gia đình, các thế hệ, các
câu chuyện tình và những khủng hoảng gia đình, từ trang đầu, ngay khi bước vào
khung cảnh gia đình của Ađam và Eva, cùng với gánh nặng của bạo lực, có cả sức
mạnh của sự sống vẫn tiếp (cf. St 4),
cho đến trang cuối nơi xuất hiện tiệc cưới của Hôn thê và Con chiên (Kh 21,2.9). Đức Giêsu mô tả hai ngôi
nhà, một xây trên đá và một xây trên cát (cf. Mt 7,24-27), tượng trưng cho bao tình huống gia đình, tạo nên bởi tự
do của các thành viên sống trong đó, vì như một thi sĩ kia đã viết: “mỗi ngôi
nhà đều là một trụ đèn”[5]. Giờ đây, theo sự dẫn dắt của
tác giả thánh vịnh, chúng ta hãy bước vào một trong những ngôi nhà này qua một
khúc hát mà ngày nay vẫn còn vang lên trong phụng vụ lễ cưới của Do Thái cũng
như Kitô giáo:

“Hạnh phúc thay bạn
nào kính sợ Chúa,
Ăn ở theo đường lối của
Người
Công khó tay bạn làm,
bạn được an hưởng,
Bạn quả là lắm phúc
nhiều may.

Hiền thê bạn trong cửa
trong nhà
Khác nào cây nho đầy
hoa trái;
Và bầy con tựa những
cây ô-liu mơn mởn,
xúm xít tại bàn ăn.

Đó chính là phúc lộc
Chúa dành cho kẻ kính sợ Người.

Xin Chúa từ Sion xuống
cho bạn muôn vàn ơn phúc.
Ước chi trong suốt cả
cuộc đời
Bạn được thấy
Giêrusalem phồn thịnh,
được sống lâu bên đàn
con cháu.

Nguyện chúc Israel vui
hưởng thái bình!”
(Tv 128,1-6).

9. Vì thế, chúng ta hãy bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà bình
yên này, với cả gia đình cùng đang ngồi quanh bàn tiệc. Ở trung tâm bàn tiệc,
chúng ta thấy đôi vợ chồng là cha và mẹ, với cả câu chuyện tình yêu của họ. Nơi
họ thể hiện ý định thuở ban đầu chính Đức Kitô đã mạnh mẽ gợi lên: “Các ông đã
không đọc thấy điều này sao: ‘Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có
nam có nữ’?” (Mt 19, 4). Và Người nhắc
lại lệnh truyền của sách Sáng Thế: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó
với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24).

10. Hai chương đầu hùng tráng của sách Sáng Thế cống hiến
cho chúng ta hình ảnh cặp vợ chồng nhân loại trong thực tại nền tảng sâu xa nhất
của nó. Bản văn khởi đầu ấy của Thánh Kinh đã lóe sáng lên một số khẳng định
quan trọng. Khẳng định đầu tiên, đã được Đức Giêsu trích dẫn cách tổng hợp,
tuyên bố: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng
tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có
nữ” (St 1,27). Thật đáng ngạc nhiên,
hạn từ “hình ảnh Thiên Chúa” chiếm vị trí song song diễn giải bởi hạn từ cặp
đôi “nam và nữ”. Phải chăng điều đó có nghĩa chính Thiên Chúa cũng có phái
tính, hay Ngài cũng có một người bạn đời thần linh, như một số tôn giáo cổ xưa
vẫn chủ trương? Dĩ nhiên là không, bởi vì chúng ta biết rõ Thánh Kinh đã bác bỏ
những tín ngưỡng tôn thờ ngẫu tượng được phổ biến giữa những người Canaan ở Đất
Thánh. Người ta bảo vệ tính siêu việt của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa đồng
thời cũng là Đấng Tạo Hóa, nên đặc tính phong nhiêu của đôi vợ chồng nhân loại
là “hình ảnh” sống động và hữu hiệu, dấu chỉ hữu hình của hành vi sáng tạo.

11. Đôi vợ chồng yêu thương và sinh sản đích thực là “tác
phẩm điêu khắc” sống động (không phải ngẫu tượng điêu khắc bằng đá hay bằng
vàng mà Thập giới cấm ngặt), có thể biểu tỏ được Thiên Chúa Đấng sáng tạo và cứu
độ. Vì thế, tình yêu phong nhiêu mới có thể trở thành biểu tượng cho những thực
tại thâm sâu bên trong Thiên Chúa (cf. St
1,28; 9,7; 17,2-5.16; 28,3; 35,11; 48,3-5). Đó là lí do giải thích tại sao
trình thuật sách Sáng Thế này, theo cái gọi là “truyền thống tư tế”, được đan dệt
nên bởi những tầng lớp phả hệ khác nhau (cf. St 4,17-22.25-26; 5; 10; 11,10-32; 25,1-4.12-17.19-26; 36): bởi vì
khả năng sinh sản của đôi vợ chồng nhân loại là con đường mà lịch sử cứu độ diễn
tiến. Dưới ánh sáng này, mối quan hệ phong nhiêu của đôi vợ chồng trở thành một
hình ảnh để khám phá ra và diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa, nền tảng trong cái
nhìn Kitô giáo về Mầu nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi, chiêm ngắm Thiên Chúa như là
Cha, Con và Thánh Thần Tình Yêu. Thiên Chúa-Ba Ngôi là mầu nhiệm hiệp thông
tình yêu, và gia đình là phản ảnh sống động của mầu nhiệm hiệp thông ấy. Những
lời sau đây của thánh Gioan-Phaolô II soi sáng cho chúng ta: “Thiên Chúa trong
mầu nhiệm thẳm sâu nhất của Ngài không đơn độc nhưng là một gia đình vì lẽ Thiên Chúa trong Ngài có
Cha, có Con và có Yếu tính của gia đình, tức là Tình Yêu. Trong gia đình thần
linh, tình yêu này chính là Chúa Thánh Thần”[6].
Như thế, gia đình không là điều gì xa lạ gì với chính yếu tính thần linh[7]. Khía cạnh tam vị này nơi cặp
vợ chồng có một hình ảnh mới mẻ trong thần học của Phaolô khi thánh Tông đồ đặt
gia đình trong tương quan với “mầu nhiệm” kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội thánh
(cf. Ep 5,21-33).

12. Nhưng Đức Giêsu, khi nói về hôn nhân, còn gợi cho chúng
ta một trang khác của sách Sáng Thế, chương 2, qua đó hé lộ cho thấy một chân
dung tuyệt vời với những chi tiết rạng rỡ của cặp vợ chồng. Trong số đó chúng
ta chỉ chọn hai chi tiết mà thôi. Chi tiết thứ nhất, đó là nỗi ưu tư của người
đàn ông đi tìm cho mình “một trợ tá tương xứng” (St 2,18-20), khả dĩ lấp đầy được nỗi cô đơn bức bối mà sự gần gũi của
các loài vật và mọi thụ tạo cũng không khỏa lấp được. Nguyên ngữ tiếng Hipri gợi
lên một cuộc gặp gỡ trực tiếp, như là “mặt đối mặt” – mắt nhìn mắt – trong một
cuộc đối thoại thinh lặng, bởi vì trong tình yêu sự thinh lặng thường diễn tả
nhiều hơn lời nói. Đó là sự gặp gỡ một khuôn mặt, một “đối tác” phản chiếu tình
yêu Thiên Chúa và là “thiện ích đệ nhất, là có được một trợ tá tương xứng, và
trụ cột để tựa nương”, như một hiền triết trong Thánh Kinh đã nói (Hc 36,24). Hoặc như cô dâu trong sách Diễm
ca đã thốt lên một lời tuyên xưng diệu kỳ về tình yêu và về ân huệ người ta
trao ban cho nhau: “Người tôi yêu thuộc trọn về tôi và tôi thuộc trọn về chàng
[…] Tôi thuộc trọn về người tôi yêu, người tôi yêu thuộc trọn về tôi!” (Dc 2,16; 6,3).

13. Từ cuộc gặp gỡ chữa lành được nỗi cô đơn này, phát sinh
sự sống mới và gia đình. Và sau đây là chi tiết thứ hai mà chúng ta có thể ghi
nhận: Ađam, vốn cũng là con người của mọi thời đại và của tất cả mọi vùng miền
trên hành tinh này của chúng ta, cùng với vợ mình, khai sinh một gia đình mới,
như Đức Giêsu đã nhắc lại bằng cách trích dẫn sách Sáng thế: “Người ta sẽ lìa
cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt 19,5; cf. St 2,24). Động từ “gắn bó”, trong nguyên ngữ Hipri, chỉ một sự hòa
điệu sâu xa, một sự gắn bó cả về thể xác lẫn tâm hồn đến độ nó được dùng để diễn
tả sự kết hiệp với Thiên Chúa: “Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó” (Tv 63,9), như tác giả thánh vịnh vẫn
hát. Sự kết hợp hôn nhân như vậy gợi lên không chỉ trong chiều kích tính dục và
thân xác mà còn cả trong sự trao hiến tình yêu tự nguyện. Kết quả của sự kết hợp
này là “trở thành một xương một thịt”, hoặc bằng việc hai thân xác gắn chặt với
nhau, hoặc bằng sự kết hợp giữa hai con tim và đời sống và, có lẽ, nơi đứa con
được sinh ra từ cả hai sẽ mang trong mình “cốt nhục” của cả cha lẫn mẹ, không
chỉ về di truyền học mà cả về tâm linh nữa.

14. Chúng ta hãy trở lại với bài ca của tác giả thánh vịnh.
Bài ca này cho thấy bên trong ngôi nhà có người chồng và người vợ đang ngồi tại
bàn ăn, con cái quây quần bên họ như “những cây ô-liu mơn mởn” (Tv 128,3), tức là tràn đầy sinh lực. Nếu
cha mẹ như là nền móng của ngôi nhà, thì con cái như là “những viên đá sống động”
của gia đình (cf. 1 Pr 2,5). Thật ý
nghĩa, trong Cựu Ước từ ngữ được sử dụng nhiều nhất sau tên gọi Thiên Chúa (YHWH, “Đức Chúa”) lại là từ “người con”
(ben), một từ ngữ vốn có liên hệ đến
động từ Hipri có nghĩa “xây dựng” (banah).
Vì thế, trong thánh vịnh 127, ơn huệ con cái được tôn vinh bằng hình tượng hoặc
như việc xây dựng một ngôi nhà, hoặc như đời sống xã hội và thương mại diễn ra
tại các cổng thành: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công
[…] Này con cái là hồng ân của Chúa, con mình sinh hạ là phần thưởng Chúa ban.
Bầy con sinh ra thời son trẻ tựa nắm tên người dũng sĩ cầm tay. Hạnh phúc thay
người nào đeo ống đầy loại tên như thế! Họ sẽ không nhục nhã khi phải đến cửa
công tranh tụng với địch thù.” (Tv
127,1.3-5). Đã hẳn, những hình ảnh này phản ảnh nền văn hóa của một xã hội thời
xa xưa, nhưng sự hiện diện của những đứa con, dẫu sao vẫn là một dấu chỉ của một
gia đình sung mãn, tiếp nối liên tục của chính lịch sử cứu độ, từ đời này qua đời
khác.

15. Trong viễn tượng đó, giờ đây chúng ta có thể giới thiệu
một chiều kích khác nữa của gia đình. Chúng ta biết rằng trong Tân Ước người ta
nói về “Hội thánh hội họp tại nhà” (cf. 1
Cr
16,19; Rm 16,5; Cl 4,15; Plm 2). Một không gian sống động của gia đình có thể biến thành Hội
thánh tại gia, một khung cảnh cho Bí tích Thánh Thể, có sự hiện diện của Chúa
Kitô tại bàn ăn. Chúng ta không thể nào quên hình ảnh của sách Khải huyền,
trong đó Chúa nói: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa,
thì Ta sẽ vào nhà người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Như vậy, người ta đã phác họa
một mái ấm gia đình, là nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa, có kinh nguyện
chung và, như thế, có phúc lành của Chúa. Đó chính là điều đã được khẳng định bởi
thánh vịnh 128 mà chúng ta coi như nền tảng: “Đó chính là phúc lộc Chúa dành
cho kẻ kính sợ Người. Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc!” (Tv 128,4-5a).

16. Thánh Kinh còn coi gia đình như là trường giáo lý của
con cái. Điều đó được minh họa trong phần mô tả cử hành lễ Vượt qua (cf. Xh 12,26-27; Đnl 6,20-25), và sau đó đã được giải thích thêm trong các haggadah của người Do Thái, tức là trong
trình thuật dưới hình thức mẫu đối thoại kèm theo nghi thức bữa ăn tưởng niệm
biến cố Vượt qua. Ngoài ra, còn có một thánh vịnh đề cao việc loan báo đức tin
trong gia đình: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình,
chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp
lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kì công Chúa đã làm. Người đã ban huấn lệnh
cho nhà Gia-cóp, đặt ra lề luật cho Israel, dạy tổ tiên chúng tôi truyền lại
cho con cháu các cụ được tường, hầu thế hệ tương lai kẻ hậu sinh cũng biết, rồi
mai ngày đến lượt kể cho con cháu mình.” (Tv
78,3-6). Vì thế, gia đình là nơi cha mẹ trở thành những thầy dạy đầu tiên về đức
tin cho con cái. Đó là một công trình “lưu truyền” từ người này sang người
khác: “Vậy mai ngày con của ngươi có hỏi: ‘Điều đó nghĩa là gì?’ Thì ngươi sẽ
nói với nó: ‘Đức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa chúng ta ra khỏi
Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ’” (Xh 13,14).
Như vậy, nhiều thế hệ khác nhau sẽ lên tiếng ca tụng Đức Chúa, “nào là nam
thanh, nào là nữ tú, khắp mặt bô lão, khắp mặt nhi đồng” (Tv 148,12).

17. Cha mẹ có trách nhiệm phải hoàn tất cách nghiêm túc sứ
mạng giáo dục của mình, như lời dạy bảo thường xuyên của các bậc khôn ngoan
trong Thánh Kinh (cf. Cn 3,11-12;
6,20-22; 13,1; 22,15; 23,13-14; 29,17). Phần con cái thì được mời gọi gẫm suy
và thực hành giới răn: “Hãy thờ cha kính mẹ” (Xh 20,12), động từ “thờ kính” ở đây có liên quan đến việc hoàn tất
những cam kết trong gia đình và xã hội cách đầy đủ, không được xao nhãng lấy cớ
được miễn chuẩn tôn giáo (cf. Mc
7,11-13). Thực ra, “ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho
báu (Hc 3,3-4).

18. Tin mừng cũng nhắc nhở chúng ta rằng con cái không phải
là một thứ tài sản của gia đình, nhưng trước mắt chúng có cuộc sống riêng của
mình để sống. Nếu quả thực Đức Giêsu vẫn tỏ ra mẫu mực vâng phục cha mẹ trần thế
của Người, khi tuân phục các ngài (cf. Lc
2,51), thì hẳn Người cũng cho thấy việc chọn lựa cách sống của người con và
chính ơn gọi làm người kitô hữu có thể đòi hỏi phải có một khoảng độc lập nào
đó với gia đình để thực hiện việc hiến dâng cho Nước Chúa (cf. Mt 10,34-37; Lc 9,59-62). Hơn nữa, chính Người lúc 12 tuổi đã trả lời cho Mẹ
Maria và Thánh Giuse là Người còn có một sứ mạng quan trọng hơn để hoàn tất
ngoài phạm vi gia đình trần thế của Người (cf. Lc 2,48-50). Bởi thế Người đề cao sự cần thiết phải có những mối
dây liên kết sâu xa khác nữa cả trong những mối tương quan gia đình: “Mẹ tôi và
anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21). Đàng khác, khi quan tâm đến
các trẻ nhỏ trong xã hội của vùng Cận đông cổ đại vốn vẫn coi chúng như những
chủ thể chẳng có lấy một quyền lợi đặc biệt nào, thậm chí có khi còn bị coi như
những đồ vật mà gia đình sở hữu, Đức Giêsu còn đi đến chỗ giới thiệu các em nhỏ
cho người lớn như là những thầy dạy, vì tính đơn sơ tin tưởng và hồn nhiên của
các em đối với những người khác: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại
mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như
em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18,3-4).

19. Diễm tình ca được trình bày trong Thánh vịnh 128 không
phủ nhận một thực tế đắng cay vốn ghi dấu trên toàn bộ Thánh Kinh. Đó là sự hiện
diện của đau khổ, sự ác và bạo lực có sức phá vỡ đời sống gia đình và sự hiệp
thông thân mật trong đời sống và tình yêu. Không phải là vô cớ mà diễn từ của Đức
Kitô về hôn nhân (cf. Mt 19,3-9) lại
được đưa vào cuộc tranh luận về li dị. Lời Chúa không ngừng chứng thực chiều
kích tăm tối vốn đã được để lộ ra ngay từ thuở ban đầu, khi mà do tội lỗi,
tương quan  yêu thương và trong sáng giữa
người nam và người nữ biến thành sự thống trị: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi,
và nó sẽ thống trị ngươi” (St 3,16).

20. Con đường đau khổ và đẫm máu trải dài qua nhiều trang
Thánh Kinh. Khởi đầu từ sự kiện Cain sát hại em mình là Aben, đến các cuộc cãi
vã giữa những người con và các bà vợ của Tổ phụ Abraham, Isaac và Giacop, và tiếp
theo là những bi kịch đẫm máu của nhà Đavit, cho đến bao nhiêu khó khăn của gia
đình gặp thấy trong câu chuyện của Tôbia hoặc lời thú nhận đắng cay của Giop
khi bị bỏ rơi: “Anh em tôi, Người đẩy họ xa tôi. Người quen biết coi tôi như
người dưng nước lã […] Hơi thở tôi khiến vợ tôi ghê tởm, mùi hôi thối xông ra
làm cho anh em tôi gớm ghiếc.” (G 19,13.17).

21. Chính Đức Giêsu được sinh ra trong một gia đình khiêm hạ,
sớm đã phải trốn chạy sang một vùng đất xa lạ. Người ghé thăm nhà của Phêrô nơi
bà mẹ vợ của ông đang nằm bệnh (cf. Mc 1,30-31);
Người liên đới với nhà ông Giairô hay nhà của Ladarô trong biến cố đau buồn chết
chóc (cf. Mc 5,22-24.35-43; Ga 11,1-44); Người nghe được tiếng kêu
khóc tuyệt vọng của bà góa thành Nain trước cảnh đứa con bà đã chết (cf. Lc 7,11-15); Người chạnh lòng trước lời
khẩn cầu của người cha có đứa con bị động kinh trong một ngôi làng nhỏ thôn quê
(cf. Mc 9,17-27). Người gặp gỡ những
người thu thuế như Mátthêu hay Dakêu trong nhà riêng của họ (Mt 9,9-13; Lc 19,1-10), và cả những người tội lỗi như người phụ nữ đã lẻn vào
ngôi nhà của người biệt phái (cf. Lc
7,36-50). Người biết những lo âu và căng thẳng mà các gia đình phải chịu đựng,
và Người đã đưa chúng vào trong các dụ ngôn của Người: từ những đứa con bỏ nhà
cha mẹ đi hoang (cf. Lc 15,11-32) cho
đến những đứa con khó khăn ương bướng (cf. Mt
21,28-31) hay làm mồi cho bạo lực (cf. Mc
12,1-9). Và Người cũng quan tâm đến tiệc cưới gặp lúng túng vì có nguy cơ bị
thiếu rượu (cf. Ga 2,1-10) hay vì
khách mời không tới dự tiệc (cf. Mt
22,1-10), Người còn biết cả đến nỗi lo của một gia đình nghèo lỡ đánh mất một đồng
xu (cf. Lc 15,8-10).

22. Lướt qua toàn cảnh như thế, chúng ta có thể thừa nhận rằng
Lời Chúa không được mạc khải như một chuỗi luận đề trừu tượng, mà như một người
bạn đồng hành an ủi ngay cả các gia đình đang gặp khủng hoảng hay đang trải qua
đau khổ nào đó, và chỉ cho họ thấy đích đến của cuộc hành trình, khi mà Thiên
Chúa “sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc,
kêu than và đau khổ nữa” (Kh 21,4).

23. Ở đầu Thánh vịnh 128, người cha xuất hiện như một người
lao động, dùng lao động của đôi bàn tay mình mà bảo đảm cho gia đình có được những
phúc lợi vật chất và được yên bình: “Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn
quả là lắm phúc nhiều may” (Tv
128,2). Lao động là một phần thiết yếu làm nên phẩm giá của đời sống con người,
điều đó được rút ra từ những trang sách đầu tiên của Thánh Kinh, khi đọc thấy rằng
“con người đã được đặt vào trong vườn Êđen để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2,15). Đó là hình ảnh người lao động biến
đổi được vật chất và khai thác được những sức mạnh của thiên nhiên, trong khi tạo
ra “tấm bánh do công khó tay bạn làm” (Tv
127,2), và cũng qua đó con người tự làm cho mình triển nở. 

24. Lao động cũng đồng thời vừa giúp cho xã hội phát triển
vừa nuôi sống gia đình, giúp gia đình được ổn định và phồn thịnh: “Ước chi
trong suốt cả cuộc đời, bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên
đàn con cháu” (Tv 128,5-6). Sách Châm
ngôn cũng trình bày công việc của người mẹ trong gia đình, công việc hằng ngày
của bà được mô tả trong từng chi tiết, chồng con cũng nức lòng ca tụng (cf. Cn 31,10-31). Chính Tông đồ Phaolô cũng
tỏ ra tự hào vì mình đã không trở thành gánh nặng cho người khác, bởi vì ngài
đã lao động với đôi bàn tay của mình và như vậy tự bảo đảm được cho cuộc sống của
mình (cf. Cv 18,3; 1 Cr 4,12; 9,12). Thánh Phaolô rất xác
tín về sự cần thiết phải làm việc đến nỗi ngài đã đưa ra một qui luật gắt gao
cho các cộng đoàn của ngài: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2 Tx 3,10; cf. 1 Tx 4,11).

25. Nói như thế, hẳn
người ta hiểu được nỗi khổ đau về tình trạng thất nghiệp và việc làm bấp bênh,
như được phản ảnh trong sách Rút và như điều Đức Giêsu đã gợi ra trong dụ ngôn
những người vô công rỗi nghề vì không có công ăn việc làm nên ngồi không nơi
các quảng trường (cf. Mt 20,1-16), hoặc
như kinh nghiệm Người từng trải qua về những người nghèo túng và đói khát xung
quanh Người. Đó là tình trạng bi đát của xã hội mà nhiều quốc gia đang phải
đương đầu, và việc thiếu công ăn việc làm cũng gây tổn hại nhiều đến sự yên ổn
của các gia đình

26. Chúng ta cũng không thể quên sự suy thoái xã hội do tội
lỗi đã gây ra, khi con người cư xử tàn bạo với thiên nhiên, như khi tàn phá
thiên nhiên, sử dụng thiên nhiên cách ích kỉ và tàn nhẫn. Những hậu quả xuất hiện
từ đó vừa là tình trạng sa mạc hóa trái đất (cf. St 3,17-19), vừa là tình trạng mất quân bình về mặt kinh tế và xã hội,
đó là những tình trạng mà các tiên tri xưa đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ, khởi
đi từ Êlia (cf. 1 V 21) cho đến những
lời của Đức Giêsu chống lại sự bất công (cf. Lc 12,13-21; 16,1-31).

27. Đức Kitô đã đề ra dấu hiệu phân biệt ai là môn đệ Người,
đó là luật yêu thương và sự trao hiến chính mình cho người khác (cf. Mt 22,39; Ga 13,34), và Người đã thực hiện điều đó qua một nguyên tắc mà người
cha và người mẹ thường thể hiện trong cuộc sống của mình: “Không có tình thương
nào cao cả hơn tình thương của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”
(Ga 15,13). Lòng thương xót và sự tha
thứ cũng là hoa quả của tình thương. Về điều này, chúng ta có một ví dụ rất
tiêu biểu, đó là sự kiện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình được
dẫn tới trước Đền thờ Giêrusalem, chị bị bao vây bởi những người tố cáo, nhưng
sau đó khi còn lại một mình với Đức Giêsu, Người không kết án chị nhưng mời gọi
chị đi về sống một cuộc sống xứng đáng hơn (cf. Ga 8,1-11).

28. Trong viễn cảnh của tình yêu, là điều cốt yếu trong
kinh nghiệm Kitô giáo về hôn nhân và gia đình, còn nổi lên một nhân đức khác mà
thế giới của những tương quan cuồng nhiệt và hời hợt ngày nay không biết đến.
Đó là sự dịu dàng. Chúng ta hãy tham chiếu Thánh vịnh 131, một thánh vịnh ngọt
ngào và nồng nàn. Người ta cũng có thể nhận ra nơi các bản văn khác (cf. Xh 4,22; Is 49,15; Tv 27,10), sự kết
hợp giữa người tín hữu và Đức Chúa của mình được diễn tả qua ngôn ngữ tình yêu
phụ tử hay mẫu tử. Ở đây cho thấy sự mật thiết tinh tế và dịu dàng giữa mẹ và
con, một bé thơ ngủ yên trong vòng tay mẹ sau khi đã được bú sữa no nê. Theo
nghĩa của từ gamul trong tiếng Hipri,
người ta nói đến một đứa trẻ đã dứt sữa đang nép mình vào lòng mẹ, trong vòng
tay mẹ ẵm. Như thế, có một sự gần gũi có ý thức chứ không chỉ có tính sinh học.
Bởi thế tác giả Thánh vịnh mới hát lên: “Hồn con, con vẫn trước sau, giữ cho
thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng
lẽ an vui.” (Tv 131,2). Song song với
Thánh vịnh 131, chúng ta còn có thể nói đến một diễn cảnh khác, trong đó tiên
tri Hôsê đặt vào môi miệng Thiên Chúa như vào môi miệng người cha những lời đầy
cảm xúc này: “Khi Israel còn là đứa trẻ, Ta đã yêu thương nó […]. Ta đã tập đi
cho nó, đã đỡ cánh tay nó […]. Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi
kéo nó. Ta xử với nó như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má; Ta cúi xuống gần
nó mà đút cho nó ăn” (Hs 11,1.3-4).

29. Với cái nhìn này của đức tin và tình yêu, của ân sủng
và dấn thân, của gia đình nhân loại và Mầu nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi, chúng ta
chiêm ngắm mẫu gia đình mà Lời Chúa kí thác vào đôi tay của người đàn ông, của
người đàn bà và của con cái để hình thành nên sự hiệp thông giữa các ngôi vị,
là hình ảnh của sự hợp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Rồi đến
việc sinh sản và giáo dục con cái, đó lại là phản ánh công trình tạo dựng của
Chúa Cha. Gia đình được mời gọi cùng nhau cầu nguyện hằng ngày, đọc Lời Chúa và
hiệp thông trong Thánh Thể để làm cho tình yêu ngày một lớn lên và luôn hoán cải
để xứng đáng là đền thờ của Chúa Thánh Thần.

30. Trước mỗi gia đình, hình ảnh gia đình thánh Nadaret vẫn
xuất hiện, với những nỗi vất vả thường ngày thậm chí với cả những cơn ác mộng,
như khi thánh gia phải chịu đựng hành vi bạo lực phi lí của vua Hêrôđê, đó cũng
là kinh nghiệm bi thương mà ngày nay vẫn tiếp tục tái diễn trong nhiều gia đình
tị nạn bị bỏ rơi không được bảo vệ. Như các nhà đạo sĩ xưa, các gia đình cũng
được mời đến chiêm ngắm Hài Nhi và Đức Mẹ, để bái lạy và tôn thờ Người (cf. Mt 2,11). Như Mẹ Maria, các gia đình được
khuyên nhủ đối diện với những thách đố của gia đình mình, cả khi buồn lẫn khi
vui, một cách can đảm và thanh thản, và cũng để gìn giữ và suy niệm trong lòng
những điều kì diệu Chúa đã làm (cf. Lc
2,19.51). Trong kho tàng trái tim của Mẹ Maria, cũng chất chứa tất cả mọi biến
cố của từng gia đình chúng ta, những biến cố mà Mẹ vẫn ân cần gìn giữ. Bởi thế
Mẹ có thể giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của những biến cố đó để nhận ra được thông
điệp Thiên Chúa ngay trong lịch sử của gia đình mình.

31. Thiện ích của gia đình là điều có tính quyết định đối với
tương lai của thế giới và Hội thánh. Đã có rất nhiều phân tích về hôn nhân và
gia đình, về những khó khăn và thách đố đối với gia đình hiện nay. Chúng ta nên
tập chú vào thực tế cụ thể, vì “những đòi hỏi và những lời mời gọi của Thần Khí
cũng vang lên ngay trong những biến cố lịch sử”, qua đó “Hội thánh có thể được
dẫn đến chỗ hiểu biết thâm sâu hơn đối với mầu nhiệm khôn dò về hôn nhân và gia
đình”[8]. Ở đây, tôi không có tham vọng
trình bày toàn bộ những gì có thể nói về những đề tài khác nhau liên quan đến
gia đình trong bối cảnh hiện thời. Nhưng, vì các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã
đưa ra một cái nhìn thực tế về các gia đình trên toàn thế giới, nên tôi thấy thật
là phù hợp để thâu thập lại đôi điều trong những đóng góp mục vụ của các ngài,
thêm vào đó những bận tâm khác từ chính cái nhìn của tôi.

32. “Trung thành với giáo huấn của Đức Kitô, chúng ta hãy
nhìn vào thực tế của gia đình hiện nay trong toàn cảnh phức tạp, với ánh sáng
và bóng tối của nó. […] Những thay đổi về nhân học và văn hóa ngày nay đang tác
động lên mọi khía cạnh của đời sống và đòi phải có một lối tiếp cận có tính
phân tích và đa dạng”[9]. Trong bối cảnh cách đây vài
thập niên, các Giám mục Tây Ban Nha đã nhận ra một thực tế là trong các gia
đình đã có được sự tự do nhiều hơn, “bằng sự phân công hợp tình hợp lí hơn các
gánh nặng, trách nhiệm và công việc. […] Khi càng đề cao sự thông giao nhân vị
giữa vợ chồng, người ta càng góp phần làm cho toàn thể cuộc sống chung trong
gia đình có tính nhân văn hơn. […] Cả xã hội ngày nay trong đó chúng ta đang sống,
cũng như xã hội mà chúng ta đang hướng đến đều không cho phép tiếp tục tồn tại
những hình thức và mẫu mực gia đình như trong quá khứ mà thiếu sự phân biệt”[10]. Nhưng “chúng tôi ý thức xu
hướng chính của những thay đổi về nhân học và văn hóa đó đang dẫn các cá nhân đến
chỗ ngày càng ít được hỗ trợ hơn so với quá khứ từ các cấu trúc xã hội, trong đời
sống tình cảm và gia đình của họ”[11].

33. Đàng khác, “cũng cần phải xét đến nguy cơ ngày càng
tăng về một thứ khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa cực đoan làm biến chất các mối
liên kết gia đình và kết cục coi mỗi thành viên gia đình như một ốc đảo cô lập,
đôi khi còn nổi lên tư tưởng cho rằng con người tạo nên chính mình bởi các ước
muốn riêng tư vốn được xem như tuyệt đối[12].
“Những căng thẳng xâm nhập từ một thứ văn hóa mang đậm tính cá nhân chủ nghĩa
coi trọng chiếm hữu và hưởng thụ, làm nảy sinh trong lòng các gia đình những
hành xử thiếu kiên nhẫn và hung hăng”[13].
Tôi muốn kể thêm vào đó cả nhịp sống gấp rút hiện nay, những áp lực, cơ cấu tổ
chức xã hội và làm việc, vì đó cũng là những nhân tố văn hóa gây nguy cơ ảnh hưởng
đến khả năng có được những chọn lựa lâu dài. Đồng thời, chúng ta cũng thấy mình
đang đối diện với những hiện tượng hàm hồ. Chẳng hạn, người ta đề cao tư tưởng
về một thứ nhân vị tôn vinh tính chân thực đối lại với cung cách xử sự rập
khuôn. Đó là một giá trị có thể phát huy những tài năng và tính bộc phát tự
nhiên; nhưng nếu định hướng sai lạc, nó có thể tạo ra những thái độ ngờ vực thường
xuyên, tránh né dấn thân, khép mình trong tháp ngà tiện nghi và kiêu căng. Sự tự
do chọn lựa giúp ta tự hoạch định đời sống của mình và phát triển bản thân mình
tốt nhất, nhưng nếu không có những mục tiêu cao thượng và kỉ luật cá nhân, tự
do đó sẽ khiến người ta ngày càng mất dần đi khả năng quảng đại tự hiến chính
mình cho tha nhân. Thực tế tại nhiều nước, nơi mà con số các cặp kết hôn đang
giảm, thì ngày càng có nhiều người chọn sống độc thân, hay chung chạ như vợ chồng
mà không sống chung một nhà. Chúng ta cũng có thể nêu lên một ý thức đáng khen
ngày nay về đức công bằng; nhưng nếu hiểu không đúng, điều này sẽ biến các công
dân thành những khách hàng chỉ quan tâm mỗi việc cung ứng các dịch vụ cho mình
mà thôi.

34. Nếu những nhân tố nguy hiểm này ảnh hưởng đến quan niệm
về gia đình, thì gia đình có thể biến
thành một trạm quá cảnh, nơi người ta chỉ chạy đến nương nhờ khi cần, hoặc nơi
người ta đến để đòi hỏi những quyền lợi, còn các quan hệ thì phó mặc cho những
thay đổi thất thường của những ước muốn riêng và hoàn cảnh. Thực ra, ngày nay
người ta dễ lẫn lộn giữa sự tự do đích thực và tư tưởng cho là mỗi người có thể
phán quyết thế nào tùy ý, như thể ngoài cá nhân chẳng còn đâu là chân lý, giá
trị và nguyên tắc định hướng cuộc đời, người ta xem như thể mọi thứ đều như
nhau, và mọi sự đều phải được phép. Trong bối cảnh đó, lí tưởng hôn nhân, vốn
là một sự dấn thân trọn vẹn và bền vững suốt đời, rốt cuộc sẽ bị tiêu tan bởi
những sở thích tùy hứng hoặc bởi những thói thất thường dựa trên cảm tính. Người
ta sợ sự cô đơn, người ta ước muốn được sống trong một môi trường được che chở
và chung thủy, nhưng đồng thời càng ngày người ta càng sợ bị vướng nhiều hơn
vào mối quan hệ có thể cản trở việc thực hiện những khát vọng cá nhân của mình.

35. Là Kitô hữu, chúng ta không thể chối bỏ lí tưởng hôn
nhân, chỉ vì lí do không muốn đi ngược dòng cảm thức của con người ngày nay, vì
muốn  hợp thời, hoặc vì mặc cảm tự ti trước
tình trạng suy thoái về đạo đức và nhân bản. Như thế chúng ta sẽ làm cho thế giới
thiếu mất đi những giá trị mà chúng ta có thể và phải góp phần. Hẳn là, chẳng
có ý nghĩa gì khi cứ ngồi một chỗ mà chỉ trích những điều xấu xa của thời đại,
như thể làm vậy chúng ta có thể thay đổi được điều gì. Cũng chẳng ích gì khi cố
dùng quyền bính áp đặt luật lệ lên người khác. Điều chúng ta cần là một nỗ lực
với sự quảng đại và trách nhiệm nhiều hơn để trình bày các lí do và các động cơ
cho việc chọn lựa hôn nhân và gia đình, và bằng cách này giúp người ta sẵn sàng
đáp trả hơn nữa ân sủng mà Thiên Chúa ban cho họ.

36. Đồng thời chúng ta cũng phải khiêm tốn và thực tế nhìn
nhận rằng, đôi khi cách chúng ta trình bày niềm tin Kitô giáo của mình, và cách
chúng ta cư xử với người khác đã góp phần tạo ra tình trạng mà chúng ta đang
than vãn như ngày nay, bởi thế chúng ta cần phải tự phê bình một cách thích
đáng. Đàng khác, chúng ta thường trình bày hôn nhân theo cách nào đó khiến cho
mục đích kết hợp của hôn nhân, lời mời gọi triển nở trong tình yêu và lí tưởng
tương trợ lẫn nhau bị lu mờ đi, trong khi quá nhấn mạnh về bổn phận sinh sản
như thể đó là mục đích duy nhất. Chúng ta cũng đã không đồng hành tốt với các cặp
vợ chồng mới cưới trong những năm đầu hôn nhân của họ, không có những đề xuất
thích hợp với giờ giấc của họ, với ngôn ngữ của họ, với những ưu tư cụ thể nhất
của họ. Nhiều khi chúng ta cũng đã trình bày một thứ lí tưởng thần học hôn nhân
quá trừu tượng, được xây dựng hầu như nhân tạo, xa rời hoàn cảnh cụ thể và các
khả năng thực tiễn của các gia đình. Việc lí tưởng hóa quá mức như vậy, nhất là
khi chúng ta không đánh thức đủ niềm tín thác vào ơn Chúa, đã không giúp làm
cho hôn nhân trở thành hấp dẫn hơn và đáng khao khát hơn, mà hoàn toàn đi ngược
lại.

37. Từ khá lâu rồi, chúng ta vẫn cứ tin rằng chỉ cần nhấn mạnh
những vấn đề đạo lí, đạo đức sinh học và luân lí, mà không cần khuyến khích người
ta mở lòng ra với ân sủng, cũng là điều đã nâng đỡ các gia đình, củng cố mối
dây liên kết vợ chồng và mang lại cho cuộc sống chung của họ một ý nghĩa. Chúng
ta đã gặp khó khăn khi trình bày hôn nhân như một hành trình năng động của phát
triển và thực hiện hơn là một gánh nặng phải chịu đựng suốt cả cuộc đời. Chúng
ta cũng cảm thấy khó khăn khi muốn dành chỗ cho lương tâm của các tín hữu, là
những người rất thường đáp lại lời mời gọi của Tin mừng cách tốt nhất ngay giữa
những giới hạn của họ, và họ cũng có khả năng phân định cá nhân tốt trước những
tình huống khi mọi kế hoạch bị đổ vỡ. Chúng ta được mời gọi để đào tạo các
lương tâm chứ không thay thế các lương tâm.

38. Chúng ta phải biết ơn vì phần lớn người ta vẫn còn quí
trọng giá trị các mối tương quan gia đình với ước mong những giá trị này sẽ kéo
dài mãi và được ghi dấu bằng sự kính trọng lẫn nhau. Bởi thế, người ta cảm kích
việc Hội thánh đồng hành và hỗ trợ người ta trong các vấn đề liên quan đến việc
làm triển nở tình yêu, việc khắc phục những xung đột hay việc giáo dục con cái.
Nhiều người quí trọng sức mạnh của ân sủng mà họ đã cảm nhận nơi Bí tích Giao
Hòa và Thánh Thể, ân sủng này giúp họ vượt qua được những thách đố trong đời sống
hôn nhân và gia đình. Tại một số nước, đặc biệt nơi nhiều vùng của Châu Phi, chủ
nghĩa thế tục vẫn không làm suy yếu được một số giá trị truyền thống, và các cuộc
hôn nhân vẫn tạo nên một liên kết vững chắc giữa hai đại gia đình thông gia,
trong đó người ta vẫn còn giữ được một cơ cấu khá rõ ràng nhằm giải quyết những
tranh chấp và những khó khăn. Trong thế giới hiện nay, chúng ta cũng cảm kích
chứng tá của các đôi hôn phối không những kiên trì theo thời gian mà còn vẫn tiếp
tục sống dự phóng chung và bảo toàn được tình yêu của họ. Điều đó mở ra một hướng
mục vụ tích cực, ân cần, có thể từng bước giúp các đôi bạn đào sâu hơn những
đòi hỏi của Tin mừng. Thế nhưng, chúng ta rất thường ở trong tư thế tự vệ, và
phung phí năng lượng mục vụ cho việc lên án một thế giới suy đồi, mà ít có khả
năng đề ra cho người ta những con đường mang lại hạnh phúc. Nhiều người cảm thấy
rằng sứ điệp của Hội thánh về hôn nhân và gia đình không phản chiếu rõ ràng lời
rao giảng và thái độ của Đức Giêsu, Người đồng thời vừa đề xuất một lí tưởng rất
đòi hỏi vừa không bao giờ từ chối gần gũi và cảm thương với những con người yếu
đuối, như người phụ nữ xứ Samaria hay người phụ nữ ngoại tình.

39. Điều đó không có nghĩa là không còn nhận ra sự suy đồi
văn hóa không cổ võ tình yêu và sự hiến dâng nữa. Những ý kiến tham khảo trước
hai Thượng Hội đồng gần đây cho thấy rất nhiều triệu chứng khác nhau của một thứ
“văn hóa tạm bợ”. Tôi nghĩ đến, chẳng hạn, lối sống tốc độ trong đó người ta
thay đổi từ quan hệ tình cảm này sang quan hệ tình cảm khác. Người ta tưởng rằng
tình yêu, cũng giống như các mạng xã hội, có thể kết nối hay ngưng kết nối tùy
theo sở thích của người tiêu dùng và cũng có thể nhanh chóng “bị chặn”. Tôi
cũng nghĩ tới nỗi sợ mà người ta cảm thấy bởi viễn cảnh của một sự dấn thân
vĩnh viễn khơi lên, nghĩ tới nỗi sợ không còn thời gian tự do, nghĩ tới những mối
tương quan tính toán thiệt hơn, người ta băn khoăn liệu chúng có bù đắp được sự
cô đơn, có được một sự bao bọc chở che, hay được phục vụ thế nào đó hay không.
Người ta chuyển đổi cách sống các quan hệ tình cảm giữa con người thành thái độ
sống như khi ứng xử với các đồ vật và môi trường, đó là xem mọi sự đều có thể vứt
bỏ, mỗi người dùng xong rồi bỏ, mua và hủy, khai thác và vắt kiệt. Rồi thì chia
tay! Chứng tự yêu mình thái quá khiến người ta không còn khả năng nhìn thấy được
gì ngoài bản thân mình, ngoài những khao khát và những nhu cầu của mình. Nhưng
ai sử dụng người khác như các đồ vật, thì sớm hay muộn, sẽ bị người khác sử dụng,
bị thao túng và bỏ rơi như thế. Một điều đáng lưu ý là hôn nhân đổ vỡ thường xảy
ra nơi những người lớn tuổi mà thích tìm một lối sống “độc lập và từ chối lí tưởng
chung sống với nhau cho đến tuổi già, để chăm sóc và nâng đỡ nhau.

40. “Có thể có nguy cơ đơn giản hóa vấn đề cách cực đoan,
nhưng chúng ta có thể nói là mình hiện đang sống trong một nền văn hóa khuyến
khích người trẻ không lập gia đình, bởi vì họ thiếu những triển vọng cho tương
lai. Nhưng cũng chính nền văn hóa đó đang cung cấp cho những người khác quá nhiều
sự chọn lựa đến nỗi họ cũng ngần ngại tạo lập gia đình”[14].
Trong một số nước, nhiều người trẻ “thường ở trong hoàn cảnh phải hoãn kết hôn
vì vấn đề kinh tế, vì công ăn việc làm hay vì học hành. Đôi khi cũng vì những
lí do khác như ảnh hưởng của những ý thức hệ xem thường hôn nhân và gia đình,
hoặc do muốn tránh kinh nghiệm thất bại của những đôi hôn nhân đi trước, hoặc
do sợ hãi điều gì đó mà họ coi là quá vĩ đại và thánh thiêng, hoặc vì những cơ
hội xã hội và những mối lợi kinh tế đi kèm theo cuộc sống chung thuần túy, hoặc
do một quan niệm về tình yêu thuần túy dựa trên cảm xúc và lãng mạn, hoặc do sợ
mất sự tự do và độc lập của mình, hoặc do việc người ta dị ứng với những gì có
tính định chế và thủ tục hành chính”[15].
Chúng ta cần tìm cho ra những ngôn ngữ, những lí lẽ và những chứng từ thích hợp
để có thể giúp ta chạm tới nơi thâm sâu nhất của trái tim những người trẻ, nơi
họ là những người vốn có khả năng nhất sống để quảng đại, dấn thân, yêu thương
và thậm chí sống anh hùng, nhằm mời gọi họ đón nhận những thách đố của đời sống
hôn nhân với nhiệt tâm và can đảm.

41. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã nói tới “những khuynh
hướng văn hóa hiện nay có vẻ như không áp đặt một giới hạn nào cho vấn đề tình
cảm của con người […] một thứ tình cảm quy ngã, bất ổn và thay đổi thất thường,
vốn không luôn giúp người ta đạt tới sự trưởng thành chín chắn hơn”. Các Nghị
phụ cũng bày tỏ bận tâm về “sự tràn lan những hình ảnh khiêu dâm và thương mại
hóa thân xác, được thúc đẩy bởi việc lạm dụng các mạng toàn cầu” và “về hoàn cảnh
của những người bị buộc phải bước vào con đường mãi dâm”. Trong bối cảnh đó,
“các đôi vợ chồng đôi khi không quyết đoán, lưỡng lự và phải vất vả tìm kiếm những
cách thế để lớn lên. Nhiều người có xu hướng dừng lại ở những giai đoạn ban đầu
của đời sống tình cảm và tính dục. Khủng hoảng trong quan hệ lứa đôi khiến gia
đình bất ổn và qua việc li thân và li dị có thể gây ra những hệ lụy nghiêm trọng
cho người lớn, trẻ em và toàn xã hội, làm suy yếu các cá nhân và các mối liên kết
xã hội”[16]. Những khủng hoảng đời sống
hôn nhân, thường được người ta đương đầu “cách quá vội vàng và không đủ can đam
để kiên nhẫn, thẩm định, tha thứ cho nhau, làm hòa lại với nhau và cũng để hi
sinh cho nhau. Như thế những thất bại sẽ lại làm nảy sinh những quan hệ mới, những
đôi bạn mới, các kết hợp và hôn nhân dân sự mới, tạo nên những hoàn cảnh gia
đình phức tạp và bất ổn đối với chọn lựa đời sống đức tin”[17].

42. “Sự suy giảm dân số phát sinh do não trạng không muốn
sinh con và được khuyến khích bởi những chính sách toàn cầu về sức khỏe sinh sản,
tạo ra không chỉ một tình trạng trong đó sự kế tục các thế hệ không còn được bảo
đảm, mà theo thời gian còn có nguy cơ sẽ dẫn đến tình trạng nghèo nàn đi về
kinh tế và mất hi vọng vào tương lai. Sự phát triển công nghệ sinh học cũng có
một tác động rất lớn trên tỉ lệ sinh sản”[18].
Thêm vào đó còn có thể kể thêm những nhân tố khác như “công nghiệp hóa, cuộc
cách mạng tình dục, lo sợ lạm phát dân số, những vấn đề kinh tế, […]. Xã hội
tiêu thụ cũng có thể ngăn cản người ta có con, chỉ vì muốn duy trì tự do và lối
sống riêng của mình”[19]. Đã đành là với lương tâm
ngay thẳng của mình, các cặp vợ chồng, vốn rất quảng đại trong việc truyền
sinh, nên có thể hướng họ đến quyết định hạn chế số con vì những lí do đủ hệ trọng,
mà luôn luôn “vì lòng yêu mến phẩm giá lương tâm này, Hội thánh hết sức phản
bác những can thiệp có tính áp đặt của Nhà nước buộc người ta phải ngừa thai,
triệt sản hoặc ngay cả phải phá thai”[20].
Những biện pháp như thế không thể nào chấp nhận được ngay cả trong những nơi có
tỉ lệ sinh sản cao, nhưng phải ghi nhận rằng ngay cả tại những nước có tỉ lệ
sinh sản rất thấp, các chính trị gia cũng hô hào những biện pháp này. Như các
Giám mục Hàn Quốc đã nói, đó là “hành động tự mâu thuẫn, và chối bỏ bổn phận của
mình”[21].

43. Tình trạng đức tin và thực hành tôn giáo suy yếu trong
một số xã hội đã ảnh hưởng đến các gia đình rất nhiều và càng đẩy các gia đình
lâm vào tình trạng phải chơ vơ chống chọi với những khó khăn của mình. Các Nghị
phụ đã khẳng định rằng “cái nghèo lớn nhất trong số những cái nghèo của nền văn
hóa hiện nay là sự cô đơn, kết quả của tình trạng vắng bóng Thiên Chúa trong đời
sống con người và tình trạng mong manh của những mối quan hệ. Người ta cũng có
một cảm giác chung về sự bất lực khi đối diện với thực trạng kinh tế – xã hội,
rốt cuộc thường đè bẹp các gia đình. […] Các gia đình thường cảm thấy như mình
bị bỏ rơi vì thái độ thờ ơ và không mấy quan tâm của các cơ chế. Các hậu quả
tiêu cực về mặt tổ chức xã hội thật là rõ ràng: từ khủng hoảng dân số đến những
khó khăn trong giáo dục, từ thái độ ngần ngại không sẵn sàng đón nhận con cái
được sinh ra đến xu hướng xem người già như một gánh nặng, cho đến tình trạng
gia tăng những cảm xúc bất ổn, đôi khi dẫn đến bạo lực. Nhà nước có trách nhiệm
tạo ra các điều kiện mang tính pháp lí và tạo ra công ăn việc làm nhằm có thể bảo
đảm cho tương lai của giới trẻ và giúp họ thực hiện dự phóng xây dựng gia đình
của họ”[22].

44. Tình trạng thiếu nhà ở xứng hợp và thỏa đáng cũng thường
dẫn người ta đến chỗ trì hoãn thiết lập một mối quan hệ chính thức. Cần nhớ rằng
“gia đình có quyền có một chỗ ở xứng đáng, phù hợp với đời sống gia đình và đủ
chỗ cho các thành viên, trong một môi trường bảo đảm có những dịch vụ căn bản cần
thiết cho cuộc sống gia đình và cộng đồng”[23].
Gia đình và nhà ở là hai điều luôn đi đôi với nhau. Điều này cho thấy cần phải
nhấn mạnh đến các quyền của gia đình chứ không chỉ của các cá nhân mà thôi. Gia
đình là một thiện ích xã hội mà không thể làm ngơ, nhưng cần phải được bảo vệ[24]. Bảo vệ các quyền này là “một
lời mời gọi mang tính ngôn sứ có lợi cho định chế gia đình, vốn cần được tôn trọng
và bảo vệ khỏi tất cả gì làm phương hại đến nó”[25],
đặc biệt là trong bối cảnh ngày nay khi mà hôn nhân gia đình không được quan
tâm bao nhiêu trong các kế hoạch chính sách.Gia đình, giữa bao quyền khác, “có
quyền được kì vọng một chính sách gia đình thỏa đáng từ phía các nhà cầm quyền
trong các lãnh vực tư pháp, kinh tế, xã hội và tài chánh”[26].
Đôi khi, các gia đình rơi vào tình cảnh khốn cùng bi đát khi, một người thân gặp
phải bệnh tật, thiếu dịch vụ chăm sóc y tế thích đáng, hay khi thất nghiệp
trong một thời gian dài mà không có một việc làm xứng hợp. “Những khó khăn kinh
tế không cho phép các gia đình tiếp cận với giáo dục, với đời sống văn hóa và với
đời sống xã hội năng động. Hệ thống kinh tế hiện nay tạo ra nhiều hình thái loại
trừ xã hội khác nhau. Các gia đình đặc biệt phải hứng chịu những vấn đề liên hệ
đến công ăn việc làm. Người trẻ ít có khả năng tìm được việc làm và việc cung ứng
lao động thì lại rất chọn lọc và bấp bênh. Ngày làm việc thì kéo dài và thường
còn phải mất nhiều thời gian để đi lại. Điều này gây khó khăn cho việc các
thành viên gia đình được gặp gỡ nhau và cha mẹ gặp gỡ con cái, để rồi nhờ đó những
mối quan hệ hằng ngày giữa họ được vun đắp”[27].

45. “Nhiều trẻ em sinh ra ngoài hôn nhân, đặc biệt trong một
số quốc gia, rồi những em này lớn lên chỉ với cha hoặc với mẹ hay trong một bối
cảnh gia đình hỗn hợp rộng lớn hoặc được chắp vá. […] Một thực tế xấu xa và suy
đồi nhất trong xã hội hiện nay, đó là tình trạng khai thác tình dục trẻ em.
Ngay trong các xã hội đã trải qua bạo lực vì chiến tranh, khủng bố hay tình trạng
tội ác có tổ chức, còn thấy rõ những hoàn cảnh gia đình băng hoại, nhất là
trong những thành phố lớn và những khu ngoại ô, hiện tượng trẻ em đường phố
ngày càng gia tăng”[28]. Sự lạm dụng tình dục trẻ
em còn gây tai tiếng hơn khi nó lại xảy ra ngay tại nơi mà các em phải được bảo
vệ, đặc biệt trong gia đình, nơi trường học và trong các cộng đồng và tổ chức
Kitô giáo[29].

46. “Những cuộc di dân còn cho thấy một dấu chỉ khác nữa của
thời đại mà người ta phải đối mặt và tìm hiểu, với tất cả hệ quả nặng nề của nó
trên đời sống gia đình”[30]. Thượng Hội đồng Giám mục vừa
qua đã lưu ý tầm quan trọng rất lớn của vấn nạn này, khi ghi nhận rằng “bằng
nhiều cách, hiện tượng di dân ảnh hưởng đến toàn bộ cư dân ở nhiều vùng khác
nhau trên thế giới. Hội thánh vẫn đóng một vai trò hàng đầu trong lãnh vực này.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, do tính cấp bách, cần phải duy trì và phát triển chứng
tá Tin mừng này […]. Tính di động của con người, như ta thấy trong trào lưu di
chuyển tự nhiên của các dân tộc trong lịch sử, có thể tỏ lộ một sự phong phú
đích thực, cho cả các gia đình di dân lẫn những đất nước đón nhận họ. Đàng khác
đó là việc các gia đình bị bắt buộc phải di cư, do hoàn cảnh chiến tranh, bách
hại, nghèo đói, bất công, vốn gắn liền với những thăng trầm của một cuộc hành
trình thường gây nguy hiểm đến tính mạng, thương tổn tinh thần con người và mất
ổn định gia đình. Trong việc đồng hành với người di dân đòi hỏi phải có một mục
vụ chuyên biệt dành riêng cho các gia đình di dân và cho cả những thành viên của
gia đình đang còn ở lại nơi nguyên quán của họ. Việc này phải được thực hiện
trong sự tôn trọng nền văn hóa của họ, tôn trọng việc huấn luyện đức tin và
nhân bản nơi họ xuất thân, tôn trọng gia sản tâm linh phong phú của các nghi lễ
và truyền thống của họ, cũng như nhờ đến một chăm sóc mục vụ đặc biệt. […] Cách
riêng, di cư là một thảm kịch và là sự tàn phá đối với các gia đình và các cá
nhân khi nó diễn ra ngoài vòng pháp luật và khi được bảo trợ bởi các mạng lưới
buôn người quốc tế. Cũng là thảm kịch, có thể nói như thế, khi tình hình liên
can đến các phụ nữ và trẻ em bơ vơ, bị buộc phải lưu ngụ lâu ngày trong những
nơi tạm trú, trong các trại tị nạn, nơi mà người ta không thể bắt đầu một tiến
trình hội nhập. Tình trạng nghèo đói cùng cực và những hoàn cảnh gia đình li
tán đôi khi còn dẫn họ đến chỗ bán con mình cho tổ chức mãi dâm hay cho con
buôn các cơ phận người ta”[31]. “Những cuộc bách hại các Kitô
hữu, cũng như các nhóm sắc tộc và tôn giáo thiểu số ở nhiều khu vực trên thế giới,
đặc biệt ở Trung Đông, là một thử thách rất lớn, không chỉ cho Hội thánh, mà
còn cho toàn thể cộng đồng quốc tế. Cần phải khích lệ mọi nỗ lực để các gia
đình và các cộng đoàn Kitô hữu có thể được ở lại trên những vùng đất nguyên
quán của mình”[32].

47. Các Nghị phụ cũng quan tâm cách đặc biệt “đến các gia
đình của những người khuyết tật, nảy sinh một thách đố sâu sắc và bất ngờ, có
thể làm đảo lộn sự quân bình, các ước mong và những kì vọng […]. Thật đáng khâm
phục những gia đình sẵn sàng yêu thương đón nhận thử thách cam go của một đứa
con tật nguyền. Các gia đình này cống hiến cho Hội thánh và xã hội một chứng từ
rất quí giá về lòng trung tín đối với hồng ân sự sống. Gia đình, cùng với cộng
đoàn Kitô hữu, sẽ có thể khám phá được những hành động và ngôn ngữ mới, những
hình thức mới để thông cảm và liên đới trong hành trình đón nhận và chăm sóc mầu
nhiệm sự sống mong manh của con người. Những người khuyết tật là một quà tặng
cho gia đình và là một cơ hội để lớn lên trong tình yêu, trong sự hiệp nhất và
giúp đỡ lẫn nhau […]. Trong cái nhìn của đức tin, gia đình nào đón nhận sự hiện
diện của những người khuyết tật sẽ có thể nhận ra và bảo đảm phẩm chất và giá
trị của mọi sự sống, với những nhu cầu, những quyền và cơ hội của họ. Gia đình
đó sẽ thúc đẩy phục vụ và chăm sóc, cũng như khích lệ sự gần gũi đầy yêu thương
trong mọi giai đoạn cuộc sống của họ”[33].
Tôi muốn nhấn mạnh rằng sự quan tâm mà người ta dành cho những người di dân
cũng như những người có hoàn cảnh đặc biệt đó là một dấu chỉ của Thần Khí. Thật
vậy, cả hai hoàn cảnh đều có tính điển hình: chúng đặc biệt cho thấy rõ cách thức
mà ngày nay người ta sống biểu lộ lòng thương xót qua việc đón nhận người khác
và giúp những người yếu ớt hòa nhập vào các cộng đoàn.

48. “Phần lớn các gia đình đều có lòng tôn kính những người
cao tuổi, yêu mến quây quần quanh các ngài và xem các cụ như một ân phúc. Phải
đặc biệt tuyên dương các hiệp hội và các phong trào gia đình vì những hoạt động
hỗ trợ những người cao tuổi, cả về mặt tâm linh lẫn xã hội […]. Trong những xã
hội công nghiệp hóa cao, nơi mà con số những người cao tuổi có chiều hướng gia
tăng trong khi số sinh sụt giảm, thì những người này có nguy cơ bị coi như một
gánh nặng. Đàng khác, những chăm sóc mà các cụ rất cần lại thường tạo nên một
thử thách cam go cho những người thân của họ”[34].
“Ngày nay người ta càng có khuynh hướng đẩy lùi bằng mọi cách thời điểm của cái
chết bao nhiêu thì càng phải trân trọng giai đoạn cuối đời bấy nhiêu. Tình trạng
yếu ớt và phải lệ thuộc của các cụ đôi khi còn bị khai thác một cách bất công để
chỉ nhắm tới lợi ích kinh tế. Nhiều gia đình cho chúng ta thấy rằng có thể đối
diện với những giai đoạn cuối đời bằng cách đề cao ý nghĩa của việc hoàn tất và
tham dự của toàn thể đời người vào mầu nhiệm vượt qua. Một số lớn các cụ lớn tuổi
được đón nhận vào trong các cơ sở của Hội thánh, ở đó, các cụ có thể sống trong
một bầu khí bình yên và thân thiện, cả về vật chất lẫn tinh thần. Cái chết êm dịu
(hay an tử) và trợ tử là mối đe dọa nghiêm trọng cho các gia đình trên toàn thế
giới. Những thực hành ấy đã được hợp pháp tại nhiều quốc gia. Trong khi kiên
quyết chống lại những thực hành ấy, Hội thánh cảm thấy mình có bổn phận phải
giúp đỡ các gia đình đang chăm sóc cho các thành viên cao tuổi và bệnh tật của
mình”[35].

49. Tôi muốn nhấn mạnh đến hoàn cảnh các gia đình đang bị
chìm ngập trong sự khốn khổ, thiệt thòi về mọi mặt, họ sống trong những điều kiện
rất hạn hẹp tơi tả đến đau lòng. Nếu như ai cũng có những khó khăn, thì những
khó khăn đó trở thành khắc nghiệt hơn trong một gia đình nghèo cơ cực[36]. Ví dụ như, nếu một phụ nữ
phải nuôi con một mình, vì li thân hoặc vì những lí do khác, và chị phải đi làm
mà không thể giao con mình cho một ai khác, đứa trẻ sẽ lớn lên trong tình trạng
bị bỏ rơi, phó mặc cho mọi loại nguy cơ, và sự trưởng thành nhân bản của nó bị
tổn hại. Đối với những người túng cực đang sống trong những hoàn cảnh khó khăn
ngặt nghèo như thế, Hội thánh phải đặc biệt quan tâm để thông cảm, an ủi, đón
nhận họ, tránh áp đặt lên họ đủ thứ luật lệ, như những tảng đá đè bẹp, chỉ khiến
người ta cảm thấy bị xét đoán và bỏ rơi bởi chính người Mẹ vốn được mời gọi bày
tỏ cho họ thấy lòng thương xót của Thiên Chúa. Làm như thế, thay vì cống hiến
năng lực chữa trị của ân sủng và ánh sáng của Tin mừng, thì một số người lại muốn
biến sứ điệp Tin mừng ấy thành một thứ “giáo điều”, biến nó thành “những viên
đá giết người để ném vào người khác”[37].

50. Những phúc đáp nhận được cho hai cuộc tham vấn được thực
hiện trong diễn trình của Thượng Hội đồng đã đề cập tới những hoàn cảnh rất đa
dạng cho thấy những thách đố mới. Ngoài những gì đã được nêu ra, nhiều phúc đáp
đã đề cập đến phận vụ giáo dục con cái, đang gặp nhiều khó khăn. Bởi lẽ, giữa
những nguyên nhân khác, nhiều cha mẹ từ sở làm trở về nhà mệt lả, không còn muốn
nói chuyện; nhiều gia đình thậm chí không còn giữ thói quen dùng bữa chung với
nhau; và ngoài chứng nghiện truyền hình còn có vô số những phương tiện giải trí
khác nhau. Điều này làm cho cha mẹ càng khó hơn trong việc truyền đạt đức tin
cho con cái. Có những bản trả lời khác còn lưu ý đến các gia đình thường phải
gánh chịu những áp lực, lo âu, nặng nề. Xem ra các gia đình bận tâm đến việc lo
toan cho tương lai hơn là cùng chia sẻ cuộc sống hiện tại. Đây là một vấn đề về
văn hóa, vấn đề càng trở nên nghiêm trọng hơn nữa vì nỗi sợ tương lai không có
việc làm ổn định, vì tình trạng kinh tế không bảo đảm, hay vì lo sợ cho tương
lai của con cái.

51. Ma túy cũng được đề cập đến như một trong những vết
thương của thời đại chúng ta, gây ra cho nhiều gia đình bao nỗi thống khổ và
thường kết thúc trong tình cảnh gia đình tan vỡ. Tình hình cũng như thế với nạn
rượu chè, bài bạc và những hình thức nghiện ngập khác. Gia đình có thể là nơi dự
phòng và bảo vệ, thế nhưng xã hội và chính trị còn chưa nhận ra rằng gia đình
có nguy cơ “đánh mất khả năng chống trả để giúp đỡ các thành viên của mình […].
Chúng ta hãy lưu ý những hậu quả nghiêm trọng của tình trạng gia đình tan vỡ
này, đó là, người trẻ bị mất gốc, người già bị bỏ rơi, con cái mồ côi trong khi
cha mẹ chúng vẫn còn sống, thanh thiếu niên mất định hướng và không được bảo vệ”[38]. Như các Giám mục Mêhicô đã
chỉ cho thấy, có những hoàn cảnh thật đáng buồn như bạo lực trong gia đình, vốn
sẽ là mảnh đất phì nhiêu làm sinh sôi các dạng thức mới của gây hấn trong xã hội,
bởi vì “những tương quan gia đình cũng có thể lí giải tư chất bạo lực nơi một
con người. Các gia đình bị ảnh hưởng như vậy là do thiếu thông giao với nhau;
những gia đình trong đó chủ yếu ai cũng sống tư thế phòng vệ, các thành viên
không nâng đỡ nhau; không có những sinh hoạt gia đình thúc đẩy sự tham dự
chung, tương quan giữa cha mẹ thường đầy xung đột và bạo lực, và tương quan giữa
cha mẹ-con cái đầy dấu vết thù địch. Bạo lực trong gia đình là trường nuôi dưỡng
sự oán giận và căm ghét trong những tương quan nhân bản nền tảng nhất”[39].

52. Không ai nghĩ rằng gia đình, như một xã hội tự nhiên được
thiết lập trên nền tảng hôn nhân, bị suy yếu đi lại có thể đem lại mối lợi gì
cho xã hội. Điều ngược lại mới đúng: nó sẽ làm tổn hại đến sự trưởng thành của
con cái, đến sự vun xới các giá trị cộng đồng, và sự phát triển đạo đức cho các
thành thị và làng quê. Người ta không còn nhận thấy được rõ ràng rằng duy chỉ
có sự kết hợp đơn nhất và bất khả phân li giữa một người nam và một người nữ mới
hoàn thành được phận vụ xã hội cách trọn vẹn, vì một sự kết hợp như thế mới là
một dấn thân bền vững và có thể đem lại hoa quả sự sống mới. Chúng ta phải thừa
nhận vẫn có nhiều hoàn cảnh gia đình khác nhau có thể cung ứng một sự ổn định
nào đó, nhưng những kết hợp thực tế (union
de facto
), hay kết hợp đồng giới, chẳng hạn, không thể đơn giản đánh đồng
được với hôn nhân. Không có một kết hợp tạm bợ hay loại trừ việc truyền sinh
nào lại có thể bảo đảm cho tương lai của xã hội. Thế nhưng, ngày nay, ai là người
quan tâm nâng đỡ các đôi vợ chồng, giúp đỡ họ vượt qua được những hiểm nguy
đang đe dọa họ, đồng hành với họ trong vai trò giáo dục con cái, khích lệ sống
bền vững giao ước hôn phối của họ?

53. “Một số xã hội vẫn còn duy trì tập tục đa thê, và một số
nơi khác hôn nhân sắp đặt vẫn còn tồn tại […]. Tại nhiều nơi, không chỉ ở
phương Tây, việc sống chung trước hôn nhân đang lan rộng, cũng như có một kiểu
sống chung mà không có ý định đảm nhận một dạng thức ràng buộc theo pháp lí”[40]. Tại nhiều nước, luật pháp đang
ngày càng cho phép nhiều giải pháp lựa chọn có thể thay thế hôn nhân, đến nỗi
kiểu hôn nhân có đặc tính đơn nhất, bất khả phân li và cởi mở đón nhận sự sống,
rốt cuộc bị coi như một chọn lựa lỗi thời giữa bao đề nghị khác. Trong nhiều quốc
gia, có hiện tượng gia đình ngày càng bị phân rã về mặt pháp lí, đồng thời lại
có khuynh hướng chấp nhận những dạng thức hầu như chỉ dựa trên sự tự trị của ý
chí cá nhân. Đành rằng việc người ta loại bỏ những hình thức cũ của gia đình
“truyền thống”, mang dấu ấn của sự độc đoán, thậm chí là bạo lực, là hợp lẽ và
đúng đắn, tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người ta được phép coi thường
hôn nhân, đúng hơn, nó phải dẫn đến chỗ khám phá lại ý nghĩa đích thực của hôn
nhân và canh tân nó. Sức mạnh của gia đình “nằm chủ yếu ở khả năng yêu thương
và dạy biết yêu thương. Dẫu có bị tổn thương thế nào thì gia đình vẫn luôn có
thể lớn lên khởi đi từ tình yêu”[41].

54. Qua cái nhìn toát lược này, tôi muốn lưu ý rằng cho dù
đã có những bước tiến có ý nghĩa trong việc nhìn nhận các quyền của phụ nữ và sự
tham gia của họ vào đời sống công cộng, vẫn còn nhiều điều phải làm để phát triển
quyền này trong một số quốc gia. Những tập tục không thể chấp nhận vẫn còn chưa
hoàn toàn loại bỏ được. Trước hết, tôi muốn nói đến cung cách cư xử bằng bạo lực
đáng hổ thẹn mà đôi khi trong các gia đình những người phụ nữ còn phải chịu, những
lạm dụng trong gia đình và rất nhiều hình thức nô dịch hóa trong đó không hề
cho thấy sức mạnh của đàn ông, mà đúng hơn chỉ là một sự nhu nhược hèn hạ. Bạo
lực trong lời nói, trên thân thể, trong tình dục khiến người phụ nữ phải chịu
trong một số cuộc hôn nhân là điều mâu thuẫn với chính bản tính của sự kết hợp
vợ chồng. Tôi nghĩ tới hủ tục cắt bỏ bộ phận sinh dục của người phụ nữ trong một
số nền văn hóa, cũng như tình trạng bất bình đẳng không cho người phụ nữ cơ hội
có được những vị trí việc làm xứng đáng và có những vai trò đưa ra quyết định.
Lịch sử đã để lại dấu ấn những thái quá của các nền văn hóa gia trưởng, vốn xem
phụ nữ là thấp kém; nhưng, cũng nên nhắc đến hiện tượng “các bà mẹ mang thai hộ”,
hoặc “việc khai thác và thương mại hóa thân xác người phụ nữ trong văn hóa truyền
thông hiện nay”[42]. Một số người còn cho rằng
nhiều vấn đề hiện nay đã xuất hiện là do sự giải phóng phụ nữ. Nhưng, lập luận ấy
không hợp lí, “sai lạc, không đúng. Đó là một hình thức chủ nghĩa nam quyền”[43]. Sự bình đẳng về phẩm giá
giữa người nam và người nữ khiến chúng ta vui mừng vì ta vượt qua được những
hình thức kì thị xưa, và đã thấy xuất hiện ngay giữa lòng các gia đình hôm nay
lối sống tương nhượng. Nếu như ngày nay có dấy lên những hình thức của phong
trào nữ quyền không được xem là phù hợp, thì chúng ta cũng phải thán phục công
trình của Chúa Thánh Thần, trong khi thừa nhận rõ ràng hơn phẩm giá của người
phụ nữ và các quyền của họ.

55. “Người đàn ông đóng một vai trò có tính quyết định
không kém trong đời sống gia đình, nhất là, liên quan đến việc bảo vệ và nâng đỡ
vợ con. Nhiều người đàn ông ý thức tầm quan trọng vai trò của mình trong gia
đình và họ sống vai trò đó đúng với phẩm chất đặc biệt của tính cách nam nhân.
Sự vắng mặt đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình, đến việc giáo dục
con cái và việc hội nhập chúng vào xã hội. Sự vắng mặt của người cha có thể là
về phương diện thể lí, tình cảm, hiểu biết và tâm linh. Khiếm khuyết này tước mất
khỏi con cái kiểu mẫu hành xử thích hợp của một người cha”[44].

56. Một thách đố khác nữa xuất hiện dưới những hình thức
khác nhau mang sắc thái một ý thức hệ, cách chung được gọi là “phái tính” (gender), chủ trương “phủ nhận sự khác biệt
phái tính và tính hỗ tương tự nhiên giữa người nam và người nữ. Ý thức hệ này
nhắm tới viễn tượng một xã hội không có sự phân biệt giới tính và làm xói mòn nền
tảng nhân học của gia đình. Ý thức hệ này dẫn đến những dự án giáo dục và định
hướng lập pháp cổ xúy cho luận điệu rằng căn tính cá nhân và sự ân ái vẫn có được
mà hoàn toàn không liên hệ gì đến sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ. Căn
tính con người được phó mặc cho những chọn lựa cá nhân, điều có thể thay đổi
qua thời gian”[45]. Điều đáng quan ngại là có
một số ý thức hệ kiểu này, trong khi muốn đáp ứng cho những khát vọng nào đó
đôi khi có thể thông cảm được, trên thực tế lại khẳng định mình như là một tư
tưởng duy nhất đúng, qui định cả cách giáo dục trẻ em. Cần phải biết rằng “người
ta có thể phân biệt, nhưng không thể tách biệt giới tính sinh học (sex) và
vai trò văn hóa-xã hội của giới (gender)”[46].
Đàng khác, “cuộc cách mạng công nghệ sinh học trong lãnh vực sinh sản con người
đã đưa đến khả năng là người ta có thể vận dụng tùy ý hành động truyền sinh,
làm cho nó độc lập với quan hệ tính dục giữa người nam và người nữ. Như thế sự
sống con người và việc làm cha làm mẹ trở thành những thực tại rời rạc, người
ta có thể ráp nối hoặc tách biệt, và chủ yếu tùy thuộc vào ước muốn của các cá
nhân hay của các cặp, họ không nhất thiết phải là hai người khác biệt tính dục
hay kết hôn”[47]. Thông cảm với sự yếu đuối
của con người hay sự phức tạp của cuộc sống là một chuyện, còn chấp nhận những
ý thức hệ có ý muốn tách biệt hai khía cạnh vốn không thể tách biệt của thực tại
lại là chuyện khác. Chúng ta đừng sa vào tội cả gan thay thế Đấng Tạo Hóa.
Chúng ta là những thụ tạo, chúng ta không toàn năng. Công trình tạo dựng có trước
chúng ta và phải được đón nhận như một quà tặng. Đồng thời, chúng ta được mời gọi
bảo vệ nhân tính của mình, và điều đó trước hết có nghĩa là đón nhận nhân tính ấy
và tôn trọng nó như nó vốn đã được tạo dựng nên.

57. Tôi cảm tạ Thiên
Chúa vì nhiều gia đình, dù họ không tự coi mình đã hoàn hảo, vẫn sống trong yêu
thương, đang chu toàn ơn gọi của mình và tiếp tục bước tới, cho dẫu họ có vấp
ngã nhiều lần trên đường đi. Từ những suy tư của Thượng Hội đồng ta thấy không
có một nguyên mẫu nào cho gia đình lý tưởng, nhưng ta có một bức tranh khảm được
hình thành từ những mảnh ghép của nhiều thực tại khác nhau, đấy ắp những niềm
vui, những bi kịch và cả những ước mơ. Các thực tại khiến ta bận tâm đều là những
thách đố. Chúng ta đừng tự sa vào bẫy làm mình kiệt sức vì chỉ biết phòng vệ
trong than vãn ai oán, thay vì tìm cách khơi dậy những sáng kiến truyền giáo.
Trong mọi hoàn cảnh, “Hội thánh cảm thấy cần phải nói lên một lời chân lý và hi
vọng. […] Những giá trị lớn lao của hôn nhân và gia đình Kitô giáo tương ứng với
khát vọng tìm kiếm trải dài trong cuộc sống con người”[48].
Dù chúng ta thấy có nhiều khó khăn đi nữa, thì chúng – theo lời của các Giám mục
Colombia – nên là một lời mời gọi chúng ta “giải phóng trong ta những năng lực
của niềm hi vọng, chuyển những khó khăn đó thành những hoài bão mang tính ngôn
sứ, biến chúng thành những hành động hữu hiệu và thành bác ái”[49].

58. Trước và ngay giữa các gia đình, lời loan báo tiên khởi
(kerygma) phải luôn được vang lên
cách mới mẻ; đó là lời “đẹp nhất, trổi vượt nhất, hấp dẫn nhất và đồng thời cần
thiết nhất”[50], và “phải chiếm vị trí
trung tâm của toàn bộ hoạt động loan báo Tin mừng”.[51]
Đây là lời loan báo chính yếu, “mà chúng ta phải nghe đi nghe lại bằng nhiều
cách khác nhau, và phải luôn loan báo trong khi dạy giáo lí bằng hình thức này
hay hình thức khác”.[52] Bởi vì, “không có gì vững
chắc, thâm sâu, bảo đảm, súc tích và khôn ngoan hơn lời loan báo ấy” và “toàn bộ
công cuộc huấn luyện đức tin trước hết là đi sâu hơn vào trong lời rao giảng
tiên khởi này”.[53]

59. Giáo huấn của chúng ta về hôn nhân và gia đình nhất thiết
phải được gợi hứng và biến đổi dưới ánh sáng của lời loan báo yêu thương và dịu
dàng này; nếu không, giáo huấn ấy sẽ trở thành sự bảo vệ đơn thuần cho một giáo
điều lạnh lùng và thiếu sinh khí. Quả thật, người ta không thể hiểu trọn vẹn mầu
nhiệm gia đình Kitô giáo nếu không nhìn trong ánh sáng tình yêu vô hạn của Chúa
Cha, được biểu lộ nơi Đức Kitô, Đấng đã tự hiến mình cho đến cùng và vẫn sống
giữa chúng ta. Vì thế tôi ước muốn chiêm ngắm Đức Kitô hằng sống, Đấng có mặt
trong biết bao câu chuyện tình yêu, và khẩn cầu ngọn lửa Thần Khí xuống trên mọi
gia đình của thế giới này.

60. Trong
khung cảnh đó, chương này sẽ làm một tổng hợp ngắn gọn giáo huấn của Hội thánh
về hôn nhân và gia đình. Tôi cũng sẽ trích dẫn ở đây các ý kiến đóng góp khác
nhau được các Nghị phụ Thượng Hội đồng trình bày trong bản nhận xét của các
ngài về ánh sáng mà đức tin ban tặng cho chúng ta. Các ngài đã bắt đầu từ ánh
nhìn của Đức Giêsu, và chỉ cho chúg ta thấy rằng Người “đã nhìn những người nam
và người nữ mà Người gặp gỡ, với tình yêu và sự dịu dàng, đồng hành với những
bước đi của họ bằng sự thật, lòng kiên nhẫn và tình thương xót, trong việc loan
báo những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa”.[54]
Ngày nay, Chúa cũng đồng hành với chúng ta theo cách thức ấy, khi chúng ta dấn
thân sống và thông truyền Tin mừng về gia đình.

61. Trước những kẻ ngăn cấm hôn nhân, Tân Ước dạy rằng “mọi
sự Thiên Chúa dựng nên đều tốt và không có gì phải loại bỏ” (1 Tm 4,4). Hôn nhân là “một quà tặng” của
Chúa (cf. 1 Cr 7,7). Đồng thời, do việc
đánh giá tích cực đó mà người ta mạnh mẽ nêu bật sự cần thiết phải nâng niu quà
tặng thần linh này: “Ai nấy phải tôn trọng hôn nhân, chớ làm cho loan phòng ra
ô uế” (Dt 13,4). Quà tặng của Thiên
Chúa đó cũng bao gồm tính dục: “Đừng từ chối nhau” (1 Cr 7,5).

62. Các
Nghị phụ Thượng Hội đồng đã nhắc nhớ rằng Đức Giêsu, “khi nói về kế hoạch
nguyên thủy của Thiên Chúa cho đôi bạn nam nữ của loài người, đã tái khẳng định
sự kết hợp bất khả phân li giữa họ, Người còn tuyên bố rằng ‘vì các ông lòng
chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có
thế đâu’ (Mt 19,8). Tính bất khả phân
li của hôn nhân (“Điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân li”: Mt 19,6) không nên hiểu như một ‘cái
ách’ áp đặt lên con người, nhưng như một ‘quà tặng’ được ban cho những ai kết hợp
với nhau trong hôn nhân. […] Thiên Chúa đoái thương luôn đi theo hành trình cuộc
đời chúng ta; Ngài chữa lành và biến đổi con tim chai cứng bằng ân sủng, dẫn
chúng ta về lại thuở ban đầu ngang qua con đường thập giá. Các Tin mừng nêu bật
mẫu gương của Đức Giêsu, […] Đấng công bố sứ điệp về ý nghĩa của hôn nhân như
sự viên mãn của mạc khải có sức phục hồi kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa (cf. Mt 19,3)”.[55]

63. “Đức Giêsu, Đấng hòa giải mọi sự nơi chính mình, đã đưa
hôn nhân và gia đình trở lại dạng thức nguyên thủy của nó (cf. Mc 10,1-12). Hôn nhân và gia đình đã được
cứu chuộc bởi Đức Kitô (cf. Ep 5,21-32),
được khôi phục theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, là mầu nhiệm mà
từ đó mọi tình yêu đích thực tuôn trào ra. Giao ước hôn nhân, khơi nguồn từ
trong tạo thành và được mạc khải trong lịch sử cứu độ, đạt được mạc khải ý
nghĩa đầy đủ của nó trong Đức Kitô và Hội thánh của Người. Từ Đức Kitô qua Hội
thánh, hôn nhân và gia đình nhận được ân sủng cần thiết để làm chứng cho tình
yêu Thiên Chúa và để sống đời sống hiệp thông. Tin mừng về gia đình trải dài suốt
dòng lịch sử thế giới, kể từ việc tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa
và giống như Thiên Chúa (cf. St
1,26-27), cho tới khi hoàn thành mầu nhiệm Giao ước trong Đức Kitô vào thời
cùng tận với hôn lễ của Chiên Con (cf. Kh
19,9)”.[56]

64. “Mẫu gương của Đức Giêsu là một khuôn mẫu cho Hội thánh
. […] Người khởi đầu đời sống công khai của Người với dấu lạ thực hiện tại tiệc
cưới Cana (cf. Ga 2,1-11). […] Người
chia sẻ những khoảnh khắc tình bạn đời thường với gia đình của Ladarô và các chị
của anh ấy (cf. Lc 10,38), và với gia
đình của Phêrô (cf. Mc 8,14). Người
đã lắng nghe tiếng các cha mẹ đang than khóc con mình, để rồi trao lại sự sống
cho con cái họ (cf. Mc 5,41; Lc 7,14-15), bằng cách đó Người cho thấy
ý nghĩa đích thực của lòng thương xót, từ đó hướng tới việc tái lập giao ước
(cf. Gioan Phaolô II, Dives in
Misericordia
, 4). Điều này thật rõ trong cuộc gặp gỡ với người phụ nữ
Samaria (cf. Ga 4,1-30), và với người
phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (cf. Ga 8,1-11), trong đó nhận thức về tội được thức tỉnh trước tình yêu
nhưng không của Đức Giêsu”.[57]

65. Cuộc nhập thể của Ngôi Lời trong một gia đình nhân loại,
ở Nadarét, bằng chính tính mới mẻ của nó đã chạm tới lịch sử thế giới. Chúng ta
cần dìm mình vào trong mầu nhiệm Giáng Sinh của Đức Giêsu, vào trong tiếng “xin
vâng” của Đức Maria đáp lời thiên sứ truyền tin, khi Ngôi Lời được tượng thai
trong cung lòng Mẹ; cũng như trong tiếng “xin vâng” của thánh Giuse, người đã đặt
tên cho Đức Giêsu và chăm sóc Mẹ Maria; trong lễ hội của các mục đồng trước
máng cỏ; trong sự bái thờ của các nhà chiêm tinh; trong cuộc trốn chạy sang Ai
Cập, nơi đó Đức Giêsu thông chia nỗi đau khổ với dân Người bị lưu đày, bị bắt bớ,
và bị làm nhục;trong sự mong đợi thánh thiện của Dacaria và trong niềm vui mừng
khi Gioan Tẩy Giả chào đời; trong lời hứa được ứng nghiệm cho ông Simêon và bà
Anna trong Đền Thờ; trong thái độ sửng sốt của các kinh sư khi lắng nghe sự
khôn ngoan của trẻ Giêsu. Và rồi chúng ta cần nhìn sâu vào ba mươi năm ròng rã,
trong đó Đức Giêsu sinh sống bằng chính đôi tay lao động của mình, Người đọc
các kinh nguyện và truyền thống đức tin của dân mình, và học hỏi đức tin của
cha ông, cho tới khi đức tin ấy sinh hoa kết trái trong mầu nhiệm Nước Trời.
Đây chính là mầu nhiệm của Giáng Sinh và bí mật của Nadarét, tỏa ngát hương
thơm của gia đình! Đó chính mầu nhiệm đã cuốn hút mạnh mẽ thánh Phanxicô
Assisi, Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Charles de Foucauld, và vẫn tiếp tục đổ đầy hi
vọng và niềm vui cho các gia đình Kitô hữu.

66. “Giao ước tình yêu và trung thành được Thánh Gia
Nadarét thực hiện soi sáng nguyên tắc định hình cho mọi gia đình, và giúp gia
đình có thể đương đầu tốt hơn với những thăng trầm của cuộc sống và của lịch sử.
Trên nền tảng này, mỗi gia đình, dù trong yếu đuối, có thể trở thành một ánh
sáng giữa đêm tối của thế giới. “Nơi đây chúng ta hiểu cách sống trong gia
đình. Nadarét nhắc chúng ta về ý nghĩa của gia đình, về sự hiệp thông tình yêu,
vẻ đẹp đơn sơ và giản dị, tính thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình;
làm cho chúng ta thấy gia đình là một trường học ngọt ngào và không thể thay thế,
dạy cho ta biết thế nào là chức năng tự nhiên của gia đình đối với trật tự xã hội”
(Phaolô VI, Diễn từ tại Nadarét,
5.1.1964)”.[58]

67. Công Đồng Chung Vatican II, trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, bày tỏ ưu tư về sự
“thăng tiến phẩm giá của hôn nhân và gia đình (cf. các số 47-52)”. Hiến chế này
“định nghĩa hôn nhân là một cộng đồng sự sống và tình yêu (cf. 48), đặt tình
yêu ở trung tâm gia đình […]. ‘Tình yêu đích thực giữa vợ và chồng (49) hàm chứa
sự tự hiến cho nhau, bao gồm và hội nhập các chiều kích tính dục và tình cảm,
phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa (cf. 48-49). Văn kiện còn nhấn mạnh việc
đôi vợ chồng cắm rễ trong Đức Kitô: Chúa Kitô “đến gặp gỡ đôi vợ chồng Kitô hữu
trong Bí tích Hôn phối” (48) và ở lại với họ. Trong cuộc nhập thể, Người đảm nhận
tình yêu nhân loại, thanh luyện nó và đem nó đến chỗ viên mãn, nhờ Thánh Thần của
Người, Người trao cho đôi vợ chồng khả năng sống tình yêu ấy, làm thấm nhuần
toàn thể cuộc sống họ bằng đức tin, đức cậy và đức mến. Nhờ đó, đôi vợ chồng
như được thánh hiến, và nhờ một ân sủng đặc biệt họ xây dựng Thân Mình Đức Kitô
và làm nên Hội thánh tại gia (cf. Lumen
Gentium
, 11), từ đó Hội thánh, nếu muốn hiểu biết đầy đủ mầu nhiệm của
mình, sẽ nhìn ngắm gia đình Kitô hữu, một thể hiện chân thực của Hội thánh”.[59]

68. Tiếp đến, “Chân Phước Phaolô VI, theo hướng Công Đồng
Vatican II, đã đào sâu đạo lí về hôn nhân và gia đình. Đặc biệt, với Thông điệp
Humanae Vitae, ngài làm sáng tỏ mối
liên kết nội tại giữa tình yêu vợ chồng và việc sinh sản: “Tình yêu hôn nhân
đòi hỏi đôi vợ chồng ý thức đúng đắn về sứ mạng làm cha làm mẹ có trách nhiệm của
mình, điều mà ngày nay người ta có lí để nhấn mạnh rất nhiều, nhưng cũng là điều
cần phải được hiểu đúng. […] Cho nên việc thực thi làm cha làm mẹ có trách nhiệm
đòi hỏi vợ chồng nhận biết các bổn phận của mình đối với Thiên Chúa, với chính
mình, với gia đình mình và với xã hội, phù hợp với một nấc thang giá trị đúng đắn”
(số 10). Trong Tông huấn Evangelii
Nuntiandi
, Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh mối tương quan giữa gia đình và Giáo
Hội”.[60]

69. “Thánh Gioan Phaolô II dành quan tâm đặc biệt cho gia
đình trong những bài giáo lí của ngài về tình yêu nhân loại, trong Thư gửi các
gia đình, Gratissimam sane, và nhất
là trong Tông huấn Familiaris consortio.
Trong những văn kiện này, đức Giáo Hoàng đã xác định gia đình là ‘con đường của
Hội thánh’; ngài cũng đưa ra một viễn ảnh chung về ơn gọi tình yêu của người
nam và người nữ; ngài đề ra những hướng dẫn căn bản cho mục vụ gia đình, cũng
như sự hiện diện của gia đình trong xã hội. Cách riêng, khi nói về tình yêu vợ
chồng (cf. số 13), ngài mô tả cách mà các đôi vợ chồng, trong tình yêu thương
nhau, nhận được ơn huệ của Thánh Thần của Đức Kitô và sống ơn gọi nên thánh
dành cho mình”.[61]

70. “Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, trong Thông điệp Deus Caritas est, đã trở lại với chủ đề
về sự thật của tình yêu nam nữ, vốn chỉ được soi sáng đầy đủ trong tình yêu của
Đức Kitô chịu đóng đinh (cf. số 2). Ngài nhấn mạnh rằng ‘hôn nhân, dựa trên một
tình yêu đơn nhất và mãi mãi, trở thành một biểu tượng của mối tương quan giữa
Thiên Chúa và dân Ngài, và ngược lại. Cung cách yêu thương của Thiên Chúa trở thành
thước đo cho tình yêu nhân loại’ (11). Hơn nữa, trong Thông điệp Caritas in Veritate, ngài nêu bật tầm
quan trọng của tình yêu như một nguyên tắc cho đời sống trong xã hội (cf. 44),
nơi đó người ta học kinh nghiệm về công ích”.[62]

71. “Thánh Kinh và Thánh Truyền mở ra cho chúng ta lối tiếp
cận để nhận thức về Thiên Chúa Ba Ngôi, được mạc khải bằng những nét của gia
đình. Gia đình là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng […] là sự hiệp thông của các
ngôi vị. Khi Đức Kitô chịu Phép Rửa, tiếng Chúa Cha vang lên, gọi Đức Giêsu là
Con yêu dấu, và trong tình yêu này chúng ta có thể nhận ra Chúa Thánh Thần (cf.
Mc 1,10-11). Đức Giêsu, Đấng đã hòa
giải mọi sự nơi chính mình và đã cứu chuộc loài người khỏi tội lỗi, không chỉ
trả hôn nhân và gia đình về hình thức nguyên thủy của nó, mà còn nâng hôn nhân
lên thành dấu chỉ bí tích tình yêu của Người đối với Hội thánh (cf. Mt 19,1-12; Mc 10,1-12; Ep 5,21-32).
Trong gia đình nhân loại được qui tụ bởi Đức Kitô, “hình ảnh và là họa ảnh” của
Ba Ngôi Chí Thánh (cf. St 1,26), mầu
nhiệm mà từ đó tuôn trào mọi tình yêu đích thực, đã được phục hồi. Từ Đức Kitô,
ngang qua Hội thánh, hôn nhân và gia đình đón nhận ân sủng của Chúa Thánh Thần,
để làm chứng cho Tin mừng về tình yêu của Thiên Chúa”.[63]

72. Bí tích Hôn Phối không phải là một qui ước xã hội, một
nghi thức trống rỗng, hay chỉ là dấu hiệu bên ngoài của một cam kết. Bí tích
này là một ơn ban nhằm thánh hóa và cứu độ đôi vợ chồng, vì “việc họ thuộc về
nhau là một hình ảnh thực, qua dấu chỉ bí tích, diễn tả chính mối tương quan giữa
Đức Kitô và Hội thánh. Vì thế đôi hôn phối là một lời nhắc nhở thường xuyên cho
Hội thánh về điều đã xảy ra trên thập giá; họ là chứng nhân của ơn cứu độ cho
nhau và cho con cái, một ơn mà họ được dự phần nhờ bí tích này”.[64] Hôn nhân là một ơn gọi, xét
như đó là sự đáp trả một tiếng gọi đặc biệt sống tình yêu vợ chồng, như một dấu
chỉ không hoàn hảo của tình yêu giữa Đức Kitô và Hội thánh. Vì thế, quyết định
kết hôn và xây dựng gia đình phải là kết quả của một sự phân định ơn gọi.

73. “Việc trao hiến cho nhau trong Bí tích Hôn Nhân có căn
nguyên từ ân sủng của Bí tích Rửa Tội, vốn là Bí tích thiết lập giao ước nền tảng
của mỗi người với Đức Kitô, trong Hội thánh. Khi đón nhận nhau, và với ân sủng
của Đức Kitô, đôi hôn phối hứa hoàn toàn dâng hiến cho nhau, trung thành với
nhau và sẵn sàng đón nhận sự sống mới, họ nhìn nhận những ơn huệ Thiên Chúa ban
cho mình như những yếu tố thiết yếu của hôn nhân, và nghiêm túc cam kết thuộc về
nhau, nhân danh Thiên Chúa, trước sự hiện diện của Hội thánh. Như vậy, trong đức
tin họ có thể đảm nhận những thiện ích của hôn nhân như những cam kết có thể được
thực thi tốt hơn nhờ sự trợ giúp của ân sủng bí tích. […] Vì thế, Hội thánh
nhìn đôi bạn như trái tim của toàn thể gia đình, phần mình, gia đình cũng hướng
nhìn về Đức Giêsu”.[65] Bí tích không phải là một
“sự vật” hay một “sức mạnh” nào đó, vì thực ra chính Đức Kitô “đến gặp gỡ các
đôi vợ chồng Kitô hữu qua Bí tích Hôn Phối. Người ở lại với họ, ban sức mạnh
cho họ để họ nhận lấy thập giá của mình mà bước đi theo Người, chỗi dậy sau khi
qụy ngã, tha thứ cho nhau, và vác lấy gánh nặng của nhau”.[66]
Hôn nhân Kitô giáo là một dấu chỉ không đơn giản cho thấy Đức Kitô đã yêu Hội
thánh của Người biết bao trong Giao ước được đóng ấn trên thập giá, nhưng nó
còn làm cho tình yêu ấy hiện diện trong mối hiệp thông của đôi vợ chồng. Khi trở
nên một xương một thịt, họ diễn tả sự kết hợp của Con Thiên Chúa với bản tính
nhân loại. Vì thế “trong những niềm vui của tình yêu và của đời sống gia đình,
Thiên Chúa ban cho họ, được nếm trước tiệc cưới Con Chiên ngay từ đời này”.[67] Mặc dù “sự so sánh loại suy
giữa người chồng và người vợ với mối tương quan giữa Đức Kitô và Hội thánh là một
“so sánh loại suy bất toàn”,[68] nó cũng mời gọi chúng ta khẩn
cầu Chúa đổ tràn tình yêu của Người vào những giới hạn của các tương quan vợ chồng.

74. Kết hợp tính dục được vợ chồng trải nghiệm một cách
nhân bản và được thánh hóa bởi bí tích, đến lượt nó là con đường cho đôi vợ chồng
lớn lên trong đời sống ân sủng. Đó là “mầu nhiệm hôn phối”.[69]
Giá trị của sự kết hợp thân xác được diễn tả trong những lời ưng thuận, trong
đó hai vợ chồng đón nhận và hiến dâng cho nhau, để chia sẻ với nhau trọn cả cuộc
sống. Những lời ấy đem đến cho tính dục một ý nghĩa và giải phóng nó khỏi mọi
hàm hồ. Nhưng trong thực tế, toàn thể đời sống chung của vợ chồng, toàn thể mạng
lưới các mối quan hệ mà họ dệt nên giữa họ, với con cái của họ và với thế giới,
sẽ được nhận chìm và củng cố trong ân sủng của bí tích, vốn được phát nguồn từ
mầu nhiệm Nhập thể và Vượt Qua, trong đó Thiên Chúa biểu lộ tất cả tình yêu của
Ngài dành cho nhân loại và tình yêu đó đã nên một thâm sâu với nhân tính. Họ sẽ
không bao giờ đơn độc đối đầu với các thách đố xuất hiện trên đường đời bằng sức
riêng của mình. Họ được mời gọi đáp lại ơn huệ của Thiên Chúa bằng một sự dấn
thân, sáng tạo, kiên trì, và chiến đấu hằng ngày, nhưng họ luôn có thể khẩn cầu
Chúa Thánh Thần, Đấng đã thánh hiến mối kết hợp của họ, để ân sủng mà họ lãnh
nhận được thể hiện một cách mới mẻ trong mỗi hoàn cảnh mới mà họ gặp.

75. Theo truyền thống Hội thánh Latinh, các thừa tác viên của
Bí tích Hôn Phối là chính người nam và người nữ đang kết hôn,[70] qua việc bày tỏ sự ưng thuận
và diễn tả nó qua việc trao hiến cho nhau, nhờ đó họ nhận được một quà tặng lớn
lao. Sự ưng thuận và sự kết hợp thân xác là phương tiện để Thiên Chúa hành động
nhờ đó họ trở nên “một xương một thịt”. Trong Phép Rửa Tội, họ được thánh hiến
với khả năng kết hôn trong tư cách những thừa tác viên của Chúa đáp lại tiếng gọi
của Thiên Chúa. Vì thế, khi đôi vợ chồng không phải là Kitô hữu lãnh phép Rửa,
họ không cần lặp lại lời hứa kết hôn và chỉ cần họ đừng loại bỏ lời hứa ấy, bởi
lẽ, do việc lãnh nhận phép Rửa, sự kết hợp của họ đương nhiên trở thành bí
tích. Giáo Luật cũng nhìn nhận sự hữu hiệu của một số cuộc kết hôn được cử hành
mà không có sự hiện diện của một thừa tác viên chức thánh.[71]
Quả thật, trật tự tự nhiên đã được đảm nhận bởi ơn cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô
theo cách thế nào đó đến nỗi “không thể có một khế ước hôn nhân thành sự giữa
hai người đã được Rửa Tội, nếu khế ước ấy đồng thời không phải là bí tích”.[72] Hội thánh có thể đòi hỏi cuộc
kết hôn phải được cử hành công khai, với sự hiện diện của những người làm chứng,
và những điều kiện khác, vốn thay đổi theo dòng thời gian của lịch sử, nhưng điều
này không hề tước khỏi đôi bạn đặc tính là thừa tác viên của bí tích, nó cũng
không làm giảm đi giá trị cốt lõi của sự ưng thuận được diễn tả bởi người nam
và người nữ, sự ưng thuận này tự nó thiết lập mối ràng buộc bí tích. Dù sao đi
nữa, sau cùng, chúng ta cũng cần suy tư về hành động của Thiên Chúa trong nghi
thức hôn phối; điều này được thể hiện rõ ràng trong các Giáo Hội Đông phương với
tầm quan trọng đặc biệt của việc chúc lành cho đôi bạn như dấu chỉ của ân huệ
Thánh Thần.

76. “Tin mừng về gia đình cũng nuôi dưỡng những hạt giống vẫn
đang chờ phát triển chín muồi, và phải chăm sóc những cây đang bị khô héo và nhất
thiết không được bỏ bê”[73], theo cách, khởi đi từ ơn
huệ của Đức Kitô trong bí tích, đôi vợ chồng cần “được kiên trì hướng dẫn hơn nữa,
để đạt được một sự hiểu biết phong phú hơn và một sự hội nhập đầy đủ hơn Mầu
nhiệm này vào đời sống của họ”.[74]

77. Theo lời dạy của Thánh Kinh mọi sự đã được tạo dựng nhờ
Đức Kitô và cho Đức Kitô (cf. Cl
1,16), các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã nhắc nhở rằng “trật tự cứu chuộc soi
sáng và hoàn thành trật tự tạo thành. Vì thế, hôn nhân tự nhiên được hiểu một
cách đầy đủ trong ánh sáng sự hoàn thành của nó trong Bí tích Hôn Phối: chỉ bằng
cách nhìn chăm chú lên Đức Kitô người ta mới nhận biết sự thật sâu xa nhất về
các mối tương quan nhân loại. “Chỉ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể mầu nhiệm
về con người mới thật sự được sáng tỏ. […] Chúa Kitô, Ađam mới, chính trong khi
mạc khải mầu nhiệm về Chúa Cha và tình yêu của Ngài, cũng giúp con người hiểu
biết đầy đủ về chính mình và nhận ra ơn gọi vô cùng cao quí của mình” (GS, 22). Bởi thế thật thích hợp để hiểu
những thuộc tính tự nhiên của hôn nhân, thiện ích của đôi vợ chồng, theo viễn
tượng qui Kitô (bonum coniugum)”,[75] những thiện ích ấy bao gồm
sự hiệp nhất, sự mở ra đón nhận sự sống, sự chung thủy, tính bất khả phân li,
và trong hôn nhân Kitô giáo còn có sự nâng đỡ nhau trên con đường hướng đến
tình bạn trọn vẹn với Chúa. “Việc phân định sự hiện diện của ‘các hạt giống Lời’
(semina Verbi) trong các nền văn hóa
khác (cf. Ad Gentes 11) cũng có thể
áp dụng cho thực tại hôn nhân và gia đình. Bên cạnh hôn nhân tự nhiên đích thực,
trong những hình thức hôn nhân trong các truyền thống tôn giáo khác cũng có các
yếu tố tích cực”,[76] cho dù cũng không thiếu
bóng tối. Chúng ta có thể khẳng định rằng “Người nào muốn xây dựng trong thế giới
này một gia đình nơi mà con cái được dạy cho biết vui thích với mọi hành động
nhằm thắng vượt sự dữ – một gia đình chứng minh Thánh Thần đang sống và hoạt động
– thì sẽ nhận được lòng biết ơn và sự trân trọng, cho dẫu họ thuộc dân tộc, tôn
giáo hay vùng miền nào đi nữa”[77].

78. “Ánh nhìn của Đức Kitô, là ánh sáng chiếu soi mọi người
(cf. Ga 1,9; GS, 22), sẽ gợi hứng cho Hội thánh trong việc chăm sóc mục vụ cho
các tín hữu đang đơn thuần sống chung, hay chỉ kết hôn dân sự hay đã li dị tái
hôn. Trong viễn tượng của khoa sư phạm thần linh, Hội thánh yêu thương hướng đến
những ai tham dự vào đời sống của Hội thánh một cách không hoàn hảo: Hội thánh
cùng với họ cầu xin ơn hoán cải, khích lệ họ làm điều thiện, ân cần yêu thương
chăm sóc lẫn nhau và phục vụ cộng đồng nơi họ sống và làm việc. […] Một khi sự
kết hợp đạt được một mức ổn định đáng kể xuyên qua một mối ràng buộc công khai
– và cho thấy có một tình cảm sâu đậm, trách nhiệm đối với con cái và khả năng
vượt qua các thử thách – thì có thể được xem như một cơ hội, để nếu có thể, đồng
hành với họ hướng tới Bí tích Hôn Phối”.[78]

79. “Trước những hoàn cảnh khó khăn và những gia đình bị
thương tích, luôn luôn cần nhớ lại một nguyên tắc chung: “Các mục tử phải biết
rằng, vì lòng yêu mến sự thật, họ buộc phải cẩn thận phân định các hoàn cảnh” (FC, 84). Mức trách nhiệm không ngang
nhau trong mọi trường hợp, và có thể tồn tại các yếu tố làm hạn chế khả năng
quyết định. Vì thế, trong khi cần nêu rõ ràng đạo lí của Hội thánh, phải tránh
những phán đoán thiếu xét đến tính phức tạp của các hoàn cảnh khác nhau, và cần
lưu tâm đến cách họ sống nỗi đau khổ mà họ đang chịu do tình trạng của họ”.[79]

80. Hôn nhân trước hết là một “cộng đồng thân mật của sự sống
và tình yêu”[80] vốn là một thiện ích cho
chính đôi vợ chồng,[81] và tính dục được “qui hướng
tới tình yêu phu phụ giữa người nam và người nữ”.[82]
Theo đó thì “những đôi phối ngẫu không được Thiên Chúa ban cho có con cái, vẫn
có thể có đời sống hôn nhân đầy ý nghĩa, trên bình diện nhân bản lẫn Kitô
giáo”.[83] Tuy nhiên, sự kết hợp này
“tự chính bản tính của nó” được qui hướng về sinh sản.[84]
Đứa con được sinh ra không phải là một cái gì từ bên ngoài được thêm vào tình
yêu hỗ tương của đôi vợ chồng; nó xuất hiện ngay ở trung tâm của việc hai người
hiến thân cho nhau, như hoa trái và sự hoàn thành của việc hiến thân cho nhau
đó”.[85] Đứa con không xuất hiện ở
cuối một tiến trình, nhưng hiện diện ngay từ đầu của tình yêu như một đặc tính
thiết yếu không thể bị chối bỏ nếu không muốn làm khuyết dạng chính tình yêu ấy.
Ngay từ đầu, tình yêu từ khước mọi thúc ép khép kín mình lại và mở ra cho một
khả năng phong nhiêu có sức kéo dài tình yêu vượt trên cuộc sống riêng của
mình. Vì thế không một hành vi giao hợp vợ chồng nào có thể khước từ ý nghĩa
này,[86] cho dù, vì nhiều lí do, có
thể không luôn luôn thực sự đem lại một sự sống mới.

81. Đứa con phải được sinh ra từ một tình yêu như thế, chứ
không phải bằng bất cứ phương cách nào khác, vì “đứa con không phải là một của
nợ, nhưng là một tặng phẩm”,[87] đứa con là “hoa trái của
hành vi đặc thù của tình yêu phu phụ giữa cha mẹ”.[88]
Bởi vì “theo trật tự tạo thành, tình yêu phu phụ giữa một người nam và một người
nữ và sự thông truyền sự sống được qui hướng về nhau (cf. St 1,27-28). Bằng cách đó Đấng Tạo Hóa đã làm cho người nam và người
nữ được tham dự vào công trình tạo dựng của Ngài và đồng thời làm cho họ thành
những dụng cụ diễn tả tình yêu của Ngài, ủy thác cho họ trách nhiệm đối với
tương lai của loài người xuyên qua việc thông truyền sự sống con người”.[89]

82. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng khẳng định rằng “không khó
nhận thấy một não trạng tràn lan muốn giảm trừ việc thông truyền sự sống con
người xuống chỉ còn là một dự phóng thất thường của cá nhân hay đôi bạn”.[90] Giáo huấn của Hội thánh “giúp
các đôi bạn sống một cách hài hòa và ý thức tình hiệp thông vợ chồng trong mọi
chiều kích của nó, cùng với trách nhiệm sinh sản. Cần khám phá lại Thông điệp Humanae Vitae của Đức Phaolô VI, trong
đó nhấn mạnh sự cần thiết phải tôn trọng phẩm giá của nhân vị khi đánh giá về mặt
luân lí những phương pháp điều hòa sinh sản. […] Việc chọn giải pháp nhận con
nuôi và nhận ủy thác chăm sóc trẻ cũng biểu lộ một sự phong nhiêu đặc biệt của
kinh nghiệm hôn nhân”.[91] Với lòng biết ơn đặc biệt,
Hội thánh “ủng hộ các gia đình đón nhận, nuôi dưỡng và bao bọc bằng tình thương
những đứa con bị các khuyết tật khác nhau”.[92]

83. Trong bối cảnh này tôi không thể không khẳng định rằng
nếu gia đình là cung thánh của sự sống, là nơi mà sự sống được khai sinh và
chăm sóc, thì quả là mâu thuẫn khủng khiếp khi nó trở thành một nơi mà sự sống
bị loại bỏ và hủy diệt. Giá trị của sự sống một con người cao cả biết bao, và
quyền được sống của một trẻ thơ vô tội lớn lên trong cung lòng người mẹ là bất
khả nhượng, đến nỗi không ai có thể viện lẽ rằng mình có quyền trên thân thể
mình để biện minh cho quyết định chấm dứt sự sống ấy, vốn là một cứu cánh tự
thân và không bao giờ được xem như đối tượng cho sự thống trị của một người
khác. Gia đình bảo vệ sự sống con người trong mọi giai đoạn của nó, kể cả giai
đoạn cuối cùng. Do đó, “những ai làm việc trong các cơ quan y tế được nhắc nhớ
về nghĩa vụ luân lí phải biết phản đối theo lương tâm. Cũng thế, Hội thánh
không chỉ cảm thấy khẩn thiết phải khẳng định quyền được chết tự nhiên, tránh
can thiệp trị liệu thô bạo và gây cái chết êm dịu (eutanasia)”, mà còn “kiên quyết phản đối án tử hình”.[93]

84. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng muốn nhấn mạnh rằng “một
trong những thách đố nền tảng mà các gia đình ngày nay phải đối mặt chắc hẳn là
việc giáo dục con cái, việc này càng khó khăn và phức tạp hơn nữa do thực tế
văn hóa thời nay và ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền thông”.[94]
“Hội thánh có một vai trò quí giá là nâng đỡ các gia đình, khởi đi từ việc khai
tâm Kitô giáo, xuyên qua các cộng đoàn luôn sẵn sàng đón tiếp”.[95] Thế nhưng tôi cảm thấy thật
quan trọng để nhắc lại rằng việc giáo dục toàn diện cho con cái là một “bổn phận
hệ trọng nhất” và đồng thời là một “quyền đệ nhất” của cha mẹ.[96] Vấn đề không chỉ là một
trách nhiệm hay một gánh nặng, nhưng còn là một quyền thiết yếu và bất khả nhượng
mà cha mẹ được mời gọi để bảo vệ và không ai có thể tước nó khỏi cha mẹ. Nhà nước
cung ứng các chương trình giáo dục theo cách bổ trợ, nhằm hỗ trợ các cha mẹ
trong chức năng không thể ủy thác này; cha mẹ có quyền tự do chọn lựa loại hình
giáo dục – có phẩm chất tốt và tiếp cận được – mà họ muốn trao gửi cho con cái
mình, theo những xác tín của họ. Trường học không thay thế cha mẹ, nhưng chỉ bổ
sung. Đây là một nguyên tắc căn bản: “Bất cứ ai hợp tác vào tiến trình giáo dục
phải hành động nhân danh các phụ huynh, với sự đồng thuận của họ và, trong mức
độ nào đó, còn với sự ủy quyền của các phụ huynh”.[97]
Thế nhưng, “một kẽ nứt đã lộ ra giữa gia đình và xã hội, giữa gia đình và học
đường; khế ước giáo dục ngày nay đã bị phá vỡ; và như thế giao ước giáo dục giữa
xã hội và gia đình đang lâm vào khủng hoảng”.[98]

85. Hội thánh được mời gọi cộng tác với các bậc cha mẹ qua
một hoạt động mục vụ thích hợp, hỗ trợ họ trong việc chu toàn sứ mạng giáo dục
con cái. Hội thánh phải luôn luôn làm việc này bằng cách giúp các cha mẹ trân
trọng vai trò riêng của mình và nhận ra rằng ai đã nhận lãnh Bí tích Hôn Phối
thì trở thành những thừa tác viên giáo dục đích thực, bởi lẽ khi giáo dục con
cái là họ đã xây dựng Hội thánh,[99] và khi làm thế, họ chấp nhận
một ơn gọi do Thiên Chúa ban.[100]

86. “Với niềm vui bên trong và niềm an ủi thâm sâu, Hội
thánh hướng nhìn đến các gia đình kiên trung sống các giáo huấn của Tin mừng,
cám ơn họ và khích lệ họ về chứng từ mà họ trao. Thật vậy, nhờ họ mà vẻ đẹp của
hôn nhân bất khả phân li và trung tín, trở nên đáng tin. Trong gia đình, ‘vốn
có thể gọi là Hội thánh tại gia’ (Lumen
Gentium
, 11), ta được dần trưởng thành kinh nghiệm trong Hội thánh về mối
hiệp thông giữa các ngôi vị, nơi đó, nhờ ân sủng, phản ánh chính mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi. ‘Ở đó, người ta học được sự kiên nhẫn và niềm vui của lao động,
tình yêu thương huynh đệ, sự tha thứ quảng đại, thậm chí tha thứ nhiều lần, và
nhất là việc phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và sự hiến dâng cuộc đời
mình’ (GLHTCG, 1657)”.[101]

87. Hội thánh là Gia đình của các gia đình, thường xuyên được
làm phong phú bởi đời sống của tất cả các Hội thánh tại gia. Bởi thế, “nhờ Bí
tích Hôn Phối, mỗi gia đình thực sự trở thành một thiện ích cho Hội thánh.
Trong viễn ảnh này, việc xem xét mối tương tác giữa gia đình và Hội thánh chắc
chắn sẽ là một ơn ban quí giá cho Hội thánh ngày nay: Hội thánh là một phúc
lành cho gia đình, và gia đình là một phúc lành cho Hội thánh. Việc gìn giữ hồng
ân Bí tích của Chúa không chỉ liên hệ đến các gia đình riêng lẻ, nhưng còn đến
chính cộng đoàn Kitô hữu”.[102]

88. Kinh nghiệm yêu thương trong các gia đình là một sức mạnh
thường xuyên cho đời sống của Hội thánh. “Cứu cánh kết hợp của hôn nhân là một
lời kêu gọi không ngừng làm triển nở và đào sâu tình yêu này. Khi kết hợp với
nhau trong tình yêu, đôi bạn cảm nghiệm vẻ đẹp của thiên chức làm cha làm mẹ; họ
chia sẻ cho nhau những dự phóng và nhọc nhằn, những khát vọng và ưu tư; họ học
chăm sóc và tha thứ cho nhau. Trong tình yêu này, họ cử hành những thời khắc hạnh
phúc của mình và nâng đỡ nhau trong những lúc khó khăn của lịch sử đời sống.
[…] Vẻ đẹp của sự trao hiến hỗ tương và vô cầu, niềm vui vì một sự sống được
sinh ra và sự chăm sóc yêu thương của mọi thành viên trong gia đình – từ trẻ nhỏ
cho đến người già – là một vài trong rất nhiều hoa trái làm cho việc đáp trả đối
với ơn gọi gia đình trở nên độc đáo và không thể thay thế được”,[103] cho Hội thánh cũng như cho
toàn xã hội.

89. Tất cả những gì đã nói cho tới đây vẫn chưa đủ để diễn
tả Tin mừng về hôn nhân và gia đình, nếu chúng ta không dừng lại để đặc biệt nói về tình yêu. Bởi vì chúng ta không
thể khuyến khích một cuộc hành trình của lòng trung thành và tự hiến cho nhau nếu
không khích lệ sự lớn lên, sự củng cố và đào sâu tình yêu hôn nhân và gia đình.
Thật vậy, ơn sủng của Bí tích Hôn Phối được nhắm trước hết là “để làm cho tình
yêu của đôi bạn nên trọn hảo”.[104] Trong trường hợp này chúng
ta cũng có thể nói rằng “giả như tôi có tất cả đức tin đến chuyển núi dời non,
mà không có tình yêu, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài
bố thí hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có tình yêu, thì
cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr
13,2-3). Tuy nhiên, nếu từ “tình yêu” rất hay được dùng thì nó cũng rất hay bị
lạm dụng.[105]

90. Trong cái được gọi là bài ca đức mến của Thánh Phaolô,
chúng ta gặp thấy một số nét của tình yêu đích thực:

“Đức mến thì nhẫn nhục,
hiền hậu,
Không ghen tương,
không vênh vang, không tự đắc,
Không làm điều bất
chính, không tìm tư lợi,
Không nóng giận, không
nuôi hận thù,
Không mừng khi thấy sự
gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Đức mến tha thứ tất cả,
tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”.
(1 Cr 13,4-7).

Tình yêu được sống và được vun trồng trong cuộc sống mà hằng
ngày đôi vợ chồng và con cái họ cùng chia sẻ. Do đó, dừng lại để xác định ý
nghĩa của các diễn ngữ của bản văn này, để rồi thử áp dụng vào cuộc sống cụ thể
của mỗi gia đình, là điều đáng quí.

91. Diễn ngữ đầu tiên được dùng là macrothymei. Từ ngữ này không chỉ được chuyển dịch là “chịu đựng tất
cả”, vì chúng ta gặp thấy ý tưởng ấy ở cuối câu 7. Ý nghĩa của từ này được làm
sáng tỏ nhờ bản dịch tiếng Hi lạp của Cựu Ước, ở đó người ta khẳng định rằng
Thiên Chúa “chậm giận” (Xh 34,6; Ds 14,18). Nó cho thấy khi một người
không hành động theo những xung năng bộc phát và tránh gây tổn thương. Đó là một
đặc tính của vị Thiên Chúa của Giao ước, Đấng kêu gọi chúng ta bắt chước Ngài cả
trong đời sống gia đình. Các bản văn của Thánh Phaolô có dùng từ ngữ này phải
được đọc trên nền hậu cảnh của sách Khôn Ngoan (cf. 11,23; 12,2.15-18): ở đó
người ta ca tụng sự kiềm chế của Thiên Chúa nhằm chừa chỗ cho khả năng thống hối,
đồng thời vẫn khẳng định quyền năng của Ngài được bộc lộ khi hành động với lòng
thương xót. Sự nhẫn nhục của Thiên Chúa là việc thực thi lòng thương xót của
Ngài đối với tội nhân, và là sự biểu lộ quyền năng đích thực của Ngài.

92. Nhẫn nhục không có nghĩa là cho phép mình thường xuyên
bị xử tệ, hoặc dung túng cho những bạo hành trên thân xác, hay cho phép người
khác đối xử với mình như một đồ vật. Vấn đề xảy ra là khi chúng ta đòi các mối
tương quan phải êm ả hay người ta phải hoàn hảo, hoặc khi chúng ta đặt mình ở
trung tâm và mong đợi duy nhất một điều là mọi sự đi theo ý muốn của mình. Rồi
thì mọi sự làm chúng ta mất kiên nhẫn, mọi sự làm chúng ta phản ứng cách hung
hăng. Nếu chúng ta không vun xới thái độ nhẫn nhục, chúng ta sẽ luôn luôn phải
hối tiếc vì cư xử giận dữ, và rốt cuộc chúng ta sẽ không thể sống chung với nhau,
chống lại xã hội, chúng ta không có khả năng làm chủ được các xung năng của
mình, và gia đình sẽ biến thành bãi chiến trường. Vì thế Lời Chúa khuyên chúng
ta: “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và
hãy loại trừ mọi hành vi gian ác” (Ep
4,31). Đức nhẫn nhục được tăng thêm khi tôi nhìn nhận người khác cũng có quyền
sống trên trái đất này cùng với tôi, như sự thực là thế. Việc họ có ngáng trở
tôi, làm xáo trộn các kế hoạch của tôi, hay họ làm tôi bực mình do lối sống của
họ hay bởi cách suy nghĩ của họ, hoặc trong mọi sự không theo cách mà tôi vẫn
mong đợi, là điều không quan trọng. Tình yêu luôn luôn bao hàm một ý thức
thương cảm sâu xa dẫn tới việc chấp nhận người khác như một phần của thế giới
này, ngay cả khi người ấy hành động khác với kì vọng của tôi.

93. Từ ngữ kế tiếp là chrestéuetai
chỉ được dùng một lần duy nhất ở đây trong toàn bộ Thánh Kinh, được rút ra
từ chữ chrestós (có nghĩa: người tốt,
người cho thấy lòng tốt qua các việc làm của mình). Tuy nhiên, xét vị trí của từ
ở đây đứng song song gắn chặt với động từ đi trước, nó được dùng như một bổ ngữ.
Như thế thánh Phaolô muốn nói rõ rằng “nhẫn nhục” được nêu ra đầu tiên không phải
là một thái độ hoàn toàn thụ động, nhưng là một thái độ gắn liền với hoạt động,
với một tương tác năng động và sáng tạo với người khác. Nó cho thấy rằng yêu là
làm điều tốt cho người khác và thăng tiến người khác. Vì vậy nó được dịch là
“nhân hậu”.

94. Xem toàn bản văn, ta thấy thánh Phaolô muốn nhấn mạnh
tình yêu không chỉ là một cảm xúc thuần túy, nhưng đúng hơn, nó phải được hiểu
theo động từ “yêu” của tiếng Hípri; nghĩa là “làm điều tốt”. Như Thánh Inhaxiô
Loyola nói: “Tình yêu phải được thể hiện bằng việc làm nhiều hơn bằng lời nói”.[106] Như thế nó cho thấy tất cả
sự phong nhiêu của nó và giúp ta cảm nghiệm niềm hạnh phúc của việc trao ban, sự
cao quí và vĩ đại của việc dâng hiến chính mình một cách hào phóng, vô lượng,
không đòi được đền đáp, nhưng chỉ vui qua trao ban và phục vụ.

95. Một thái độ, bởi đó, cũng bị từ chối vì đối nghịch với
tình yêu, được diễn tả bằng chữ zelos
(ghen tương hay đố kị). Điều này có nghĩa là trong tình yêu không có chỗ cho sự
khó chịu trước điều may mắn tốt lành của người khác (cf. Cv 7,9; 17,5). Ghen tị là buồn bực trước một điều thiện hảo của người
khác, nó chứng tỏ  ta không quan tâm đến
hạnh phúc của người khác mà chỉ tập chú vào lợi ích của ta. Trong khi yêu
thương đưa chúng ta ra khỏi chính mình, thì ghen tị lại qui chúng ta trở về với
cái tôi của mình. Tình yêu đích thực thì quí trọng sự thành công của người
khác, không xem điều ấy như một sự đe dọa đối với mình, giải thoát ta khỏi vị đắng
cay của ghen tị. Nó nhìn nhận rằng mỗi người có những ơn ban khác nhau và có những
lối đường khác nhau trong cuộc sống. Vì thế nó cố gắng khám phá con đường hạnh
phúc của mình, trong khi để cho người khác tìm thấy con đường của họ.

96. Tóm lại, yêu thương có nghĩa là chu toàn hai giới răn
cuối cùng của Lề Luật Thiên Chúa: “Ngươi không được ham muốn nhà người ta;
ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ
vật gì của người ta” (Xh 20,17). Tình
yêu khơi lên một niềm quí trọng chân thành đối với mỗi người và nhìn nhận quyền
được hạnh phúc của người khác. Tôi yêu con người này, và tôi nhìn người ấy với
ánh nhìn của Thiên Chúa là Cha, Đấng trao ban cho chúng ta mọi sự “để chúng ta
được hưởng dùng” (1 Tm 6,17), và như
vậy, tôi chấp nhận trong lòng rằng người ấy có thể vui hưởng một khoảnh khắc hạnh
phúc. Dù sao đi nữa, chính tình yêu cội rễ này cũng sẽ hướng tôi đến chỗ chối bỏ
sự bất công vì lẽ một số người chiếm hữu quá nhiều và những người khác thì
không có gì cả, tình yêu ấy thúc giục tôi làm cách nào để giúp những người bị
xã hội loại bỏ cũng hưởng được chút niềm vui. Nhưng đó không phải là ghen tị,
nhưng là khát vọng về sự bình đẳng.

97. Tiếp đến là diễn ngữ perpereuetai hàm nghĩa sự tự đắc, lo lắng thể hiện sự trổi vượt của
mình nhằm tạo ấn tượng trên những người khác qua thái độ mô phạm và hung hăng.
Người yêu thương thì không những biết tránh không nói quá nhiều về chính mình,
mà hơn nữa, vì tập chú vào người khác, người ấy biết đặt mình vào vị trí của
người khác, không đòi làm trung tâm của mọi sự chú ý. Từ ngữ physioutai tiếp theo sau cũng có nghĩa
tương tự, cho thấy rằng yêu thương thì không cao ngạo. Theo sát nghĩa từ ấy muốn
diễn tả chúng ta không “lên mặt” trước người khác, cũng cho thấy một cái gì đó
tinh tế hơn. Đó không chỉ là một nỗi ám ảnh muốn khoe khoang những phẩm chất của
mình mà còn là mất ý thức về thực tại. Ta tự xem mình cao trọng hơn sự thực
mình là, vì tưởng rằng mình “đạo đức” hơn hay “khôn ngoan” hơn. Thánh Phaolô
còn dùng động từ này trong những trường hợp khác nữa, như khi ngài nói “sự hiểu
biết sinh lòng kiêu ngạo, còn tình yêu thì xây dựng” (1 Cr 8,1). Cũng đáng nói là, một số người nghĩ rằng họ cao trọng vì
họ hiểu biết hơn những người khác, và ra sức đòi hỏi và khống chế những người
khác, trong khi điều thực sự làm ta cao trọng chính là một tình yêu biết cảm
thông, quan tâm, và nâng đỡ những người yếu đuối. Trong một đoạn khác, thánh
Phaolô dùng từ này để phê bình những người “tự cao tự đại” (cf. 1 Cr 4,18), nhưng thực sự họ chỉ nói những
lời trống rỗng hơn là những lời thực sự có “quyền năng” của Thần Khí (cf. 1 Cr 4,19).

98. Thật quan trọng việc người Kitô hữu sống thái độ này
trong cách họ cư xử với những người thân trong gia đình ít hiểu biết hơn mình về
đức tin, họ là những người yếu đuối hoặc thiếu một xác tín chắc chắn. Có khi xảy
ra điều ngược lại: những tín hữu được cho là trưởng thành trong gia đình thì lại
trở thành kẻ cao ngạo không ai chịu nổi. Thái độ khiêm hạ ở đây có vẻ như một
điều gì đó thuộc về tình yêu, bởi vì, để có thể thông cảm, tha thứ và thành tâm
phục vụ người khác, thì cần thiết phải chữa trị thói kiêu ngạo và vun đắp lòng
khiêm nhu. Đức Giêsu lưu ý các môn đệ rằng trong thế giới của quyền lực mỗi người
đều tìm cách để thống trị kẻ khác, và bởi thế Người nói “giữa anh em thì không
như thế” (Mt 20,26). Lối nghĩ về tình
yêu Kitô giáo không phải là lối nghĩ của người đứng bên trên người khác và cần
để họ biết đến quyền lực của mình, nhưng là lối nghĩ “ai muốn làm đầu anh em
thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt
20,27). Trong đời sống gia đình không thể để bao trùm lối nghĩ thống trị lẫn
nhau và sự cạnh tranh để xem ai là người thông minh hơn hay quyền lực hơn, vì
như thế sẽ làm hủy diệt tình yêu. Lời khuyên cho gia đình sau đây cũng thật
đáng giá: “Tất cả anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên
Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5).

99. Yêu thương cũng có nghĩa là làm cho mình đáng yêu, và
đây là ý nghĩa ẩn chứa trong diễn ngữ aschemonei.
Từ ngữ này muốn nói rằng tình yêu thì không hành động thô lỗ, khiếm nhã, không
cư xử gay gắt. Các cách thức, lời nói và cử chỉ của nó đem lại sự dễ chịu và
không chua chát hay cứng cỏi. Yêu thương thì không muốn làm cho người khác đau
khổ. Hòa nhã “là một trường học dạy sự mẫn cảm và tinh thần vô vị lợi”, nó đòi
người ta “phải vun xới tâm tư và tình cảm của mình, học biết lắng nghe, ăn nói,
và có những lúc cũng biết thinh lặng”.[107]
Hòa nhã không phải là một lối sống mà một Kitô hữu có thể chọn lựa hay từ chối:
nó là thành phần trong những đòi hỏi thiết yếu của tình yêu, bởi thế “mỗi người
đều phải để tâm sống thuận thảo với những người xung quanh mình”.[108] Mỗi ngày, “việc bước vào đời
sống của một người khác, ngay cả khi người ấy vốn đã là phần đời của mình, thì
vẫn đòi hỏi một thái độ tế nhị không xâm phạm, điều này có sức làm mới lại niềm
tin tưởng và sự kính trọng. Tình yêu càng thân mật và sâu xa, càng đòi hỏi tôn
trọng tự do và khả năng chờ đợi người ấy mở cửa lòng ra”.[109]

100. Để
sẵn sàng đón nhận một cuộc gặp gỡ đích thực với người khác, đòi hỏi phải có một
cái nhìn nhân hậu đối với người ấy. Điều này không thể có được khi ta luôn có
thái độ bi quan nhìn người khác như muốn vạch ra những khuyết điểm và sai lầm của
họ, có lẽ là để khỏa lấp những mặc cảm của mình. Một cái nhìn nhân hậu cho phép
chúng ta không dừng lại quá nhiều trên những giới hạn của người khác, và như thế
chúng ta có thể khoan dung với họ và hiệp nhất với nhau trong một kế hoạch
chung, bất chấp những khác biệt. Tình yêu thương nhân hậu sẽ tạo ra các mối dây
liên kết, vun xới các tương quan, kiến tạo các mạng lưới hội nhập mới và xây dựng
một cơ cấu xã hội vững chắc. Bằng cách này, tình yêu sẽ tự bảo vệ mình, vì nếu
không có một cảm thức thuộc về, thì người ta không thể bền bỉ dấn thân cho người
khác; rốt cuộc mỗi người sẽ chỉ tìm kiếm những gì tiện ích cho mình và không thể
có đời sống chung được. Một người dị ứng với xã hội tin rằng những người khác tồn
tại chỉ để thỏa mãn các nhu cầu của mình, và cho rằng khi làm như thế là họ chỉ
hoàn thành nghĩa vụ của họ. Vì thế không có chỗ cho lòng tử tế  của tình yêu cũng như không có chỗ cho ngôn từ
để diễn tả nó. Ai yêu thương thì có khả năng nói những lời động viên có sức vỗ
về, trợ lực, an ủi, khích lệ. Chúng ta hãy xem, chẳng hạn, một vài lời mà Đức
Giêsu đã nói với người ta: “Này con, cứ yên tâm!” (Mt 9,2); “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!” (Mt 15,28); “Hãy trỗi dậy đi!” (Mc
5,41); “Chị hãy đi bình an” (Lc 7,50);
“Anh em đừng sợ” (Mt 14,27). Đó không
phải là những lời hạ giá người ta, gây buồn phiền, chọc tức hay khinh dễ. Trong
gia đình, chúng ta cần học cách ăn nói hòa nhã với nhau như thế của Đức Giêsu.

101. Chúng
ta đã nói rất nhiều lần rằng để yêu thương người khác, trước hết chúng ta phải
yêu thương chính mình. Thế nhưng, bài ca đức mến này quả quyết rằng yêu thương
thì “không tìm tư lợi”, hoặc “không tìm kiếm điều thuộc về mình”. Diễn ngữ này
cũng được dùng trong một bản văn khác: “Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng
mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,4). Trước một khẳng định rõ ràng như thế của Thánh Kinh cần
tránh gán ưu tiên cho tình yêu đối với chính bản thân như thể nó cao quí hơn sự
quảng đại hiến thân cho người khác. Ưu tiên yêu thương mình chỉ có thể được hiểu
như một điều kiện tâm lí, xét vì ai không có khả năng yêu thương chính mình thì
sẽ khó yêu thương người khác: “Xấu với bản thân thì tốt với ai được? […] Không
ai tệ hơn kẻ làm hại chính mình” (Hc
14,5-6).

102.  Nhưng
chính Thánh Tôma Aquinô đã giải thích rằng “đức ái hệ tại ở ước muốn yêu thương
hơn là ước muốn được yêu thương”;[110]
thật vậy, “những người mẹ, là những người yêu thương nhiều nhất, tìm cách để
yêu hơn là để được yêu”.[111] Bởi thế, tình yêu có thể
vượt lên trên sự công bằng và tuôn tràn một cách vô cầu mà “không hề hi vọng được
đền đáp” (Lc 6,35), và đạt tới tình
yêu vĩ đại nhất, đó là “việc hiến mạng sống mình” cho người khác (cf. Ga 15,13). Liệu một lòng quảng đại như
thế, lòng quảng đại làm ta có thể dâng hiến một cách vô cầu, và dâng hiến cho đến
cùng, còn có thể tồn tại không? Chắc chắn là có, bởi vì đó là điều Tin mừng đòi
hỏi: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,8).

103.  Nếu
diễn ngữ đầu tiên trong bài ca đã mời gọi chúng ta biết nhẫn nhục để tránh
không phản ứng gay gắt ngay lập tức trước những yếu đuối và sai lỗi của người
khác, thì bây giờ xuất hiện một từ ngữ khác – paroxynetai – diễn tả sự bất bình trong lòng như một phản ứng được khơi
lên bởi một cái gì đó từ bên ngoài. Nó diễn tả một phản ứng bạo lực ở bên
trong, một sự tức giận không bộc lộ ra ngoài đặt ta vào thế phòng vệ trước người
khác, như thể họ là kẻ thù gây phiền hà cần phải tránh xa. Việc nuôi dưỡng thái
độ gây hấn trong lòng như thế không có ích gì. Nó chỉ làm ta đau bệnh và rốt cuộc
làm người ta xa lánh. Nóng giận chỉ lành mạnh khi nó làm cho ta phản ứng trước
một bất công nghiêm trọng, nhưng sẽ tác hại khi có chiều hướng tức giận thấm ngập
trong mọi thái độ của ta đối với người khác.

104.  Tin
mừng mời gọi chúng ta tốt hơn hết hãy nhìn cái xà trong mắt mình (cf. Mt 7,5), và với tư cách là Kitô hữu
chúng ta không thể không biết đến Lời Chúa hằng mời gọi đừng nuôi cơn giận: “Đừng
để cho sự ác thắng được mình” (Rm
12,21). “Đừng nản chí vì làm điều thiện” (Gl
6,9). Việc chúng ta đột nhiên cảm thấy một nỗi oán hận hung hăng chực trào lên,
đó là một chuyện; còn việc chúng ta có ưng thuận và dung dưỡng nó thường xuyên
trong tâm hồn mình hay không, thì đó là một chuyện khác: “Anh em nổi nóng ư? Đừng
phạm tội; chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Vì thế, đừng bao giờ để một ngày trôi qua mà không làm
hòa trong gia đình. “Nhưng tôi sẽ làm hòa bằng cách nào? Tôi sẽ quì xuống
chăng? Không! Chỉ cần một cử chỉ nhỏ, một cái gì đó rất đơn sơ thôi, và sự hòa
điệu trong gia đình sẽ được vãn hồi. Chỉ cần một chút âu yếm, chẳng cần lời lẽ
gì. Nhưng đừng bao giờ để một ngày trôi qua mà không làm hòa trong gia đình”.[112] Phản ứng trong lòng của
chúng ta trước phiền nhiễu mà người khác gây ra trước hết phải là một lời chúc
phúc tự trong lòng, muốn điều tốt cho người khác, xin Thiên Chúa giải phóng và
chữa trị người đó. “Nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được kêu gọi
chính là để thừa hưởng lời chúc phúc” (1 Pr
3,9). Nếu chúng ta phải chiến đấu chống lại sự dữ, thì hãy chiến đấu; nhưng
chúng ta phải luôn luôn nói “không” với bạo lực trong gia đình.

105.  Nếu
chúng ta cho phép một tâm tình xấu ngấm sâu vào trong lòng mình, tức là chúng
ta đã dành chỗ cho sự oán hận làm tổ trong lòng chúng ta. Cụm từ logizetai to kakon có nghĩa là “chấp nhất
sự dữ”, “ghim nó trong lòng”, nói cách khác là “oán hận”. Ngược lại là sự tha
thứ, một sự tha thứ được đặt nền tảng trên một thái độ tích cực muốn tìm cách
thông cảm sự yếu đuối của người khác và bỏ qua cho họ, như Đức Giêsu đã nói: “Lạy
Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,24). Thế nhưng, chúng ta thường có khuynh hướng moi móc thêm
những sai lỗi, tưởng tượng thêm những điều xấu xa, giả định đủ loại ác ý, và vì
thế sự oán hận gia tăng và bén rễ sâu hơn. Do đó mà mọi lỗi lầm hay sa ngã từ
người vợ (hay chồng) đều có thể làm tổn hại mối ràng buộc yêu thương và sự ổn định
của gia đình. Vấn đề là ở chỗ đôi khi chúng ta xem mọi sự đều nghiêm trọng như
nhau, như thế có nguy cơ chúng ta trở nên khắc nghiệt với bất kì sai lầm nào của
người khác. Việc đòi hỏi chính đáng các quyền của mình sẽ biến thành một cơn
khát dai dẳng và không dứt muốn trả thù thay vì là một sự bảo vệ chính đáng phẩm
giá của mình.

106.  Khi
chúng ta bị xúc phạm hay bị lừa dối, thì sự tha thứ là điều có thể và đáng mong
ước, nhưng không ai có thể nói đó là điều dễ dàng. Sự thật là “mối hiệp thông
gia đình chỉ có thể được gìn giữ và hoàn thiện với một tinh thần hi sinh rất lớn.
Thật vậy, nó đòi hỏi sự cởi mở và sẵn lòng quảng đại của mọi người và từng người,
để cảm thông, khoan dung, tha thứ và hòa giải. Không có gia đình nào mà không
kinh nghiệm sự ích kỉ, bất hòa, căng thẳng và xung đột tấn công thô bạo và đôi
khi đánh chí tử vào chính mối hiệp thông của mình: từ đó xảy ra biết bao chia rẽ
và đủ thứ chia rẽ trong đời sống gia đình”.[113]

107.  Ngày
nay chúng ta biết rằng để có thể tha thứ chúng ta cần trải qua kinh nghiệm giải
thoát của sự biết cảm thông và tha thứ cho chính mình. Rất nhiều khi các lỗi lầm
của chúng ta, hoặc cái nhìn phê phán của những người thân yêu, có thể làm cho
chúng ta đánh mất sự quí trọng đối với chính bản thân mình. Rốt cuộc chúng ta
nhìn mình bằng con mắt của những người khác, tránh né tình cảm và luôn sợ hãi
các mối tương quan liên vị. Bởi thế, để trấn an mình cách sai trái ta có thể đi
đổ lỗi lên người khác. Chúng ta cần đưa lịch sử đời mình vào cầu nguyện, cần biết
chấp nhận chính mình, biết cách sống chung với những hạn chế của mình, và ngay
cả biết tha thứ cho chính mình, để có thể có cùng thái độ như vậy đối với những
người khác.

108.  Nhưng
điều này giả thiết chính chúng ta đã có kinh nghiệm được Thiên Chúa tha thứ, được
công chính hóa cách vô điều kiện bởi ân sủng của Ngài chứ không bởi công trạng
của chúng ta. Chúng ta đã đạt đến kinh nghiệm của một tình yêu đi bước trước mọi
việc làm của mình, một tình yêu luôn luôn mang đến cho ta những cơ hội mới, một
tình yêu thúc đẩy và khích lệ. Nếu chúng ta chấp nhận rằng tình yêu của Thiên
Chúa thì vô điều kiện, rằng tình yêu của Chúa Cha không thể được mua hay bán, bấy
giờ chúng ta mới có thể yêu thương vượt trên tất cả, tha thứ cho người khác
ngay cả khi họ cư xử bất công với chúng ta. Nếu không, cuộc sống gia đình chúng
ta sẽ không còn là một nơi của cảm thông, đồng hành và khích lệ thay vào đó sẽ
là một nơi thường xuyên căng thẳng và công phạt lẫn nhau.

109.  Diễn
ngữ chairei epi te adikia cho thấy một
cái gì đó tiêu cực ẩn sâu trong lòng người ta. Đó là thái độ độc ác của người
vui mừng khi thấy người khác phải chịu sự bất công. Diễn ngữ này được bổ nghĩa
bởi cụm từ theo sau: synchairei te
aletheia
diễn tả điều tích cực, có nghĩa là “vui khi thấy điều chân thật”.
Nói cách khác, chúng ta vui mừng về điều tốt lành của người khác, khi phẩm giá
của họ được nhìn nhận, khi các khả năng và các việc tốt của họ được trân trọng.
Điều này là không thể đối với những ai phải luôn luôn so bì và ganh đua, ngay cả
với vợ hoặc chồng mình, đến độ ngầm vui mừng trong lòng trước những thất bại của
người ấy.

110.  Khi
một người yêu thương người ấy có thể làm điều tốt cho người khác, hoặc khi người
ấy nhìn thấy mọi sự đều diễn ra tốt đẹp cho người khác, thì chính họ cũng cảm
thấy vui, và bằng cách ấy họ tôn vinh Thiên Chúa, vì “ai vui vẻ dâng hiến thì
được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr
9,7). Chúa chúng ta đặc biệt trân trọng những ai tìm thấy niềm vui trong hạnh
phúc của người khác. Nếu chúng ta không nuôi dưỡng khả năng của chúng ta biết
vui hưởng trước những điều tốt lành của người khác mà chỉ chủ yếu tập trung vào
các nhu cầu của mình, thì chúng ta đang tự đày đọa mình sống thiếu niềm vui,
như Đức Giêsu nói: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Gia đình phải luôn là nơi mà bất cứ ai ở trong đó làm được
điều gì tốt đẹp trong cuộc sống, đều biết rằng ở đó mọi người cũng sẽ mừng về
điều ấy với mình.

111.  Bài
ca đức mến hoàn tất danh mục với bốn diễn ngữ nói lên tính toàn thể: “tất cả”.
[Tình yêu] tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả.
Bằng cách đó người ta khẳng định mạnh mẽ đến sự năng động đi ngược dòng văn hóa
của tình yêu, vốn có sức đương đầu với bất cứ gì có thể đe dọa nó.

112.  Trước
hết, người ta khẳng định rằng [tình yêu thì] “tha thứ tất cả” (panta stegei). Điều này thì khác với việc
“không chấp nhất sự dữ”, bởi vì từ này có liên quan tới việc sử dụng cái lưỡi;
nó có thể có nghĩa là “giữ thinh lặng” về một điều tiêu cực có thể có nơi người
khác. Nó hàm nghĩa hạn chế sự xét đoán, kiềm giữ khuynh hướng muốn làm bật ra một
lời lên án nghiệt ngã và bất nhẫn: “Đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị xét
đoán” (Lc 6,37). Lời Thiên Chúa bảo
chúng ta cho dẫu đi ngược lại với thói quen sử dụng cái lưỡi của mình: “Đừng
nói xấu nhau, thưa anh chị em” (Gc
4,11). Không ngừng bôi nhọ hình ảnh người khác là một cách tôn tạo hình ảnh của
mình, nhằm trút sự oán hận và ghen tị mà không lưu tâm đến tai hại mình có thể
gây ra. Rất nhiều khi người ta quên rằng phỉ báng người khác có thể là một tội
lớn; một xúc phạm nghiêm trọng đến Thiên Chúa, khi nó xâm phạm nặng nề đến
thanh danh của người khác và gây ra những tổn thất rất khó sửa chữa. Vì thế Lời
Chúa tuyên bố cứng rắn về cái lưỡi khi nói rằng nó “là thế giới của sự ác”, nó
“làm cho toàn thân bị ô nhiễm đốt cháy toàn thể cuộc đời” (Gc 3,6); nó là một “sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc
giết người” (Gc 3,8). Nếu như cái lưỡi
có thể được dùng để “nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh
Thiên Chúa” (Gc 3,9), thì tình yêu lại
trân trọng hình ảnh của người khác một cách tinh tế đến nỗi cả bảo vệ thanh
danh của kẻ thù. Trong khi bảo vệ luật Chúa, chúng ta không bao giờ được quên
đòi hỏi  này của tình yêu.

113.  Những
đôi vợ chồng yêu thương nhau và thuộc về nhau nói tốt về nhau, họ tìm cách nêu
lên mặt tốt của người bạn đời chứ không phải điểm yếu hay những sai lầm của người
ấy. Bất luận trường hợp nào, họ đều giữ im lặng để không làm hại thanh danh người
kia. Tuy nhiên, đây không chỉ là một hành động bên ngoài nhưng xuất phát từ một
thái độ nội tâm. Đây cũng không phải là việc của kẻ ngây thơ bảo rằng mình
không thấy những khó khăn và những điểm yếu của người kia, mà đúng hơn là mình
nhìn những điểm yếu và sai lầm ấy trong một bối cảnh rộng lớn hơn; họ nhắc nhớ
rằng những khuyết điểm ấy chỉ là một phần chứ không phải là toàn bộ bản thân của
người kia. Một sự bất bình trong quan hệ không là tất cả mối quan hệ.  Vì thế chúng ta có thể chấp nhận một cách đơn
sơ rằng tất cả chúng ta đều là một hỗn hợp phức tạp của ánh sáng và bóng tối.
Người kia không chỉ là người gây cho tôi nỗi bực mình mà còn có nhiều điều khác
phong phú hơn thế nữa. Cũng vì thế, tôi không có ý đòi hỏi tình yêu của người ấy
phải hoàn hảo thì mới được trân trọng. Người kia yêu tôi bằng chính con người
thực tế của người ấy và trong khả năng của người ấy, với những giới hạn của người
ấy, nhưng nói rằng tình yêu của người ấy không hoàn hảo không có nghĩa rằng nó
giả trá hay không chân thực. Nó vẫn chân thực cho dù giới hạn và phàm trần. Do
đó, nếu kì vọng quá nhiều, thì một cách nào đó, người ấy sẽ cho tôi hiểu, người
ấy không thể mà cũng sẽ không chấp nhận việc sắm vai Thiên Chúa để mà đáp ứng mọi
nhu cầu của tôi. Tình yêu sống chung với sự bất toàn, “dung thứ tất cả” và biết
im lặng trước những giới hạn của người mình yêu.

114.  Panta pisteuei. [Tình yêu] “tin tưởng tất
cả”. Do mạch văn ở đây “tin” không được hiểu theo nghĩa thần học, nhưng theo
nghĩa “tin tưởng” mà chúng ta vẫn dùng. Vấn đề không chỉ là không nghi ngờ người
kia đang nói dối hay lừa lọc ta. Sự tin tưởng căn bản ấy nhận ra ánh sáng được
thắp lên bởi Thiên Chúa khuất ẩn đàng sau bóng tối, hoặc như cục than hồng vẫn
còn cháy đỏ bên dưới đống tro.

115.  Chính
sự tin tưởng này làm cho một mối tương quan được tự do. Ta không cần phải kiểm
soát người kia, bám theo từng bước chân của người ấy để không cho người ấy
thoát khỏi tay ta. Tình yêu thì tin tưởng, để cho nó tự do, từ chối kiểm soát mọi
sự, chiếm hữu, thống trị. Sự tự do này, vốn có thể tạo ra những không gian độc
lập, mở ra với thế giới và đón nhận những kinh nghiệm mới, giúp các tương quan
thêm phong phú và mở rộng. Bằng cách đó, vợ chồng sẽ san sẻ cho nhau niềm vui về
tất cả những gì họ lãnh nhận và học được từ bên ngoài phạm vi gia đình. Đồng thời,
tự do giúp người ta có được sự chân thành và minh bạch, vì khi biết rằng mình
được những người khác tin tưởng và chân tình quí trọng lòng tốt thì sẽ cởi mở
mà không giấu diếm điều gì. Một người mà biết rằng những người khác luôn nghi
ngờ mình, hoặc xét đoán mà không chút cảm thương và không yêu thương mình vô điều
kiện, thì người đó sẽ có khuynh hướng giữ kín các bí mật của mình, che giấu các
tội lỗi và yếu đuối của mình, và sống giả dối. Trái lại, một gia đình mà trong
đó sự tin tưởng vững vàng đầy yêu thương ngự trị, và là nơi cho người ta luôn
quay về trong tin tưởng dẫu cho bất cứ điều gì xảy ra, gia đình ấy sẽ giúp các
thành viên sống căn tính đích thật của mình, và đương nhiên loại trừ sự lừa gạt,
giả tạo, và dối trá.

Hi vọng

116.  Panta elpizei: tình yêu không thất vọng
về tương lai. Tiếp nối từ ngữ trước, diễn ngữ này chỉ niềm hi vọng của người biết
rằng người khác có thể thay đổi. Luôn hi vọng người khác một ngày nào đó có thể
trưởng thành bất ngờ tỏa ra vẻ đẹp cũng như những tiềm năng chưa từng được biết.
Điều này không có nghĩa là mọi sự sẽ thay đổi trong cuộc đời này. Từ đó biết chấp
nhận rằng, dù mọi sự có thể không xảy ra như ta mong ước, Thiên Chúa vẫn hoàn
toàn có thể uốn thẳng những đường cong của người đó và rút ra điều tốt lành nào
đó từ sự dữ mà chúng ta phải chịu trong thế giới này.

117.  Ở
đây niềm hi vọng đạt mức trọn vẹn nhất của nó, vì nó hiểu chắc chắn về sự sống
bên kia cái chết. Con người ấy, với tất cả những yếu đuối của mình, được mời gọi
đạt đến sự sống viên mãn trên thiên quốc. Nơi đó, con người được biến đổi hoàn
toàn bởi sự phục sinh của Đức Kitô, mọi yếu đuối, bóng tối và bệnh tật của con
người sẽ không còn tồn tại. Nơi đó, hiện hữu đích thực của con người sẽ chiếu
sáng với tất cả quyền lực của sự tốt lành và vẻ đẹp của nó. Điều này cũng cho
phép chúng ta, giữa những phiền muộn chồng chất của cuộc đời này, biết chiêm ngắm
con người ấy bằng một cái nhìn siêu nhiên, trong ánh sáng của đức cậy, và trông
đợi sự viên mãn mà một ngày nào đó người ấy sẽ nhận được trong Nước Trời, mặc
dù hiện nay chưa nhìn thấy.

118.  Panta hypomenei có nghĩa là [tình yêu]
chấp nhận mọi sự trái ý với một tinh thần tích cực. Nghĩa là [tình yêu thì] đứng
vững ngay giữa lòng môi trường thù nghịch. Không chỉ liên quan đến việc chịu đựng
một số phiền hà, mà còn hơn thế nữa: một sự đề kháng năng động và liên tục, có
khả năng vượt qua mọi thách đố. Đó là một tình yêu bất chấp tất cả, ngay cả
trong những lúc hoàn cảnh lôi kéo sang hướng khác. Nó chứng tỏ một mức độ anh
hùng can trường nào đó, một sức mạnh chống lại mọi trào lưu tiêu cực, một chọn
lựa điều thiện không gì có thể lật đổ. Ở đây tôi nhớ đến những lời của Martin
Luther King, khi xác nhận lại lựa chọn tình huynh đệ ngay giữa các cuộc bách hại
và bị sỉ nhục tồi tệ nhất: “Nơi người ghét bạn nhất cũng có điều tốt lành nào
đó; và ngay cả nơi dân tộc ghét bạn nhất cũng có điều tốt lành nào đó; thậm chí
nơi chủng tộc ghét bạn nhất cũng có điều tốt lành nào đó. Khi bạn bắt đầu nhìn
vào gương mặt của mỗi con người và thấy trong nơi thâm sâu con người ấy điều mà
tôn giáo gọi là “hình ảnh của Thiên Chúa”, thì bạn bắt đầu yêu người ấy bất kể
mọi sự. Dù người ấy có làm gì đi nữa, bạn vẫn thấy hình ảnh của Thiên Chúa ở
đó. Có một yếu tố của sự thiện mà bạn không bao giờ có thể vứt bỏ được… Đây là
một cách khác để bạn yêu kẻ thù: khi có cơ hội để bạn đánh bại kẻ thù, thì đó
là lúc bạn phải quyết định không được làm thế… Khi bạn vươn lên tới bình diện
tình yêu, tới bình diện của vẻ đẹp và sức mạnh lớn lao của tình yêu, thì điều
duy nhất bạn tìm cách đánh bại là những hệ thống sự dữ. Đối với những cá nhân bị
mắc kẹt trong hệ thống ấy, bạn hãy yêu họ nhưng phải tìm cách đánh bại hệ thống
đó […] Lấy oán báo oán thì chỉ gia cố thêm sự tồn tại của oán hận và sự dữ trên
đời này. Nếu tôi đánh bạn và bạn đánh tôi, và rồi tôi đánh trả lại bạn, và bạn
đánh trả lại tôi, cứ tiếp tục như thế, thì đương nhiên, sẽ tiếp tục mãi không
cùng. Đơn giản là sẽ không bao giờ chấm dứt. Từ phía nào đó phải có người biết
điều một chút, và đó là người mạnh. Người mạnh là người có thể chặt đứt dây
xích oán hận, dây xích của sự dữ… Một ai đó phải có đủ ‘lòng tin’ và có ‘đạo đức’
để chặt đứt dây xích ấy và đưa vào trong chính cấu trúc của thế giới này yếu tố
tình yêu mạnh mẽ đầy quyền năng”.[114]

119.  Trong
đời sống gia đình, cần vun xới sức mạnh của tình yêu này, điều giúp chúng ta
chiến đấu chống lại sự dữ đe dọa gia đình. Tình yêu không để mình bị không chế
bởi lòng oán hận, bởi sự coi thường người khác, bởi ước muốn gây tổn thương hoặc
trả thù. Lí tưởng Kitô giáo, đặc biệt trong gia đình, là tình yêu bất chấp mọi
sự. Đôi khi, tôi ngưỡng mộ, chẳng hạn như, thái độ của những người đã phải chia
tay với người bạn đời để tự bảo vệ mình khỏi bạo hành, tuy nhiên, vì tình bác
ái phu phụ vốn vượt qua cảm tính, họ vẫn cố gắng giúp đỡ người bạn đời, dù qua
trung gian nhờ một người khác, trong những khi người bạn đời đau ốm, gặp đau khổ
hay hoạn nạn. Đây cũng là một tình yêu bất chấp tất cả.

120.  Bài
ca đức mến của Thánh Phaolô mà chúng ta đã đọc qua, cho phép chúng ta chuyển
sang đề tài tình bác ái phu phụ. Đây là tình yêu nối kết giữa vợ và chồng,[115] một tình yêu được thánh
hóa, được làm cho phong phú và được chiếu sáng bởi ân sủng của Bí tích Hôn Phối.
Đó là một “kết hợp tình cảm”,[116] có tính thiêng liêng và hi
sinh, nhưng trong đó kết tụ sự dịu dàng của tình bạn và niềm đam mê tình ái, mặc
dù nó vẫn có thể tồn tại cả khi các cảm xúc và đam mê lụi tàn. Đức Giáo Hoàng
Piô XI dạy rằng tình yêu này thấm đượm các bổn phận của đời sống hôn nhân và được
nhìn nhận là tình yêu ưu việt nhất.[117]
Quả thật, được thông ban bởi Thánh Thần, tình yêu mãnh liệt này là một phản ánh
của giao ước bền chặt giữa Đức Kitô và nhân loại, mà đỉnh cao là sự tự hiến đến
cùng của Người trên thập giá. “Thánh Thần mà Chúa tuôn đổ sẽ trao ban cho chúng
ta một quả tim mới và làm cho người nam và người nữ có khả năng yêu thương nhau
như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta. Tình yêu phu phụ đạt tới sự viên mãn vốn
đã hàm ẩn nội tại bên trong nó, tức là tình bác ái phu phụ.”[118]

121.  Hôn
nhân là một dấu chỉ quí giá, vì “khi một người nam và một người nữ cử hành Bí
tích Hôn Phối, thì có thể nói, Thiên Chúa được “phản chiếu” nơi họ, và Ngài ghi
khắc trong họ những nét phác thảo đặc thù và dấu ấn tình yêu không thể xóa nhòa
của Ngài. Hôn nhân là linh ảnh của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta.  Ngay Thiên Chúa, thật vậy, cũng là hiệp
thông: Ba Ngôi Vị – Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần – hằng sống từ muôn thuở
cho đến muôn đời trong sự hiệp nhất hoàn hảo. Và đây chính là mầu nhiệm Hôn
nhân: Thiên Chúa làm cho hai vợ chồng trở thành một cuộc đời duy nhất”.[119] Điều này bao gồm những hệ
quả rất cụ thể trong đời sống hằng ngày, vì hai vợ và chồng, “nhờ Bí tích, được
mang lấy một sứ mạng đặc thù và đích thực, để khởi đi từ những việc đơn giản
thông thường của đời sống, họ có thể làm cho người ta thấy cụ thể tình yêu mà Đức
Kitô dành cho Hội thánh trong khi Người vẫn tiếp tục hiến mạng sống mình vì Hội
thánh”.[120]

122.  Tuy
nhiên sẽ không tốt nếu chúng ta lẫn lộn các bình diện khác nhau: không được đặt
lên hai con người đầy giới hạn cái gánh nặng to lớn của việc phải thể hiện lại
cách hoàn hảo mối kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh, vì hôn nhân – xét như một
dấu chỉ – là “một tiến trình năng động dần dần tiến tới hội nhập ngày một hơn
các ơn huệ của Thiên Chúa”.[121]

123.  Sau
tình yêu kết hợp chúng ta với Thiên Chúa, tình yêu phu phụ là “tình bạn cao cả
nhất”.[122] Đó là một sự kết hợp bao
hàm mọi đặc tính của một tình bạn tốt đẹp: quan tâm tới thiện ích của người
kia, tính hỗ tương, sự thân mật, sự dịu dàng, tính ổn định và sự tương đồng bằng
hữu cần được thiết lập từ một đời sống chung. Nhưng Hôn nhân còn thêm vào đó
tính đơn nhất bất khả phân li được diễn tả trong dự phóng ổn định cùng chia sẻ
và xây dựng toàn bộ cuộc sống. Chúng ta hãy chân thành và nhìn nhận những dấu
chỉ của thực tại: Ai đã yêu nhau thì không dự định duy trì mối quan hệ đó của
mình chỉ trong một thời hạn, ai sống mãnh liệt niềm vui của kết hôn thì không
nghĩ tới một kết hợp tạm thời; những người đồng hành cuộc cử hành mối kết hợp
tràn ngập tình yêu dù có mong manh này, cũng hi vọng nó sẽ đứng vững qua thử
thách của thời gian; con cái không chỉ muốn cha mẹ chúng yêu nhau, mà còn trung
thành và mãi mãi gắn bó với nhau. Những điều đó cùng những dấu chỉ tương tự
khác cho thấy rằng chính trong bản tính của nó, tình yêu phu phụ mở ra đến tận
cùng. Sự kết hợp được kết tinh nơi các lời đoan hứa hôn nhân chung sống mãi mãi
là cái gì còn hơn một thể thức xã hội hay truyền thống đơn thuần, vì nó cắm rễ
sâu từ trong những khuynh hướng tự nhiên của nhân vị; và đối với những người
tin, nó cũng là một giao ước trước mặt Thiên Chúa Đấng đòi hỏi người ta phải
trung thành: “Đức Chúa là chứng nhân giữa ngươi và người đàn bà ngươi đã cưới
trong tuổi thanh xuân. Chính ngươi đã phản bội nó, mặc dầu nó là bạn đường và
là người vợ kết ước với ngươi: […] Ngươi đừng phản bội người đàn bà ngươi đã cưới
trong tuổi xuân xanh. Quả thật Ta ghét việc rẫy vợ” (Ml 2,14-16).

124.  Một
tình yêu yếu ớt hay bệnh hoạn, không có khả năng chấp nhận hôn nhân như một
thách đố đòi hỏi ta phải chiến đấu, để được tái sinh, được đổi mới và bắt đầu lại
luôn cho tới chết, thì không thể thực hiện nổi một cam kết có tầm lớn lao. Nó sẽ
đầu hàng trước nền văn hóa tạm bợ vốn thường cản tiến trình không ngừng trưởng
thành. Nhưng “việc hứa yêu thương suốt đời sẽ là điều có thể, khi chúng ta khám
phá ra một kế hoạch to lớn hơn các ý tưởng và dự phóng của chính mình, một kế
hoạch nâng đỡ chúng ta và làm cho chúng ta có thể hoàn toàn phó thác tương lai
của mình cho người mình yêu thương”.[123]
Để tình yêu này có thể vượt thắng mọi thử thách và giữ được sự trung thành trước
mọi hoàn cảnh, thì nó cần ơn sủng để củng cố và nâng cao. Theo cách diễn tả của
Thánh Robertô Bellarminô, “sự kiện một người nam kết hợp với một người nữ trong
một mối ràng buộc bất khả phân li, và họ trung thành gắn kết với nhau bất chấp
mọi khó khăn, ngay cả khi không còn hi vọng có con cái, chỉ có thể là dấu hiệu
của một mầu nhiệm cao cả”.[124]

125.  Hơn
nữa, hôn nhân là một tình bạn bao hàm đặc tính đam mê, nhưng luôn hướng tới một
sự kết hợp ngày càng ổn định và mãnh liệt hơn. Bởi vì “hôn nhân không được thiết
lập duy chỉ nhắm đến việc sinh sản con cái”, mà còn nhắm đến tình yêu dành cho
nhau “được diễn tả cách xác đáng, để nó có thể tăng triển và chín muồi”.[125] Tình bạn độc đáo này giữa
một người nam và một người nữ chỉ đạt được tính toàn thể trong mối kết hợp phu
phụ. Chính vì nó bao hàm toàn thể, nên mối kết hợp này cũng có tính đơn nhất,
trung thành và mở ra sẵn sàng đón nhận sự sống mới. Tình bạn đặc biệt này chia
sẻ mọi sự trong niềm kính trọng thường hằng dành cho nhau. Công đồng Vatican II
khẳng định điều này khi nói rằng “một tình yêu như thế, kết tụ tính nhân loại
và tính thần linh, dẫn đưa các người phối ngẫu tới một sự tự hiến tự nguyện cho
nhau, được kinh nghiệm trong cử chỉ âu yếm và trong hành động, và thấm đẫm toàn
thể đời sống của họ”.[126]

126.  Trong
hôn nhân, niềm vui của tình yêu cần được vun xới. Khi việc tìm kiếm lạc thú trở
thành nỗi ám ảnh, nó chỉ giữ người ta ở trong một phạm vi và không cho phép họ
kinh nghiệm những thỏa nguyện khác. Trái lại, niềm vui  mở rộng khả năng hưởng nếm niềm hoan lạc và
giúp chúng ta cảm nhận được sự vui thích trong các thực tại khác nhau, ngay cả
trong những giai đoạn của cuộc sống khi mà khoái lạc đã suy giảm. Bởi thế,
Thánh Tôma Aquinô dùng từ “niềm vui” để nói đến sự mở rộng biên độ của tâm hồn.[127] Niềm vui của hôn nhân, vốn
có thể được kinh nghiệm ngay cả giữa những đau đớn buồn phiền, bao hàm việc chấp
nhận rằng hôn nhân là một tổng hợp tất nhiên của những hoan lạc và khổ nhọc, những
căng thẳng và nghỉ ngơi, những đau khổ và giải thoát, những thỏa mãn và kiếm
tìm, những phiền muộn và khoan khoái, luôn ở trên nẻo đường của tình bạn, niềm
vui ấy thúc đẩy đôi bạn chăm sóc cho nhau: “Họ giúp đỡ và phục vụ nhau”.[128]

127.  Yêu
thương trong tình bạn được gọi là “bác ái” khi người ta nhận biết và trân trọng
“giá trị cao cả” của người kia.[129] Vẻ đẹp – tức “giá trị cao
quí” ấy, khác với dáng vẻ thể lí hay tâm lí – giúp chúng ta cảm nếm tính thánh
thiêng của một nhân vị, mà không cảm thấy nhu cầu bức bách muốn chiếm hữu người
ấy. Trong một xã hội tiêu thụ, cảm thức về cái đẹp bị làm cho nghèo nàn đi, và
do đó niềm vui cũng bị dập tắt. Mọi thứ có đó, để cho người ta mua bán, chiếm hữu
hay tiêu dùng; kể cả con người. Ngược lại, sự dịu dàng, là dấu hiệu của một
tình yêu giải thoát khỏi ham muốn chiếm hữu ích kỉ. Nó dẫn ta đến gần một con
người với lòng kính trọng sâu xa và sự ý tứ tinh tế để không gây hại gì cho người
ấy hoặc làm người ấy mất tự do. Yêu thương một người sẽ gắn liền với niềm vui
chiêm ngắm và trân trọng vẻ đẹp và sự thánh thiêng tự nhiên của người ấy, những
điều này thì lớn lao hơn các nhu cầu của tôi. Điều này giúp tôi tìm kiếm thiện
ích cho người ấy ngay cả khi tôi biết người ấy không thể thuộc về tôi, hay khi
người đó không còn nét duyên dáng ở ngoại hình nữa, mà trở thành đối tượng hung
hăng và gây phiền hà. Cho nên “xuất phát từ một tình yêu mà bởi đó người này
vui lòng vì người kia người ta mới trao ban một cái gì đó hoàn toàn vô cầu”.[130]

128.  Kinh
nghiệm thẩm mĩ của tình yêu được diễn tả trong cái nhìn chiêm ngưỡng người khác
như một cứu cánh nội tại, cả khi họ bệnh tật, già nua hay ngoại hình không còn
hấp dẫn. Một cái nhìn trân trọng có tầm quan trọng rất lớn lao, còn khước từ
cái nhìn đó thường gây tai hại. Biết bao điều mà các người vợ, chồng hay con
cái làm đôi khi để tạo sự quan tâm chú ý của chúng ta! Nhiều tổn thương và khủng
hoảng xảy ra do có những lúc chúng ta không còn nhìn ngắm đến nhau nữa. Điều đó
được biểu lộ trong những lời than phiền và trách cứ mà chúng ta thường nghe
trong các gia đình: “Chồng tôi không quan tâm tới tôi; anh ta làm như thể tôi
không có mặt trên đời”. “Làm ơn nhìn tôi khi tôi nói chuyện với anh!” “Vợ tôi
chẳng còn nhìn đến tôi, cô ấy chỉ quan tâm đến con cái thôi”. “Nhà này chẳng ai
đoái hoài đến tôi và mọi người thậm chí không nhìn tôi, như thể tôi không tồn tại”.
Tình yêu mở rộng đôi mắt và cho chúng ta vượt lên tất cả, để nhìn thấy bao giá
trị cao quí của một con người.

129.  Niềm
vui của tình yêu biết chiêm ngắm này cần phải được vun xới. Vì chúng ta được dựng
nên cho tình yêu, chúng ta cũng biết rằng không có niềm vui nào lớn hơn niềm
vui của việc san sẻ những điều tốt lành: “Hãy cho và nhận, hãy làm cho tâm hồn
mình khuây khỏa” (Hc 14,16). Niềm vui
thâm sâu nhất trong đời sống trào dâng khi người ta có thể mang lại hạnh phúc
cho người khác, như một cảm nếm thiên đàng trước vậy. Nên nhắc đến một cảnh hạnh
phúc trong phim Bữa Tiệc của Babette,
khi cô đầu bếp từ tâm nhận được cái ôm nồng nhiệt biết ơn với lời khen ngợi:
“Ôi, cô đã thắp lên niềm vui cho cả các thiên thần!” Thật là ngọt ngào và an ủi
lớn lao khi ta đem lại niềm vui cho người khác, và thấy họ hoan hỉ. Niềm vui
này, là hoa trái của tình huynh đệ, không phải là niềm vui vô nghĩa của kẻ vị kỉ,
nhưng là niềm vui của người yêu thương và vui mừng trước điều tốt lành của người
mình yêu, được ban tặng cho người kia và từ đó sinh hoa kết trái.

130.  Mặt
khác, niềm vui cũng trở nên mới mẻ trong khổ đau. Như Thánh Augustinô diễn tả,
“hiểm nguy của chiến trận càng lớn thì niềm vui chiến thắng càng cao”.[131] Sau khi cùng sát cánh chịu
đau khổ và cùng chiến đấu sát cánh nhau, vợ chồng có thể cảm nghiệm rằng đó là
điều đáng giá, bởi vì họ đã nhận được điều tốt lành nào đó, họ cùng nhau học được
một điều gì đó, hoặc bởi vì họ có thể trân quí chính những gì mình có. Ít có niềm
vui nhân loại nào sâu xa và cảm kích cho bằng niềm vui mà hai người yêu nhau
cùng trải nghiệm và cùng đạt được điều gì đó như kết quả của một nỗ lực lớn lao
chung của cả hai người.

131.  Tôi
muốn nói với những người trẻ rằng không có gì phải e sợ khi tình yêu đảm nhận
cách thức diễn tả qua hôn nhân định chế. Trong định chế này sự kết hợp của đôi
bạn sẽ tìm thấy được phương thức để đạt đến sự bền vững và phát triển thực sự cụ
thể. Thật ra, tình yêu thì còn lớn hơn một sự biểu lộ ưng thuận bên ngoài hay một
hình thức khế ước rất nhiều; nhưng cũng chắc chắn là việc quyết định cho hôn
nhân một định dạng rõ ràng trong xã hội với những cam kết nhất định, có tầm
quan trọng của nó: nó thể hiện tính nghiêm túc của việc nên một với người kia,
và vượt qua lối sống cá nhân chủ nghĩa của tuổi thanh thiếu niên, và biểu lộ
quyết định dứt khoát thuộc trọn về nhau. Kết hôn là một cách để diễn tả người
ta đã thực sự rời bỏ tổ ấm của nhà mẹ cha, để tạo những dây ràng buộc chặt chẽ
khác và đảm nhận một trách nhiệm mới đối với một người khác. Điều này có ý
nghĩa hơn nhiều so với một sự liên kết đơn thuần tự phát nhắm đến sự thỏa mãn
cho nhau, đó chỉ biến hôn nhân thành một việc thuần túy riêng tư. Hôn nhân như
một định chế xã hội là sự bảo vệ và là điều kiện bảo đảm cho việc hai người dấn
thân cho nhau, nhằm đến sự trưởng thành của tình yêu, để cho quyết định sống
cho người kia được triển nở chắc chắn, cụ thể và đi vào chiều sâu, đồng thời để
có thể hoàn tất sứ mạng xã hội của họ. Vì thế hôn nhân vượt trên mọi thứ thời
trang chóng lụi tàn và tồn tại mãi. Yếu tính của hôn nhân đâm rễ từ trong chính
bản tính của nhân vị và có xã hội tính. Nó bao hàm một chuỗi những bổn phận
phát sinh từ chính tình yêu, một tình yêu rất xác quyết và quảng đại có khả
năng soi sáng tương lai.

132.  Việc
chọn kết hôn theo cách thức này diễn tả một quyết định thực sự và hữu hiệu muốn
chuyển đổi hai con đường thành một con đường duy nhất, bất chấp điều gì sẽ xảy
ra và dù có bất cứ thách thức nào. Do tính nghiêm túc của nó, cam kết công khai
này của tình yêu không thể là một quyết định vội vã, nhưng cũng vì lí do này nó
không thể bị trì hoãn vô hạn định. Việc dấn thân vào một quan hệ đơn nhất và trọn
đời với một người khác luôn hàm ẩn một phần nguy cơ và một sự đánh cược táo bạo.
Từ chối đảm nhận một dấn thân như vậy là ích kỉ, tính toán và nhỏ nhen, không
nhận ra được quyền của người khác và giới thiệu người ấy cho xã hội như là một
người đáng được yêu thương vô điều kiện. Đàng khác, những người thực sự yêu
nhau, có khuynh hướng sẽ biểu lộ cho những người khác thấy tình yêu của họ. Tình
yêu được diễn tả cụ thể trong một khế ước hôn nhân trước những người khác, với
tất cả những bổn phận xuất phát từ việc thể chế hóa đó, biểu lộ rõ ràng và bảo
vệ sự ưng thuận mà hai người nói lên với nhau một cách dứt khoát và tự do. Lời
ưng thuận này ý nói với người kia rằng họ sẽ có thể luôn tin tưởng nhau, và sẽ
không bao giờ bị bỏ rơi nếu như có mất đi dáng vẻ cuốn hút ban đầu, nếu như có
khó khăn nào xảy đến, hoặc nếu như có thể sẽ có những vui thú mới hay những
quan tâm ích kỉ nào xuất hiện.

133.  Thương
yêu của tình bạn hợp nhất mọi khía cạnh của đời sống hôn nhân và giúp các thành
viên gia đình không ngừng bước tới qua mọi giai đoạn cuộc sống . Bởi thế, những
cử chỉ bày tỏ tình yêu đó phải được thường xuyên vun trồng, cách không dè xẻn
và dồi dào những lời bao dung lời nói. Trong gia đình, “có ba từ cần được dùng.
Tôi muốn lặp lại, ba từ đó là: ‘Làm ơn’, ‘Cám ơn’, và ‘Xin lỗi’. Ba tiếng thật
thiết yếu!”[132] “Khi trong một gia đình,
người ta không cường quyền và biết nói: ‘làm ơn…’, khi trong một gia đình, người
ta không ích kỉ và học nói ‘Cám ơn!’, và khi trong một gia đình có người nhận
ra mình đã làm điều gì đó sai trái và biết nói ‘Xin lỗi!’, thì trong gia đình ấy
sẽ có sự bình an và niềm vui”.[133] Chúng ta đừng ngần ngại
nói những tiếng ấy, nhưng hãy quảng đại lặp đi lặp lại chúng, ngày này qua ngày
khác, vì lẽ “im lặng sẽ gây nên sự ngột ngạt, đôi khi ngay trong gia đình, giữa
vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em với nhau”.[134] Ngược lại, những lời phù hợp,
được nói lên đúng lúc, sẽ bảo vệ và nuôi dưỡng tình yêu hằng ngày.

134.  Tất
cả những điều này được thực hiện trong một hành trình không ngừng lớn lên. Hình
thức đặc biệt này của tình yêu, tức hôn nhân, được mời gọi để phát triển không
ngừng tới sự trưởng thành, vì nó cần áp dụng điều mà Thánh Tôma Aquinô nói về đức
ái: “Đức ái, do tự bản chất, không có giới hạn trong sự tăng trưởng, vì đó là một
sự tham dự vào đức ái vô hạn là chính Chúa Thánh Thần.[…] Về phần chủ thể, cũng
không thể đặt giới hạn cho đức ái, vì khi đức ái tăng trưởng, thì khả năng tăng
trưởng của chủ thể càng nhiều hơn”.[135]
Thánh Phaolô mạnh mẽ khuyên nhủ: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với
nhau ngày càng thêm đậm đà thắm thiết” (1
Tx
3,12), và nói thêm: “Còn về tình huynh đệ […] chúng tôi khuyên nhủ anh
em hãy tiến tới ngày càng nhiều hơn nữa” (1
Tx
4,9-10). Ngày càng nhiều hơn nữa! Tình yêu hôn nhân không được bảo vệ
trước hết bằng việc trình bày tính bất khả phân li của nó như một bổn phận, hay
bằng việc lặp đi lặp lại giáo thuyết, nhưng bằng cách củng cố nó cho mạnh mẽ
hơn dưới sự thúc đẩy của ân sủng. Tình yêu mà không tăng trưởng là một tình yêu
đang lâm nguy. Và chúng ta chỉ có thể lớn lên khi chúng ta đáp lại ân sủng của
Thiên Chúa xuyên qua các hành động yêu thương không ngừng, những hành động từ
ái trở nên ngày càng thường xuyên hơn, nồng nhiệt, quảng đại, dịu dàng và vui
tươi hơn. Người chồng và người vợ “kinh nghiệm ý nghĩa về sự hợp nhất của mình
và theo đuổi nó ngày một trọn vẹn hơn”.[136]
Ơn ban của tình yêu Thiên Chúa tuôn tràn trên đôi bạn cũng là một lời mời gọi
không ngừng phát triển quà tặng của ân sủng này.

135.  Thật
ngây ngô việc mơ tưởng một tình yêu lí tưởng và hoàn hảo theo nghĩa nó không cần
được kích thích để tăng trưởng. Một ý niệm hão huyền về tình yêu trên thế gian
quên rằng điều tốt nhất còn chưa xảy đến, quên rằng rượu càng để lâu năm càng
ngon. Như các Giám mục Chilê đã nhắc lại rằng, “không hề tồn tại mẫu gia đình
hoàn hảo mà lối quảng cáo lừa bịp của chủ nghĩa tiêu thụ đề ra. Trong những kiểu
gia đình ấy, không có ai già đi, không có bệnh hoạn, đau khổ hay chết chóc […].
Quảng cáo của chủ nghĩa tiêu thụ phơi bày một ảo tưởng không liên quan gì đến
thực tế mà mỗi ngày những người cha người mẹ phải đối diện”.[137] Sẽ lành mạnh hơn nếu ta chấp
nhận thực tế những giới hạn, những thách đố và những bất toàn, và chú tâm lắng
nghe tiếng gọi lớn lên cùng với nhau, đưa tình yêu đến mức trưởng thành và củng
cố mối kết hợp, cho dẫu bất cứ điều gì xảy ra.

136.  Đối
thoại là một cách thức ưu việt và thiết yếu để sống, bày tỏ và làm triển nở
tình yêu trong đời sống hôn nhân và gia đình. Nhưng điều đó đòi một quá trình
thực tập lâu dài và cam go. Đàn ông và phụ nữ, người lớn và người trẻ, đều có
những cách giao tiếp khác nhau, sử dụng những ngôn ngữ khác nhau, mỗi giới lưu
dụng đặc ngữ khác nhau. Cách chúng ta đặt câu hỏi và trả lời, cung giọng được sử
dụng, lựa chọn thời điểm, và nhiều yếu tố khác nữa có thể là những điều kiện định
đoạt phẩm chất giao tiếp của chúng ta. Hơn nữa, cần luôn luôn phát triển một số
thái độ diễn tả tình yêu và thúc đẩy sự đối thoại đích thực.

137.  Hãy
dành thời gian, khoảng thời gian chất lượng để lắng nghe một cách kiên nhẫn và
chú ý, cho tới khi người kia diễn tả hết mọi điều mà người ấy cần nói. Điều này
đòi hỏi ta phải khổ chế bản thân để không lên tiếng khi chưa phải lúc. Thay vì
đưa ra một ý kiến hay một lời khuyên, chúng ta cần bảo đảm rằng mình đã nghe mọi
điều người kia muốn trình bày. Điều này bao hàm việc giữ thinh lặng nội tâm để
lắng nghe người khác mà không bị tác động do tâm tưởng: đừng hấp tấp, hãy đặt
qua một bên tất cả các nhu cầu và lo toan cấp thời riêng của bạn, và hãy dành
chỗ để lắng nghe. Rất nhiều khi người bạn đời không cần một giải pháp cho vấn đề
của người ấy, mà chỉ cần được lắng nghe. Người ấy cần cảm nhận rằng có người hiểu
nỗi đau của mình, hiểu sự chán nản, nỗi sợ, cơn giận, những hi vọng và những ước
mơ của mình. Tuy nhiên chúng ta lại thường nghe những lời phàn nàn như: “Anh ấy
không lắng nghe tôi.” “Ngay cả khi xem ra anh đang lắng nghe, nhưng thực ra là
anh đang nghĩ đến một việc gì khác”. “Tôi nói và tôi cảm thấy như cô ấy không
thể đợi tôi nói hết ý của mình.” “Khi tôi nói với cô ấy, cô ấy cố đánh trống lảng,
hoặc cô ấy chỉ trả lời cộc lốc để chấm dứt cuộc trò chuyện”.

138.  Hãy
phát triển thói quen trao tầm quan trọng thực sự cho người kia. Điều này có
nghĩa là biết trân trọng họ, nhìn nhận quyền tồn tại của họ, quyền suy nghĩ
theo cách riêng và quyền được hạnh phúc của họ. Đừng bao giờ chế giễu những gì
họ nói hay nghĩ, ngay cả khi bạn cần diễn tả quan điểm riêng của mình. Chính ở đây
hàm ẩn một xác tín đó là tất cả mọi người đều có cái gì đó để đóng góp, bởi vì
mỗi người đều có một kinh nghiệm sống khác, mỗi người nhìn sự vật từ một quan
điểm khác, mỗi người có những mối quan tâm ấp ủ khác, những khả năng và những
trực giác khác. Chúng ta phải nhận ra được sự thật của người kia, tầm quan trọng
của những mối bận tâm sâu xa nhất của người ấy, và những gì mà người ấy đang ngầm
muốn nói, ngay cả thông điệp nằm đàng sau những ngôn từ gay gắt. Vì lí do đó ta
phải cố đặt mình vào chỗ của người ấy, cố gắng nhìn vào trái tim của người ấy,
hiểu ra những bận tâm sâu xa nhất của người ấy và lấy đó làm khởi điểm cho một
cuộc đối thoại sâu xa hơn.

139.  Hãy
cởi mở trong suy nghĩ, đừng tự khép lại để mình mắc kẹt trong một vài ý kiến và
quan điểm giới hạn của mình, nhưng hãy sẵn sàng để thay đổi hay bổ túc ý kiến của
mình. Sự kết hợp cách nghĩ của tôi và cách nghĩ của người kia, khác nhau nhưng
có thể dẫn đến một tổng hợp làm phong phú cho cả hai. Sự hợp nhất mà chúng ta cần
tìm không phải là sự đồng dạng, nhưng là một sự “hợp nhất trong khác biệt”, hay
“sự khác biệt được hòa giải”. Theo đường hướng này, sự hiệp thông huynh đệ được
làm cho phong phú bằng sự kính trọng và trân trọng những khác biệt trong một
nhãn giới bao quát giúp thăng tiến thiện ích chung. Chúng ta cần giải phóng
chính mình khỏi cái cảm nghĩ rằng tất cả chúng ta đều phải giống như nhau. Cũng
cần khéo léo để nhận ra đúng lúc sự xuất hiện của “nỗi bực tức” có thể ngáng trở
tiến trình đối thoại. Chẳng hạn, nếu những cảm nghĩ gay gắt bắt đầu nổi lên,
chúng phải được tương đối hóa để không làm gián đoạn mạch đối thoại. Điều quan
trọng là khả năng nói lên những gì mình nghĩ mà không gây tổn thương cho người
khác; cần phải lựa lời mà nói và lựa cách nói làm sao để được người kia chấp nhận
cách dễ dàng hơn, nhất là khi thảo luận những vấn đề gay cấn; việc nêu những ý
kiến phê bình của mình đừng bao giờ gắn với việc xả cơn giận như một hình thức
trả thù, và tránh giọng điệu dạy đời chỉ cốt tấn công, châm chọc, tố cáo và gây
tổn thương. Nhiều sự bất đồng giữa vợ chồng thực sự không phải là những chuyện
quan trọng. Phần lớn chúng là những chuyện vặt vãnh, nhưng điều làm thay đổi bầu
khí chính là cách nói hay thái độ của người nói.

140.  Hãy
bày tỏ tình cảm và sự quan tâm đối với người kia. Tình yêu vượt qua cả những
rào chắn tệ hại nhất. Khi chúng ta yêu thương một người, hay khi chúng ta cảm
thấy mình được họ yêu thương, thì chúng ta có thể hiểu tốt hơn những gì mà họ
muốn truyền đạt hay muốn làm cho ta hiểu. Hãy vượt qua sự yếu nhược vốn làm cho
ta sợ người kia như thể một “đối thủ cạnh tranh”. Thật quan trọng việc đặt nền
quan điểm của mình trên những lựa chọn, những niềm tin hay những giá trị vững
chắc, chứ không đặt trên nhu cầu thắng một cuộc tranh cãi hay nhu cầu chứng
minh rằng mình đúng.

141.  Cuối
cùng, chúng ta phải nhìn nhận rằng trong một cuộc đối thoại có ý nghĩa quan trọng
nào đó, thì chúng ta phải có gì đó để nói, điều này đòi hỏi một sự phong phú nội
tâm nhờ được nuôi dưỡng bằng việc đọc sách, suy tư cá nhân, cầu nguyện, và cởi
mở ra với xã hội. Nếu không, các cuộc trò chuyện sẽ trở nên chán ngán và tầm
thường. Khi cả vợ lẫn chồng đều không đầu tư cho việc này và không có nhiều
tương quan khác nhau với những người khác, thì đời sống gia đình sẽ trở nên ngột
ngạt và đối thoại sẽ rất nghèo nàn.

142.  Công
đồng Vatican II dạy rằng tình yêu vợ chồng “bao trùm thiện ích của toàn thể
nhân vị; do đó nó có thể làm cho những biểu đạt của thân xác, của đời sống tâm
lí nên phong phú với một phẩm giá đặc biệt, và làm cho chúng nên cao quí xét
như là những yếu tố và dấu chỉ đặc biệt của tình bạn trong hôn nhân”.[138] Phải có lí do nào đó để chứng
thực rằng một tình yêu thiếu khoái cảm và đam mê thì không đủ để làm biểu tượng
cho sự kết hợp của trái tim con người với Thiên Chúa: “Tất cả các nhà thần bí đều
khẳng định rằng tình yêu siêu nhiên và tình yêu thiên giới gặp thấy những biểu
tượng của chúng trong tình yêu vợ chồng, hơn là trong tình bạn, trong lòng hiếu
thảo hay trong nhiệt tâm dấn thân cho một chính nghĩa nào đó. Lí do nằm ngay
trong toàn thể tính của nó”.[139] Vậy tại sao ta không dừng
lại để bàn về những cảm xúc và dục tính trong hôn nhân?

143.  Những
ham muốn, những tình cảm, những cảm xúc, điều mà người xưa gọi là “những đam
mê”, tất cả có một chỗ quan trọng trong đời sống hôn nhân. Chúng được khởi sinh
khi “một người khác” hiện diện và biểu lộ trong đời sống của mình. Đặc trưng của
mọi hữu thể sống động, đó là vươn ra tới một thực tại khác, và xu hướng này
luôn luôn có những dấu hiệu tình cảm căn bản: hoan lạc hay đau đớn, vui hay buồn,
dịu dàng hay sợ hãi. Chúng đặt nền móng cho sinh hoạt tâm lí căn bản nhất. Con
người là sinh vật sống trên trần gian này, và tất cả những gì họ làm và tìm kiếm
đều mang đầy dấu vết đam mê.

144.  Đức
Giêsu, như là một con người thực sự, đã sống với mọi cảm xúc của một con người.
Bởi thế, Người bị tổn thương vì Giêrusalem tẩy chay Người (cf. Mt 23,27) và điều đó khiến Người rơi lệ
(cf. Lc 19,41). Người cũng cảm động
sâu xa trước những nỗi thống khổ của người khác (cf. Mc 6,34). Nhìn thấy người ta khóc Người cũng thổn thức và bị xúc động
(cf. Ga 11,33), và Người khóc trước
cái chết của một người bạn (cf. Ga
11,35). Những ví dụ này về sự nhạy cảm của Đức Giêsu cho thấy trái tim nhân loại
của Người rộng mở biết bao đối với những người khác.

145.  Trải
nghiệm một cảm xúc tự nó không phải là một việc tốt hay xấu về mặt luân lí.[140] Bắt đầu cảm thấy dâng trào
dục vọng hay sự ghê tởm không hề là tội lỗi và cũng chẳng đáng trách. Điều tốt
hay xấu là hành vi một người làm được thúc đẩy bởi hoặc kèm theo một đam mê nào
đó. Nhưng nếu các đam mê được nuôi dưỡng, tìm kiếm, hay vì chúng mà chúng ta phạm
những hành động xấu xa, thì sự dữ hệ tại ở quyết định nuôi dưỡng chúng và ở những
hành động xấu kèm theo. Cũng vậy, việc tôi cảm thấy lạc thú lôi cuốn hướng tới
một người nào đó thì không tự nó là tốt. Nếu với lạc thú ấy tôi biến người đó
thành nô lệ cho tôi, thì cảm xúc của tôi chỉ phục vụ cho sự ích kỉ của mình. Tưởng
rằng mình tốt chỉ vì “chúng ta có những cảm xúc”, đó là một ảo tưởng ghê gớm.
Có những người cảm thấy mình có tình yêu vĩ đại chỉ vì họ có một nhu cầu to lớn
về tình cảm, nhưng họ không có khả năng thực hiện những nỗ lực cần thiết để đem
lại hạnh phúc cho người khác và chỉ loay hoay với những khao khát của họ. Trong
trường hợp như thế, các cảm xúc làm người ta xao lãng các giá trị cao cả và che
đậy một thái độ vị kỉ vốn không thể xây dựng một đời sống gia đình lành mạnh và
hạnh phúc.

146.  Đàng
khác, nếu đam mê kèm theo một hành động tự do, thì nó có thể biểu lộ chiều sâu
của chọn lựa ấy. Tình yêu hôn nhân chứng tỏ rằng toàn thể đời sống tình cảm của
người ta sinh ích lợi cho gia đình và phục vụ cho đời sống chung của gia đình.
Một gia đình trưởng thành khi đời sống tình cảm của các thành viên trở nên nhạy
cảm không đè nén cũng không lu mờ mờ những chọn lựa và những giá trị lớn lao,
nhưng tôn trọng sự tự do của mỗi người,[141]
xuất phát từ đó, cuộc sống gia đình thêm phong phú, hoàn thiện và hòa điệu vì sự
thiện ích của mọi người.

147.  Điều
này đòi hỏi một tiến trình có tính sư phạm, một tiến trình bao hàm những từ bỏ.
Xác tín này của Hội thánh thường bị tẩy chay viện lẽ nó đi ngược lại hạnh phúc
của con người. Đức Bênêđictô XVI đã đúc kết vấn đề này thật rõ ràng: “Với tất cả
những điều răn và những cấm đoán của mình, chẳng lẽ Hội thánh biến điều đẹp nhất
trong đời sống thành sự cay đắng hay sao? Chẳng lẽ Hội thánh thổi phạt chính
nơi mà niềm vui – vốn là quà tặng của Tạo Hóa – đem lại cho chúng ta niềm hạnh
phúc, làm cho chúng ta cảm nếm trước chút gì đó của Nước Thiên Chúa đó sao?”[142] Nhưng ngài đã trả lời rằng
mặc dù đã có những cường điệu và những hình thức khổ hạnh lệch lạc trong Kitô
giáo, nhưng giáo huấn chính thức của Hội thánh, trong sự trung thành với Thánh
Kinh, không hề bác bỏ “nhục cảm theo đúng nghĩa của nó, nhưng Hội thánh đã
tuyên chiến với một thứ nhục cảm biến dạng và hủy diệt, bởi vì sự thần thánh
hóa giả hiệu này của nhục cảm […] thực ra đã tước mất của nó phẩm giá thần linh
và làm mất cả nhân tính của nó nữa”.[143]

148.  Cần
phải có chương trình giáo dục cảm xúc và bản năng, và có khi điều này đòi hỏi
phải lập ra những giới hạn. Vui thú thái quá thiếu kiểm soát hoặc bị ám ảnh bởi
một kiểu lạc thú duy nhất rốt cuộc sẽ làm suy yếu và bại hoại cho chính lạc thú
ấy[144] và đe dọa đời sống gia
đình. Thật ra người ta có thể hoàn tất một hành trình tốt đẹp với những đam mê
của mình, bằng cách qui hướng chúng mỗi ngày một hơn vào một kế hoạch tự hiến
và thực hiện sự viên mãn của chính mình, điều này luôn làm phong phú các mối
tương quan liên vị trong đời sống gia đình. Điều này không có nghĩa là khước từ
những khoảnh khắc vui thú cao độ,[145]
nhưng là hội nhập chúng với những khoảnh khắc khác của sự quảng đại hiến thân,
của niềm hi vọng bền bỉ, của sự mệt mỏi không tránh được và của sự nỗ lực để đạt
lí tưởng. Đời sống gia đình là tất cả những điều đó, và nó đáng được sống đến mức
trọn vẹn nhất.

149.  Một
số trào lưu linh đạo nhấn mạnh đến sự từ bỏ những ham muốn để được giải thoát
khỏi đau khổ. Nhưng chúng ta tin rằng Thiên Chúa yêu thích niềm vui thú của con
người, Ngài đã dựng nên mọi sự “cho chúng ta hưởng dùng” (1 Tm 6,17). Chúng ta hãy để niềm vui trào dâng trước tình yêu dịu
dàng của Ngài khi Ngài bảo chúng ta: “Hỡi con, hãy làm cho đời con được tốt đẹp
[…] Đừng từ chối không hưởng một ngày vui” (Hc
14,11.14). Các đôi vợ chồng cũng hãy đáp lại thánh ý Thiên Chúa khi họ tuân
theo lời mời này của Thánh Kinh: “Ngày gặp may mắn, hãy cứ vui hưởng” (Gv 7,14). Điều quan trọng là phải có tự
do để nhận ra rằng niềm vui thú có thể có những cách diễn tả khác nhau vào những
giai đoạn khác nhau của đời sống, phù hợp với các nhu cầu của tình yêu hỗ
tương. Theo nghĩa này, chúng ta có thể đón nhận những đề nghị của một số bậc thầy
Đông phương thúc đẩy chúng ta mở rộng ý thức, để chúng ta không bị giam hãm bởi
một kinh nghiệm rất giới hạn khiến tầm nhìn của chúng ta lại khép lại. Sự mở rộng
ý thức này không phủ nhận hay tiêu diệt lòng ham muốn cho bằng là mở rộng và
hoàn thiện nó.

150.  Tất
cả những điều này đưa chúng ta đến với đời sống tính dục của đôi bạn. Chính
Thiên Chúa tạo dựng nên tính dục, đó là món quà kì diệu cho các thụ tạo của
Ngài. Khi tính dục được vun xới và tránh việc thiếu kiểm soát, đó là để phòng
tránh “làm nghèo nàn đi một giá trị đích thực”.[146]
Thánh Gioan Phaolô II bác bỏ quan điểm cho rằng giáo huấn của Hội thánh “phủ nhận
giá trị của tính dục con người”, hay cho rằng Hội thánh chấp nhận tính dục đơn
giản “chỉ vì nó cần cho việc truyền sinh”.[147]
Nhu cầu tình dục của vợ chồng không phải là một cái gì đáng khinh dể, và “đó
không phải là vấn đề cần đặt ra”.[148]

151.  Với
những ai lo sợ việc huấn luyện các đam mê và tính dục sẽ làm ảnh hưởng đến tính
bộc phát tự nhiên của tình yêu nam nữ, Thánh Gioan Phaolô II trả lời rằng nhân
vị con người được “mời gọi hướng đến tính cách tự nhiên đầy đủ và trưởng thành
trong các mối tương quan của mình”, điều đó “là hoa trái trổ sinh dần dần từ một
sự phân định các xung năng trong lòng mình”.[149]
Đó là một cái gì chúng ta đắc thủ, bởi vì mọi người đều “phải học – một cách
kiên trì và nhất quán – để biết ý nghĩa của thân xác mình”.[150]
Tính dục không phải là một phương tiện để thỏa mãn hay để giải trí, vì nó là một
ngôn ngữ liên vị trong đó tha nhân được nghiêm túc trân trọng, trong phẩm giá
thánh thiêng và bất khả xâm phạm của người ấy. Như thế, “tâm hồn con người dần
tham dự vào, có thể nói, một tính cách tự phát khác”.[151]
Trong bối cảnh này, ái tình xuất hiện như một sự thể hiện tính dục chuyên biệt
của con người. Trong đó, người ta có thể tìm thấy lại “ý nghĩa hợp hôn của thân
xác và phẩm giá đích thực của tặng phẩm trao hiến”.[152]
Trong các bài giáo lí về thần học thân xác, Thánh Gioan Phaolô II đã dạy rằng
thân xác với tính dục dị biệt không những là “nguồn của sự phong nhiêu và sinh
sản”, mà nó còn sở hữu “khả năng diễn tả tình yêu: tình yêu mà chính ở đó con
người – nhân vị trở thành một quà tặng”.[153]
Một khao khát tình dục lành mạnh, cho dù gắn với một mưu cầu lạc thú, đều giả
thiết có một cảm thức cảm thán, và chính bởi đó mà nó có thể làm cho các xung
năng có tính nhân văn.

152.  Vì
thế, dù sao đi nữa chúng ta cũng không thể xem chiều kích nhục dục của tình yêu
như một sự dữ được phép, hay như một gánh nặng phải chịu đựng vì thiện ích của
gia đình, đúng hơn, nó phải được xem như tặng phẩm của Thiên Chúa, nhằm làm đẹp
cho mối hạnh ngộ vợ chồng. Xét như một đam mê được thăng hoa bởi một tình yêu đầy
kính trọng phẩm giá của người kia, đam mê trở thành một “khẳng định tinh tuyền
và trọn vẹn” của tình yêu thể hiện những điều kì diệu có thể ẩn chứa trong trái
tim con người, và như thế, ngay bây giờ đây, ta có thể nhận thấy rằng “cuộc sống
con người đã là một thành công”.[154]

153.  Trong
bối cảnh của cái nhìn tích cực này về tính dục, thật là thích hợp để tiếp cận
chủ đề trong tính toàn thể với một tinh thần thực tế lành mạnh. Thật ra, chúng
ta không thể không biết tình dục rất thường bị phi nhân vị hóa và trở thành bệnh hoạn, đến nỗi, “nó luôn trở thành
cơ hội và phương tiện cho người ta tự khẳng định mình và thỏa mãn cách ích kỉ
các ham muốn và bản năng của mình”.[155]
Trong thời đại của chúng ta, tình dục có nguy cơ bị nhiễm độc bởi não trạng “sử
dụng và vứt bỏ”. Thân xác của tha nhân thường bị thao túng và xem như một đồ vật
để sử dụng bao lâu nó còn đem lại thỏa mãn, và bị khinh dễ khi nó không còn hấp
dẫn nữa. Liệu người ta có thể không biết hay bỏ qua những hình thức cố hữu của
sự thống trị, ngạo mạn, lạm dụng, lệch lạc và bạo lực tình dục, vốn là kết quả
của một cách hiểu méo mó về ý nghĩa của tình dục, nhằm chôn vùi phẩm giá của
người khác và tiếng gọi vươn đến yêu thương ẩn bên dưới một kiếm tìm u mê chính
bản thân mình?

154.  Cũng
không thừa khi chúng ta nhắc nhớ rằng ngay trong hôn nhân, tình dục cũng có thể
trở thành một nguồn của đau khổ và của sự thao túng. Bởi thế cần phải xác nhận
lại rõ ràng rằng “một hành vi vợ chồng áp đặt trên người phối ngẫu mà không xem
xét đến điều kiện của người đó, hay không cần biết người đó có muốn hay không,
thì không phải là hành vi đích thực của tình yêu, và do đó nó xúc phạm trật tự
luân lí đúng đắn trong tương quan vợ chồng”.[156]
Những hành vi dành riêng cho sự kết hợp tính dục giữa vợ chồng phù hợp với bản
chất của tính dục theo ý muốn của Thiên Chúa khi chúng được thực hiện một cách
“hợp nhân tính thực sự”.[157] Bởi thế Thánh Phaolô đã
khuyên rằng: “Về điểm này, đừng ai làm tổn thương hay lừa dối người anh em
mình” (1 Tx 4,6). Cho dù Thánh Phaolô
viết trong bối cảnh một nền văn hóa mà tính gia trưởng thống lĩnh, trong đó người
phụ nữ bị coi như là hoàn toàn phụ thuộc vào đàn ông, song ngài vẫn dạy rằng
tính dục phải liên quan đến việc tương giao vợ chồng: Thánh Phaolô nêu ra khả
năng của việc đình hoãn quan hệ tình dục trong một giai đoạn nào đó, nhưng dĩ nhiên
là “với sự đồng thuận” (1 Cr 7,5).

155.  Thánh
Gioan Phaolô II cảnh giác một cách rất tinh tế rằng đôi vợ chồng có thể bị “đe
dọa bởi sự ham hố vô độ”.[158] Nói cách khác, họ được mời
gọi đạt tới một mối kết hợp không ngừng thâm sâu hơn, nhưng có thể đưa đến nguy
cơ xóa bỏ những sự khác biệt và khoảng cách không thể tránh được giữa hai người.
Vì mỗi người có một phẩm giá riêng và độc đáo. Khi sự quí trọng thuộc về nhau
chuyển thành sự thống trị, thì “nó thay đổi […] về bản chất cấu trúc hiệp
thông trong mối quan hệ liên vị”.[159]
Trong tâm thức thống trị, ngay cả người thống trị rốt cuộc cũng phủ nhận phẩm
giá của chính mình,[160] và sau cùng, họ không còn
“đồng nhất một cách chủ quan với thân xác của chính mình nữa”,[161] vì đã mất hết mọi ý nghĩa.
Kết cuộc, họ dùng tính dục như cách để thoát li bản thân và chối bỏ vẻ đẹp của
sự kết hợp vợ chồng.

156.  Điều
quan trọng cần nói rõ là phải từ chối bất kì một hình thức nô lệ tình dục nào.
Vì thế phải tránh tất cả những diễn dịch sai lạc bản văn của Thư gửi tín hữu Êphêsô, trong đó đề nghị
rằng các phụ nữ hãy “tùng phục chồng mình” (Ep
5,22). Ở đây Thánh Phaolô diễn tả những phạm trù văn hóa của thời đó, nhưng
chúng ta không buộc phải mang lấy hình thái văn hóa đó, mà chỉ nhận sứ điệp mạc
khải mà nó chuyển tải. Chúng ta nghe lại cách giải thích khôn ngoan của Thánh
Gioan Phaolô II: “Tình yêu loại trừ mọi loại qui phục theo nghĩa người vợ có thể
trở thành một tôi tớ hay nô lệ của người chồng […] Cộng đồng hay sự hợp nhất mà
họ phải kiến tạo nhờ hôn nhân được thực hiện bởi một sự tự hiến cho nhau, mà sự
tự hiến này vốn cũng là một sự qui phục nhau”.[162]
Bởi thế Phaolô còn nói rằng “những người chồng phải yêu vợ mình như yêu chính
thân xác mình” (Ep 5,28). Bản văn
Thánh Kinh này thực ra mời gọi chúng ta vượt qua chủ nghĩa cá nhân tự mãn để sống
lưu tâm tới người khác: “Anh em hãy tùng phục nhau” (Ep 5,21). Trong hôn nhân, sự “tùng phục” hỗ tương này mang một ý
nghĩa đặc biệt và được hiểu như một sự thuộc về nhau theo cách tự do chọn lựa,
với sự tập hợp các đặc tính là sự trung tín, kính trọng và quan tâm. Tính dục
và phục vụ không tách rời nhau trong tình bạn này giữa vợ chồng, vì nó được đặt
định để giúp người kia sống viên mãn.

157.  Thế
nhưng, việc từ khước tính dục và nhục cảm lệch lạc không bao giờ được dẫn chúng
ta đến chỗ xem thường hay dửng dưng với chúng. Lí tưởng của hôn nhân không thể
chỉ được xem như sự quảng đại trao hiến và quên mình, trong đó mỗi người phối
ngẫu từ bỏ tất cả những nhu cầu riêng và chỉ tìm cách làm vui lòng người kia mà
không quan tâm gì đến sự thỏa mãn riêng của mình. Chúng ta cần nhớ rằng một
tình yêu đích thực còn phải biết đón nhận từ người kia, đó là khả năng chấp nhận
sự mỏng manh và thiếu thốn của mình, và không từ khước đón nhận chân thành và với
lòng tri ân những biểu lộ tình yêu nơi thân xác như một cử chỉ vuốt ve, một
vòng tay ôm ấp, một nụ hôn, và cả sự giao hợp. Đức Bênêđictô XVI tuyên bố điều
này rất rõ ràng: “Nếu người ta mong muốn trở thành tinh thần thuần túy và loại
bỏ xác thịt như một di sản thuộc về bản tính động vật mà thôi, thì cả tinh thần
và thân xác đều mất đi phẩm giá của nó”.[163]
Vì vậy, “người ta không thể chỉ sống với tình yêu trao hiến mà thôi. Người ta
không thể chỉ luôn luôn cho đi, mà còn phải đón nhận nữa. Bất cứ ai muốn trao
hiến tình yêu thì cũng phải đón nhận tình yêu như một quà tặng”.[164] Điều này đòi hỏi chúng ta
không bao giờ được quên rằng sự cân bằng của con người chúng ta rất là mong
manh; trong ta luôn có cái gì đó đề kháng lại sự trưởng thành nhân bản, và bất
cứ lúc nào nó cũng có thể bộc lộ những xu hướng ích kỉ và hoang sơ nhất.

158.  “Nhiều
người sống mà không kết hôn, họ không chỉ lo cho gia đình mình mà thường còn phục
vụ nhiều trong nhóm bạn hữu của họ, trong cộng đoàn Hội thánh và trong đời sống
nghề nghiệp. […] Rồi, có rất nhiều người đem tài năng của mình phục vụ cho cộng
đoàn Kitô hữu trong các việc bác ái và thiện nguyện. Cũng có những người khác
không kết hôn vì họ thánh hiến cuộc đời của họ cho tình yêu Đức Kitô và tha
nhân. Sự hiến dâng của họ góp phần lớn lao làm phong phú cho gia đình, trong Hội
thánh và trong xã hội”.[165]

159.  Trinh
khiết là một hình thức của tình yêu. Xét như một dấu chỉ, nó nhắc chúng ta về
Nước Thiên Chúa đang đến và về nhu cầu cấp bách dấn thân hoàn toàn phục vụ cho
công cuộc loan báo Tin mừng (cf. 1 Cr
7,32). Trinh khiết cũng là một phản ánh của sự viên mãn trên thiên quốc, ở đó
“người ta không còn dựng vợ gả chồng” (Mt
22,30). Thánh Phaolô cổ võ sự trinh khiết vì ngài mong đợi sự trở lại nhanh
chóng của Đức Giêsu và ngài muốn mọi người chỉ tập trung vào việc loan báo Tin
mừng: “Thời gian chẳng còn bao lâu” (1 Cr
7,29). Tuy nhiên, ngài cũng nói rõ đây là quan điểm và ý muốn cá nhân của ngài
(cf. 1 Cr 7,6-9), chứ không phải là một
đòi hỏi của Đức Kitô: “Tôi không có chỉ thị nào của Chúa” (1 Cr 7,25). Đồng thời ngài cũng nhìn nhận
giá trị của những ơn gọi khác nhau: “Mỗi người nhận được ơn riêng của Thiên
Chúa ban, người ơn này kẻ ơn khác” (1 Cr
7,7). Theo hướng đó Thánh Gioan Phaolô II khẳng định rằng các bản văn Thánh
Kinh “không cho ta lí do để khẳng định tính ‘thấp kém’ của hôn nhân, cũng không
khẳng định tính ‘ưu việt’ của trinh khiết hay độc thân”[166]
dựa trên sự tiết dục. Thay vì nói về tính ưu việt của bậc sống trinh khiết
trong mọi khía cạnh, có lẽ ta nên cho thấy các bậc sống khác nhau bổ sung cho
nhau, theo đó người này có thể hoàn hảo hơn về khía cạnh này và người khác sẽ
hoàn hảo hơn theo một quan điểm khác. Alexandro di Hales, chẳng hạn, tuyên bố rằng
theo một nghĩa nào đó thì hôn phối có thể được xem như ưu việt hơn các bí tích
khác: vì nó là biểu tượng của thực tại lớn lao, đó là “sự kết hợp của Đức Kitô
với Hội thánh, hay sự kết hợp giữa thiên tính và nhân tính của Người”.[167]

160.  Do
đó, “vấn đề ở đây không phải là giảm thiểu giá trị của hôn nhân để thiên vị sự
trinh khiết”[168] và “không có cơ sở nào để
ta giả thiết sự đối lập giá trị của bên này và bên kia […] Nếu người ta nói về
“bậc trọn lành” (status perfectionis)
theo một truyền thống thần học nào đó, thì điều đó không dựa trên lí do của
chính sự tiết dục, nhưng liên hệ tới toàn thể đời sống đặt nền trên các lời
khuyên của Phúc Âm”.[169] Tuy nhiên, một người đã kết
hôn có thể sống mức độ cao nhất của đức ái. Vì thế, người ấy có thể “đạt tới sự
hoàn thiện phát xuất từ đức ái, nhờ trung thành sống tinh thần các lời khuyên
Phúc Âm. Sự hoàn thiện như thế là điều có thể và mọi người nam nữ đều có thể đạt
được”.[170]

161.  Trinh
khiết có giá trị biểu tượng của một tình yêu vốn không có nhu cầu chiếm hữu người
khác, và bằng cách đó nó phản ánh sự tự do của Nước Trời. Đây là một lời mời gọi
dành cho những người kết hôn sống tình yêu phu phụ của họ trong viễn ảnh tình
yêu dứt khoát dành cho Đức Kitô, cùng đồng hành với nhau tiến tới sự viên mãn của
Nước Trời. Về phần mình, tình yêu của đôi bạn giới thiệu những giá trị biểu tượng
khác: một đàng, nó là một phản ánh đặc biệt của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thật ra, Ba
Ngôi là một sự hiệp nhất trọn vẹn, nhưng trong đó vẫn có phân biệt các Ngôi vị.
Hơn nữa, Gia đình cũng là một dấu chỉ Kitô học, vì gia đình biểu thị sự gần gũi
của Thiên Chúa, Đấng chia sẻ sự sống của con người qua việc Người trở nên một với
chúng ta trong mầu nhiệm Nhập thể, Thập giá và sự Phục sinh: mỗi người phối ngẫu
trở thành “một xương một thịt” với người kia và dâng hiến chính mình để chia sẻ
mọi sự với người ấy cho tới chết. Trong khi trinh khiết là một dấu chỉ “cánh
chung” của Đức Kitô Phục sinh, thì hôn nhân là một dấu chỉ “lịch sử” cho những
người đang trên đường lữ hành trần thế, một dấu chỉ của Đức Kitô tại thế, là Đấng
đã chấp nhận nên một với chúng ta và tự hiến cho chúng ta đến mức đổ máu mình
ra. Trinh khiết và hôn nhân là – và phải là – những cách thế khác nhau để yêu
thương, vì “con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người vẫn là một
hữu thể không thể hiểu nổi đối với chính mình, đời sống của con người sẽ vô
nghĩa, nếu tình yêu không được mạc khải cho con người”.[171]

162.  Độc
thân có thể có nguy cơ trở thành một đời sống thoải mái một mình, trong đó người
ta có tự do để sống độc lập, để di chuyển từ chỗ ở này đến chỗ ở khác, từ công
việc này đến công việc khác, hay từ chọn lựa này đến chọn lựa khác, tự do sử dụng
tiền bạc của mình và thường xuyên đi lại với người này người khác tùy theo ý muốn
nhất thời. Trong trường hợp đó, chứng tá của những người kết hôn trở nên sáng
ngời. Những người được gọi để sống trinh khiết có thể gặp thấy trong một số cặp
hôn phối một dấu chỉ rõ ràng của lòng trung tín quảng đại và bền vững của Thiên
Chúa đối với Giao ước của Ngài, và điều này có thể thúc đẩy họ sẵn sàng phục vụ
người khác cách cụ thể và hiến dâng hơn. Quả thật, có những người kết hôn vẫn
giữ được lòng trung thành của họ khi người kia với vẻ bề ngoài trở nên không
còn hấp dẫn, hay không còn thỏa mãn các nhu cầu của mình được nữa, hoặc có nhiều
cơ hội xúi giục họ bất trung hoặc rời bỏ người bạn đời của mình. Một người vợ
có thể chăm sóc người chồng bệnh tật của mình, khi đó, kề bên Thập giá, chị lặp
lại lời cam kết ưng thuận của tình yêu cho đến suốt đời. Trong tình yêu đó, phẩm
giá của người yêu thương tỏa sáng, một phẩm giá như phản chiếu đức ái, vì lẽ nó
thuộc về đức ái hệ tại ở yêu người
nhiều hơn ở được người yêu.[172] Chúng ta cũng có thể gặp
thấy nhiều gia đình có khả năng phục vụ cách ân cần và quên mình đối với những
đứa con gây phiền nhiễu và thậm chí phụ bạc. Các cha mẹ như thế trở thành một dấu
chỉ của tình yêu tự do và vô vị lợi của Đức Giêsu. Tất cả những điều ấy mời gọi
những người độc thân sống sự dấn thân vì Nước Trời một cách cởi mở và quảng đại
hơn. Ngày nay, hiện tượng tục hóa đã che mờ giá trị của một sự kết hợp suốt đời
và làm giảm thiểu vẻ đẹp phong phú của ơn gọi dâng hiến trong hôn nhân, bởi thế
ta “cần phải đào sâu những khía cạnh tích cực của tình yêu vợ chồng”.[173]

163.  Ngày
nay, tuổi thọ dài hơn dẫn đến một điều gì đó vốn ở những thời đại khác không
thường gặp: tương quan mật thiết và thuộc về nhau phải kéo dài bốn mươi, năm
mươi hay thậm chí sáu mươi năm; và điều đó bao hàm chọn lựa ban đầu phải thường
xuyên được làm mới lại. Có thể một người phối ngẫu không còn được hấp dẫn bởi một
khao khát tình dục mạnh mẽ đối với người kia nữa, nhưng người ấy vẫn cảm thấy
niềm hoan lạc thuộc về người kia, cũng như người kia thuộc về mình, vì biết rằng
mình không cô đơn, vì có một “bạn đường” biết tất cả cuộc đời và lịch sử của
mình và chia sẻ với mình mọi sự. Đây là người bạn đồng hành trong hành trình cuộc
sống mà với họ ta có thể đương đầu với những khó khăn và cùng họ vui hưởng những
điều tốt đẹp. Cả điều đó cũng tạo niềm thỏa mãn đi kèm theo khát khao riêng của
tình yêu vợ chồng. Chúng ta không thể hứa chắc chắn rằng chúng ta sẽ có cùng những
tình cảm ấy trong suốt cuộc đời. Nhưng chúng ta có thể chắc chắn rằng chúng ta
có một dự án chung ổn định, cùng cam kết yêu nhau và cùng sống gắn bó với nhau
cho đến khi cái chết tách lìa hai người, và luôn vui sống tình ái ân phong phú.
Tình yêu mà chúng ta cam kết với nhau thì vượt trên mọi cảm xúc, tình cảm, hay
mọi tâm trạng bất thường, dù nó có thể bao gồm tất cả những yếu tố ấy. Đó là một
tình yêu thương sâu xa nhất, với một quyết định của con tim gắn với toàn thể cuộc
sống. Như vậy, ngay cả giữa những xung đột còn ngổn ngang, và dù cho có nhiều
tình cảm lẫn lộn quay cuồng con tim, chúng ta vẫn sống mỗi ngày quyết định yêu
thương của mình, thuộc về nhau, chia sẻ toàn bộ cuộc sống với nhau, và tiếp tục
yêu thương nhau và tha thứ cho nhau. Mỗi người thực hiện cuộc hành trình tăng
trưởng và biến đổi cá nhân. Trên hành trình này, tình yêu mở hội ở mỗi bước đi
và ở mỗi chặng đường mới.

164.  Trong
lịch sử của một cuộc hôn nhân, khía cạnh ngoại hình sẽ thay đổi, nhưng đây
không phải là lí do để sự hấp dẫn của tình yêu phai nhạt. Chúng ta yêu một người
vì chính con người của người ấy, không chỉ vì thân xác, cho dù thân xác ấy, héo
tàn theo năm tháng, vẫn diễn tả căn tính con người ấy vốn đã chinh phục trái
tim chúng ta thuở ban đầu. Trong khi những người khác không còn thấy được vẻ đẹp
của căn tính ấy, thì người phối ngẫu thương yêu vẫn có thể tiếp tục nhìn thấy
nó qua bản năng của tình yêu, và vì thế lòng thương mến không biến mất. Người
phối ngẫu tái xác nhận quyết định thuộc về người kia và diễn tả sự chọn lựa người
kia một cách mới mẻ qua sự gần gũi trung thành và đầy yêu thương. Quyết định
cao quí của chọn lựa vì người kia, mãnh liệt và sâu xa, sẽ khơi dậy một loại cảm
xúc mới khi người ta chu toàn sứ mạng đời sống hôn nhân của mình. Vì “cảm xúc
được khơi lên bởi một người khác như một nhân vị […] tự nó không hướng đến hành
vi vợ chồng”.[174] Nó tìm thấy những diễn tả
khả giác khác, vì tình yêu “là một thực tại duy nhất, nhưng với những chiều
kích khác nhau; lúc này hay lúc khác, chiều kích này hay chiều kích kia có thể
hiện lộ rõ ràng hơn”.[175] Mối dây hôn nhân tìm thấy
những hình thức diễn tả mới và không ngừng tìm kiếm những cách thức mới để thực
hiện. Nhưng nó không chỉ được gìn giữ mà còn được làm tăng trưởng. Đó là một
hành trình xây dựng ngày này qua ngày khác. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không thể
làm được điều nào cả, nếu không khẩn cầu cùng Chúa Thánh Thần, nếu không kêu
van mỗi ngày để xin Ngài đổ tràn ân sủng của Ngài, nếu không tìm kiếm sức mạnh
siêu nhiên, nếu không than van xin Ngài đổ tràn ngọn lửa thiêng liêng của Ngài
trên tình yêu của chúng ta để củng cố, hướng dẫn và biến đổi tình yêu của chúng
ta trong mỗi hoàn cảnh mới.

165. Tình yêu luôn mang đến sự sống. Bởi vậy, tình yêu vợ chồng
“không hoàn tất chỉ nơi hai người […]. Khi hai vợ chồng trao hiến cho nhau
thì cũng trao ban một thực hữu vượt khỏi chính họ, tức là đứa con, phản ánh sống
động tình yêu của họ, dấu chỉ thường xuyên của sự hiệp nhất vợ chồng và là tổng
hợp sống động không thể phân chia của tư cách làm cha làm mẹ của họ”[176].

166. Gia đình không chỉ là nơi sinh ra, nhưng còn là nơi tiếp
đón sự sống mới đến như một quà tặng của Thiên Chúa gửi đến. Mỗi sự sống mới
“cho phép chúng ta khám phá chiều kích vô vị lợi nhất của tình yêu, một tình
yêu khiến chúng ta không bao giờ hết thán phục. Trước hết, đó chính là vẻ đẹp
được yêu mến: con cái được yêu thương trước khi được sinh ra”[177]. Điều này phản ánh tính ưu
việt của tình yêu Thiên Chúa là Đấng luôn có sáng kiến, bởi vì con cái “được
yêu thương trước khi chúng làm gì để đáng được yêu”[178].
Tuy nhiên, “ngay từ lúc đầu nhiều trẻ em đã bị từ chối, bị bỏ rơi, bị cướp mất
tuổi thơ và tương lai của chúng. Có người dám nói, như thể tự biện minh cho
mình, rằng cho chúng chào đời là một sai lầm. Thật đáng xấu hổ! […] Làm sao
chúng ta lại có thể long trọng đưa ra những tuyên ngôn về nhân quyền và các quyền
của trẻ em, để rồi chúng ta lại trừng phạt trẻ em vì những sai lầm của người lớn?”[179]. Nếu một đứa trẻ chào đời
trong những hoàn cảnh ngoài ý muốn, thì cha mẹ hoặc các thành viên khác trong
gia đình phải làm tất cả những gì có thể để đón nhận em như một quà tặng của
Thiên Chúa và tiếp nhận em với hết trách nhiệm của mình trong sự cởi mở và niềm
mến thương. Bởi vì “khi nói đến trẻ em chào đời, thì không một hi sinh nào của
người lớn lại có thể được coi là quá đắt hoặc quá to tát, làm sao để tránh việc
trẻ có cảm nghĩ bản thân nó là một sai lầm, không có giá trị gì hoặc bị bỏ mặc
cho sự hoành hành của giông tố cuộc đời và sự bạo ngược của con người”[180]. Đứa con mới sinh, tặng phẩm
Chúa trao phó cho người cha và người mẹ, được đón tiếp ngay từ lúc khởi đầu, được
tiếp tục bảo vệ trong suốt hành trình cuộc sống trần thế và hướng tới định mệnh
cuối cùng là niềm vui sự sống đời đời. Bằng cái nhìn thanh thản hướng đến sự
hoàn tất chung cuộc của một nhân vị, cha mẹ sẽ ý thức hơn về tặng phẩm sự sống
quí giá được giao phó cho họ: quả thật, Thiên Chúa nhượng ban cho họ việc đặt
tên con, tên mà Ngài sẽ gọi từng đứa con của Ngài mãi mãi[181].

167. Gia đình đông con là một niềm vui cho Hội thánh. Trong
đó tình yêu thể hiện sự quảng đại phong nhiêu của mình. Nói thế không có nghĩa
là ta quên đi cảnh báo tốt lành của Thánh Gioan Phaolô II, khi Ngài giải thích
việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm không phải là “sinh sản không giới hạn hay
thiếu ý thức về ý nghĩa của việc nuôi dạy con cái, mà là khả năng được trao cho
các cặp vợ chồng sử dụng quyền tự do bất khả xâm phạm của họ một cách khôn
ngoan và có trách nhiệm, có cân nhắc thực tế xã hội và nhân khẩu, cũng như tùy
theo hoàn cảnh riêng và ước muốn chính đáng của mình”[182].

168. Mang thai là một thời kì khó khăn, nhưng cũng là một thời
gian tuyệt vời. Người mẹ hợp tác với Thiên Chúa để sinh ra một phép mầu của sự
sống mới. Khả năng làm mẹ là một “tiềm năng đặc biệt của cơ thể người phụ nữ,
phục vụ cho việc thụ thai và sinh con nhờ đặc thù tạo dựng của nó”[183]. Mỗi người nữ đều tham dự
vào “mầu nhiệm tạo dựng, một mầu nhiệm trở nên hiện thực qua mỗi lần hạ sinh một
con người”[184]. Như Thánh Vịnh nói: “Tạng
phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con”
(139,13). Mỗi đứa trẻ tượng hình trong dạ mẹ là thuộc kế hoạch muôn đời của
Thiên Chúa Cha và tình yêu vĩnh cửu của Ngài: “Trước khi cho ngươi thành hình
trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hiến
ngươi” (Gr 1,5). Mỗi đứa trẻ tự muôn
đời đã có một chỗ ở trong trái tim Thiên Chúa, và vào chính lúc nó được thụ
thai là lúc giấc mơ vĩnh cửu của Đấng Tạo Hóa trở thành hiện thực. Chúng ta hãy
nghĩ đến mỗi sinh linh phôi thai đáng giá biết bao từ giây phút bắt đầu được
cưu mang! Cần phải nhìn nó bằng chính ánh nhìn yêu thương của Chúa Cha, vượt
trên mọi dáng vẻ bên ngoài.

169. Người phụ nữ mang thai có thể tham gia vào kế hoạch này
của Thiên Chúa qua ước mơ về con cái mình: “Tất cả các bà mẹ và ông bố đều mơ ước
về đứa con của mình suốt chín tháng. […] Một gia đình không thể không có ước
mơ. Khi trong một gia đình mà mất khả năng ước mơ thì những đứa trẻ sẽ không
phát triển và tình yêu không tăng trưởng, sự sống sẽ tàn héo dần và lịm tắt”[185]. Trong giấc mơ này, đôi vợ
chồng Kitô hữu nhất thiết sẽ nghĩ đến Bí tích Rửa tội. Cha mẹ chuẩn bị cho biến
cố này bằng việc cầu nguyện, phó dâng con mình cho Chúa Giêsu ngay cả trước khi
bé được sinh ra.

170. Với sự tiến bộ của khoa học ngày nay người ta có thể biết
trước màu tóc của em bé và những bệnh tật có thể có của nó trong tương lai, bởi
vì tất cả các đặc tính thể lí của con người đã được ghi trong mã di truyền của
họ trong giai đoạn phôi thai. Nhưng chỉ Chúa Cha, Đấng tạo thành con người ấy mới
biết họ một cách đầy đủ. Chỉ một mình Ngài mới biết điều gì là quí giá nhất, điều
gì là quan trọng nhất, bởi vì Ngài biết đứa trẻ đó là ai, đâu là căn tính sâu
xa nhất của nó. Người mẹ đang cưu mang em bé cần cầu xin Chúa ban cho ánh sáng
để có thể nhận biết tự thâm sâu chính người con của mình và chờ đợi nó như con
người đích thực của nó. Một số cha mẹ cảm thấy đứa con của mình đã không chào đời
đúng thời thuận lợi nhất. Họ cần cầu xin Chúa chữa lành và ban thêm sức mạnh để
họ chấp nhận người con đó cách trọn vẹn, để có thể mong đợi đứa con ấy với cả tấm
lòng. Điều quan trọng là đứa con ấy cảm thấy mình đang được mong đợi. Nó không
phải là một phụ tùng bổ sung hoặc giải đáp cho khát vọng cá nhân ai đó. Nó là một
con người, với một giá trị vô song và không thể bị đem sử dụng vì một lợi ích
riêng tư. Bởi thế, điều quan trọng không phải là sinh linh mới đó sẽ giúp ích
gì cho bạn, liệu trẻ đó có những đặc điểm mà bạn thích hay không, liệu nó có
đáp ứng những dự phóng của bạn và những giấc mơ của bạn hay không. Bởi vì “con
cái là hồng ân. Mỗi người là duy nhất và độc đáo […]. Một đứa con được bạn
yêu thương chỉ vì nó là con, không bởi vì nó đẹp, hay nó như thế này thế kia;
không, đơn giản chỉ vì nó là con mình! Không phải vì nó có suy nghĩ giống như
tôi, hoặc nó là hiện thân của những khát vọng của tôi. Một đứa con luôn là một
đứa con”[186]. Tình yêu của cha mẹ là
phương thế Thiên Chúa Cha dùng để bày tỏ tình yêu của Ngài, Đấng dịu dàng chờ đợi
mỗi đứa trẻ chào đời, đón nhận nó vô điều kiện và tiếp nhận nó cách vô cầu.

171. Với mỗi chị em phụ nữ đang mang thai, bằng tất cả tình
thương cha, muốn kêu mời: Hãy giữ gìn niềm vui của con, đừng để bất cứ thứ gì
tước mất niềm vui nội tâm của thiên chức làm mẹ. Đứa con ấy xứng đáng là niềm
hoan lạc cho con. Con đừng để những sợ hãi, âu lo, những đàm tiếu hay rắc rối của
người khác dập tắt niềm phúc lạc được làm khí cụ của Chúa để một sự sống mới được
chào đời. Con hãy chú tâm đến những gì cần làm hoặc chuẩn bị sinh nở, nhưng đừng
để bị ám ảnh, và cùng Mẹ Maria con hãy cất lời ca ngợi: “Linh hồn tôi ngợi khen
Đức Chúa,  thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi. Phận nữ tì hèn mọn Người đoái thương nhìn tới”
(Lc 1,46-48). Hãy gắng sống nhiệt
thành trong thanh bình giữa không ít những khó khăn còn đó của con, và xin Chúa
gìn giữ niềm vui của con, để con có thể thông truyền niềm vui ấy cho con của
con.

172. “Trẻ em vừa mới chào đời, cùng với việc được nuôi dưỡng
và chăm sóc, bắt đầu nhận được một ơn huệ là biết chắc chắn chúng được yêu
thương bằng một tình yêu thiêng liêng. Những hành động yêu thương tỏ lộ qua việc
đặt tên riêng cho em, tập cho em nói bằng một ngôn ngữ chung, những ánh nhìn đầy
trìu mến, những nụ cười rạng rỡ. Như thế, bài học đầu tiên chúng học được đó là
vẻ đẹp của các mối tương quan giữa người với người hệ tại ở tâm hồn, mưu cầu tự
do cho ta, chấp nhận sự khác biệt của tha nhân, nhìn nhận và tôn trọng họ như
là một đối tác. […] Và đó chính là tình yêu, phản chiếu một tia sáng của tình
yêu Thiên Chúa”[187]. Mỗi đứa trẻ có quyền được
hưởng tình yêu của một người mẹ và một người cha, cả hai tình yêu này đều cần
thiết cho trẻ để được trưởng thành toàn diện và hài hòa. Như các Giám mục Úc
châu đã khẳng định, cả hai “đóng góp, mỗi người một cách khác nhau, cho sự tăng
trưởng của trẻ. Tôn trọng phẩm giá của một đứa trẻ có nghĩa là khẳng định nhu cầu
và quyền tự nhiên của nó là có một người mẹ và một người cha”[188]. Vấn đề không chỉ là tình
yêu của người cha và của người mẹ xét cách riêng rẽ, mà còn là tình yêu của họ
dành cho nhau, vốn được coi như nguồn mạch của chính sự hiện hữu, như tổ ấm tiếp
nhận và như nền tảng của gia đình. Nếu không, đứa trẻ xem ra chỉ còn như là một
vật sở hữu được dùng tùy tiện. Cả người nam và người nữ, người cha và người mẹ
đều là “những người cộng tác với tình yêu Thiên Chúa Tạo Hóa và như thể họ là những
thông dịch viên của Ngài”[189]. Họ tỏ lộ cho con cái họ
dung mạo người mẹ và dung mạo người cha của 
Chúa. Hơn nữa, họ cùng dạy dỗ con cái về giá trị của sự hỗ tương, sự gặp
gỡ giữa những khác biệt, trong đó mỗi người đóng góp bản sắc riêng của mình và
cũng biết đón nhận từ người khác. Nếu vì một lý do bất khả kháng nào đó mà thiếu
vắng một trong hai người, thì điều quan trọng là tìm cách nào đó để bù đắp sự mất
mát, để đứa con được phát triển cách thích đáng cho tới trưởng thành.

173. Cảm giác bị mồ côi mà ngày nay nhiều trẻ em và thanh
thiếu niên cảm nghiệm sâu sa hơn những gì chúng ta nghĩ. Ngày nay chúng ta nhìn
nhận việc  người phụ nữ muốn học hành,
làm việc, phát triển các khả năng của mình và đeo đuổi những mục tiêu cá nhân,
là điều hoàn toàn chính đáng và đáng ca ngợi. Nhưng đồng thời chúng ta cũng
không thể bỏ qua những nhu cầu của trẻ em cần có sự hiện diện của người mẹ, đặc
biệt trong những tháng đầu tiên của cuộc sống. Thực tế là “người phụ nữ đứng
trước con người như một người mẹ, là chủ thể của sự sống con người mới được tượng
hình và lớn lên trong dạ bà và từ đó sinh ra”[190].Việc
giảm sút sự hiện diện của người mẹ cùng với phẩm chất nữ tính của họ là một
nguy cơ nghiêm trọng cho trái đất chúng ta. Tôi đánh giá cao phong trào nữ quyền
khi nó không đòi sự đồng dạng giữa người nam và người nữ, cũng không chối bỏ
thiên chức làm mẹ. Bởi lẽ sự cao cả của người nữ bao hàm mọi quyền lợi phát xuất
từ nhân phẩm bất khả nhượng cả từ nữ tính thiên bẩm của họ nữa,  vốn là điều rất thiết yếu cho xã hội. Những
khả năng đặc thù của nữ tính – cách riêng thiên chức làm mẹ – còn trao cho họ
các bổn phận, bởi vì là phụ nữ cũng là người mang một sứ mệnh đặc biệt trong thế
giới, sứ mệnh mà xã hội phải bảo vệ và giữ gìn vì lợi ích của mọi người[191].

174. Trong thực tế, “các bà mẹ là thuốc giải độc mạnh nhất
chống lại sự lan rộng của chủ nghĩa cá nhân ích kỉ […]. Chính họ là những người
làm chứng cho vẻ đẹp của sự sống”[192].
Chắc chắn rằng, “một xã hội mà không có các bà mẹ sẽ là một xã hội phi nhân, bởi
vì các bà mẹ luôn biết làm chứng về sự dịu dàng, dâng hiến, sức mạnh tinh thần
ngay cả trong những thời khắc tồi tệ nhất. Các bà mẹ cũng thường thông truyền
những ý nghĩa sâu xa nhất của việc đạo đức: trong những lời kinh nguyện, trong
các cử chỉ đạo đức đầu tiên để con trẻ học làm theo […]. Không có các bà mẹ,
không những sẽ không có tín hữu mới, mà đức tin có thể sẽ mất đi một phần lớn sự
nhiệt thành đơn sơ và sâu sắc của nó […]. Các bà mẹ rất thân mến, cám ơn, xin
cám ơn vì những gì mà các bà làm trong các gia đình và vì những gì mà các bà
làm cho Giáo Hội và thế giới”[193].

175. Người mẹ bảo bọc đứa con của mình bằng sự dịu dàng và cảm
thương sẽ giúp khơi dậy sự tin tưởng nơi con trẻ, đồng thời giúp nó cảm nhận thế
giới này là một nơi tốt lành tiếp nhận nó, điều này cho phép nó phát triển lòng
tự trọng hầu giúp nó có khả năng gần gũi và biết cảm thông. Đàng khác, người
cha giúp đứa trẻ nhận thức được các giới hạn của thực tế và chủ yếu mang tính định
hướng, để hướng ra thế giới rộng lớn hơn với đầy những thách đố, nhằm mời gọi con
biết nỗ lực và chiến đấu. Là người cha với một căn tính rõ ràng và hạnh phúc của
nam nhân, dung hợp được lòng thương mến và sự tiếp nhận của người vợ, ông cần
biết chăm sóc con cái như một người mẹ. Có những vai trò và nhiệm vụ uyển chuyển,
được thích nghi tùy theo hoàn cảnh cụ thể của mỗi gia đình, nhưng sự hiện diện
rõ ràng và xác thực của hai bộ mặt, người nữ và người nam, sẽ tạo nên môi trường
thích hợp nhất cho sự trưởng thành của trẻ.

176. Người ta nói rằng xã hội chúng ta là một “xã hội không
có những người cha”. Trong nền văn hóa tây phương, có lẽ khuôn mặt của người
cha bị thiếu vắng, hoặc bị méo mó, ẩn khuất. Ngay cả nam tính xem ra cũng đang
có vấn đề. Thực tế đang có một sự lẫn lộn ta có thể hiểu được. Bởi lẽ “lúc đầu,
điều này được xem như là một sự giải phóng: giải phóng khỏi một người cha như
chủ nhân ông, như kẻ đại diện của luật pháp áp đặt từ bên ngoài, như kẻ kiểm
duyệt hạnh phúc của con cái và là trở ngại cho sự giải phóng và tự lập của những
người trẻ. Đôi khi trong quá khứ nơi một số gia đình đã từng có tình trạng cai
trị độc đoán, một số trường hợp thậm chí còn có sự áp bức”[194].
Thế nhưng, “như thường vẫn xảy ra, là người ta đi từ cực đoan này đến cực đoan
khác. Vấn đề của thời đại ngày nay xem ra không còn chủ yếu là sự hiện diện độc
đoán của những người cha, mà là sự khiếm diện của họ, sự vắng mặt của họ. Những
người cha có khi như quá tập trung vào bản thân và công việc của mình đôi khi
vào những thành tựu cá nhân của họ, mà quên cả gia đình. Và họ bỏ mặc những đứa
trẻ và con cái bơ vơ một mình”[195]. Sự hiện diện và quyền
bính của người cha cũng bị ảnh hưởng bởi việc người ta dành thời gian ngày càng
nhiều cho việc sử dụng các phương tiện truyền thông và kĩ nghệ giải trí. Hơn nữa,
ngày nay quyền bính còn bị nhìn với ánh mắt ngờ vực và những người lớn thì bị đối
xử thiếu tôn trọng. Chính họ cũng thiếu xác tín kiên định và như vậy không cung
ứng được cho con cái những định hướng bảo đảm và có nền tảng chắc chắn. Việc
hoán đổi vai trò giữa cha mẹ và con cái là điều không lành mạnh: điều đó làm tổn
hại đến tiến trình trưởng thành thích đáng cần thiết của trẻ nhỏ và khước từ một
tình thương khả dĩ hướng dẫn chúng và giúp chúng trưởng thành[196].

177. Thiên Chúa đặt người cha trong gia đình để, với những
tính cách quí giá nam tính của mình, ông “gần gũi với người vợ, để chia sẻ mọi
sự, niềm vui cũng như đau khổ, vất vả cũng như hi vọng. Và để ông gần gũi với
con cái trong tiến trình chúng tăng trưởng: khi chúng chơi đùa và học hành, khi
chúng vô tư và lo lắng, khi chúng nói năng và im lặng, khi chúng dạn dĩ và sợ
hãi, khi chúng lầm đường lạc lối và tìm lại được hướng đi; luôn có sự hiện diện
của người cha. Nói ông hiện diện không có nghĩa nói ông kiểm soát. Bởi vì người
cha kiểm soát con cái chặt chẽ quá sẽ hủy hoại chúng”[197].
Một số người cha cảm thấy mình vô dụng hoặc không cần thiết, nhưng thật ra “con
cái cần thấy một người cha đang chờ đợi chúng khi chúng trở về sau những thất bại.
Có lẽ chúng sẽ làm mọi cách để không thừa nhận điều đó, không để cho ông thấy,
nhưng chúng cần ông”[198]. Trẻ em không có cha, cũng
có nghĩa là chúng bị tước mất tuổi thơ trước thời gian, và do đó là điều không
tốt.

178. Nhiều đôi vợ chồng không thể có con. Chúng ta biết điều
đó khiến họ rất đau khổ. Đàng khác, chúng ta cũng biết rằng “hôn nhân không phải
chỉ được thiết lập nhằm mục đích truyền sinh […]. Cho nên, ngay trong trường
hợp không có con như hằng tha thiết mong mỏi, hôn nhân vẫn tồn tại như một cuộc
sống chung và vẫn giữ được giá trị cùng đặc tính bất khả phân li của mình”[199]. Hơn nữa, “việc làm mẹ
không chỉ là một thực tại thuần túy sinh học, mà nó còn được thể hiện theo nhiều
cách thế khác nhau”[200].

179. Nhận con nuôi là một cách thức rất quảng đại để thực hiện
việc làm mẹ và làm cha, và tôi muốn khuyến khích những ai không thể có con hãy
giang rộng cánh tay và mở rộng tình yêu vợ chồng của mình để đón nhận những trẻ
em đang thiếu một gia đình xứng hợp. Họ sẽ không bao giờ hối tiếc vì đã quảng đại.
Nhận con nuôi là hành động của tình yêu trao ban một gia đình cho người không
có. Điều quan trọng là phải thúc đẩy việc làm luật sao cho những thủ tục nhận
con nuôi được dễ dàng, nhất là trong trường hợp những trẻ không được ước mong,
để ngăn chặn việc phá thai hoặc trẻ bị bỏ rơi. Những người đối mặt với thách đố
nhận con nuôi và đón nhận một con người cách vô điều kiện và vô vị lợi, họ trở
thành phương thế biểu lộ tình yêu Thiên Chúa, Đấng đã nói: “Cho dù người mẹ có
quên ngươi đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ (cf. Is 49,15).

180. “Việc chọn nhận con nuôi và nhận ủy thác chăm sóc trẻ
thể hiện một sự phong nhiêu đặc thù của kinh nghiệm vợ chồng, vượt trên hoàn cảnh
đau buồn vì vô sinh […]. Trước những hoàn cảnh trong đó người ta muốn có con
bằng mọi giá, như thể đó là một quyền để hoàn thiện bản thân mình, việc nhận
con nuôi và nhận ủy thác được hiểu cho đúng sẽ cho thấy một khía cạnh quan trọng
của thiên chức làm cha mẹ và làm con, việc đó giúp ta nhận ra rằng con cái, cả
con mình sinh ra cũng như con nuôi hoặc nhận uỷ thác, là một tha nhân khác bản
thân cha mẹ và chúng cần được đón nhận, được thương yêu, chăm sóc chứ không chỉ
cho chúng chào đời. Lợi ích của trẻ phải luôn là lí do ưu việt khởi động những
quyết định nhận con nuôi và nhận ủy thác nuôi dạy trẻ”[201].
Đàng khác, “nạn buôn bán trẻ em giữa các quốc gia và châu lục phải được ngăn chặn
bằng những can thiệp luật pháp đúng lúc và kiểm soát của Nhà nước”[202].

181. Cũng nên nhớ rằng sinh con và nhận con nuôi không phải
là những cách thế duy nhất để sống tình yêu phong nhiêu. Ngay cả những gia đình
nhiều con cũng được mời gọi ghi dấu của mình trong lòng xã hội nơi mình nhập cuộc,
để phát huy các dạng thức phong nhiêu khác như một sự nối dài của tình yêu đang
nâng đỡ gia đình. Các gia đình Kitô hữu không nên quên rằng “đức tin không tách
biệt chúng ta khỏi thế giới, nhưng hội nhập ta vào đó cách sâu xa hơn […]. Thật
vậy, mỗi người chúng ta có một vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị cho Nước
Chúa trị đến[203]. Gia đình không nên tự coi
mình như một nơi trú ẩn để giữ mình lánh xa xã hội. Đừng ở lì trong chờ đợi,
nhưng hãy đi ra khỏi chính mình và tìm cách sống tương trợ. Như thế, gia đình sẽ
trở thành một nơi hội nhập con người với xã hội và một điểm nối kết giữa đời sống
công cộng và riêng tư. Các đôi vợ chồng cần ý thức rõ ràng và xác tín về những
nghĩa vụ xã hội của họ. Ý thức như thế, tình yêu kết hợp họ chẳng những không
suy giảm, mà còn tràn ngập ánh sáng mới, như những vần thơ sau đây diễn tả:

“Tay anh âu yếm hồn em
ấm nồng,
Hòa điệu ngày dài đời
em an vui.

Em yêu anh lắm vì đôi
tay ấy
Kiến tạo công chính
đem đến hòa bình.

Em yêu anh lắm tình
yêu của em,
Anh là người tình, là
bạn đường và là tất cả,
Đi bên nhau, trên hành
trình dài
ta phong nhiêu không
chỉ là hai”[204]
.

182. Không gia đình nào phong nhiêu mà lại quá khác biệt hoặc
“tách biệt” với các các gia đình khác. Để tránh nguy cơ này, ta nên nhớ rằng
gia đình của Đức Giêsu, vốn đầy ân sủng và khôn ngoan, không được xem như một
gia đình “lạ lùng”, như một gia đình dân ngoại và sống xa cách dân chúng. Chính
vì thế mà người ta mới thấy khó khăn trong việc nhìn nhận sự khôn ngoan của Đức
Giêsu và nói: “Bởi đâu ông ấy được như thế? […] Ông ấy không phải là bác thợ
mộc, con bà Maria đó sao” (Mc 6,2-3).
“Ông không phải là con bác thợ mộc sao?” (Mt
13,55). Điều đó xác nhận rằng đây là một gia đình đơn sơ, gần gũi với tất cả mọi
người, sống một cuộc đời bình thường giữa dân chúng. Đức Giêsu cũng không lớn
lên trong mối tương quan khép kín và đơn độc chỉ với Mẹ Maria và Thánh Giuse,
nhưng Người sống vui vẻ trong gia đình lớn, nơi có bà con và bạn hữu. Chính vì
thế mà, trên đường trở về từ Giêrusalem, cha mẹ Người những tưởng rằng cậu bé
mười hai tuổi mất hút trong đoàn lữ hành suốt cả một ngày, vừa đi vừa nghe những
câu chuyện và chia sẻ những mối quan tâm của mọi người: “Ông bà cứ tưởng là cậu
về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường mới đi tìm kiếm” (Lc 2,44). Trái lại, đôi khi xảy ra sự việc
là có một số gia đình Kitô giáo, vì ngôn ngữ mà họ sử dụng, vì cách nói chuyện,
phong cách xử sự của họ, vì sự lặp đi lặp lại liên tục về hai ba vấn đề nào đó,
họ được coi là sống xa vời, như tách biệt khỏi xã hội, thậm chí chính bà con của
họ cảm thấy bị khinh miệt hoặc bị xét đoán.

183. Một đôi vợ chồng có kinh nghiệm về sức mạnh của tình
yêu biết rằng tình yêu ấy được mời gọi để chữa lành thương tích của những số phận
bị bỏ rơi, để xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ, để đấu tranh cho công lí. Thiên
Chúa đã ủy thác cho các gia đình kế hoạch làm cho thế giới này trở nên “gia
đình” hơn[205], để mọi người đều cảm thấy
mỗi người là anh em: “Nhìn sâu vào cuộc sống hằng ngày của con người, nam cũng
như nữ, ngày nay, ta thấy ngay một nhu cầu ở khắp mọi nơi về tinh thần gia
đình. […] Không chỉ những tổ chức đời sống cộng đồng ngày càng sa vào thái độ
quan liêu hoàn toàn xa lạ với tương quan cơ bản giữa người với người, mà ngay cả
những tập tục xã hội và chính trị cũng thường cho thấy có những dấu hiệu xuống
cấp[206]. Trái lại, có những gia
đình rộng mở cửa lòng và liên đới dành chỗ cho người nghèo, họ có khả năng xây
đắp tình bằng hữu với những người hèn kém hơn họ. Nếu thực sự quan tâm đến Tin
mừng, thì họ không thể quên những gì Đức Giêsu nói: “Mỗi lần các ngươi làm như
thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho
chính Ta vậy” (Mt 25,40). Xét cho
cùng, họ sống điều mà Người yêu cầu chúng ta một cách rất quyết liệt trong bản
văn này: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh
em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế
ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó,
tàn tật, què quặt, đui mù; và ông sẽ có phúc!” (Lc 14,12-14). Bạn sẽ được phúc! Đó chính là bí quyết của một gia
đình hạnh phúc.

184. Với việc làm chứng tá, và ngay cả bằng lời nói, các gia
đình nói về Chúa Giêsu cho những người khác, họ thông truyền đức tin, đánh thức
lòng khát khao về Thiên Chúa, và cho thấy vẻ đẹp của Tin mừng và lối sống mà
Tin mừng đề nghị. Như thế, các đôi vợ chồng Kitô hữu sơn lên màu xám của không
gian công cộng bằng màu sắc của tình huynh đệ, của mối quan tâm xã hội, của việc
bảo vệ những người yếu thế, của đức tin sáng ngời, và niềm hi vọng tích cực. Sự
phong nhiêu của họ lan tỏa và được tỏ lộ trong muôn ngàn cách để làm cho tình
yêu của Thiên Chúa được thể hiện trong xã hội.

185. Theo hướng đó cũng nên xem xét thật nghiêm túc một bản
văn Thánh Kinh mà người ta thường giải thích bên ngoài bối cảnh của nó, hoặc giải
thích nó một cách chung chung, bởi thế người ta có thể bỏ qua ý nghĩa tức thời
và trực tiếp nhất của nó, một ý nghĩa rõ ràng mang tính xã hội. Đó là đoạn 1 Cr 11,17-34, trong đó thánh Phaolô đề cập
đến một tình huống đáng hổ thẹn của cộng đoàn. Trong bối cảnh ấy, một số người
giàu có xu hướng kì thị người nghèo, điều này xảy ra ngay cả trong khi người ta
gặp gỡ đồng bàn trong một bữa ăn huynh đệ kèm theo việc cử hành Thánh Thể.
Trong khi những người giàu thưởng thức các món ăn ngon của họ, thì những người
nghèo chỉ đứng nhìn với cái bụng đói: “và như thế, kẻ thì đói, người lại say.
Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội thánh của Thiên
Chúa và làm nhục những người không có của?” (cc. 21-22).

186. Thánh Thể đòi hỏi chúng ta phải là chi thể hội nhập vào
một thân thể Hội thánh duy nhất. Người thông dự vào Mình và Máu Chúa Kitô không
thể đồng thời lại xúc phạm đến cũng Thân Thể ấy qua sự chia rẽ bè phái và phân
biệt đối xử giữa các chi thể của Thân mình. Thật vậy, ta cần biết “phân định”
Thân Mình của Chúa, nhận ra Thân Mình ấy bằng đức tin và đức ái trong các dấu
chỉ bí tích cũng như trong cộng đoàn, nếu không thì ta ăn và uống án phạt mình
(cf. c. 29). Bản văn Thánh Kinh này là một lời cảnh báo nghiêm túc cho các gia
đình sống khép kín trong tiện nghi riêng biệt và tự cô lập mình, đặc biệt hơn
cho các gia đình vẫn còn vô cảm trước những đau khổ của các gia đình nghèo và
túng quẫn nhất. Như thế việc cử hành Thánh Thể trở thành một lời kêu gọi mỗi
người không ngừng “tự xét mình” (c. 28), để mở những cánh cửa của gia đình mình
ra hướng đến hiệp thông rộng lớn hơn với những người bị xã hội loại trừ và như
vậy mới thực sự lãnh nhận Bí tích Thánh Thể, là Bí tích của tình yêu làm cho
chúng ta nên một thân mình duy nhất. Đừng quên rằng «“cái thần bí” của Bí tích
có đặc tính xã hội»[207]. Ai hiệp lễ (rước lễ) mà
không để cho mình được thôi thúc như một nghĩa vụ đến với người nghèo và người
đau khổ, hoặc thông đồng với các hình thức khác nhau của chia rẽ, khinh miệt và
bất công, thì người ấy đã nhận lãnh Thánh Thể một cách bất xứng. Ngược lại, các
gia đình được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể với một ước muốn chính đáng, thì việc
khát khao tình huynh đệ, ý thức xã hội và sự dấn thân đi với người nghèo của họ
càng được gia tăng.

187. Gia đình nhỏ không nên cô lập mình khỏi gia đình mở rộng,
nơi có cha mẹ, chú bác, cô dì, anh chị em họ và cả người láng giềng. Trong gia
đình rộng lớn ấy, có thể có những ai đó cần được giúp đỡ hoặc ít là cần đồng
hành và cần nhận được những cử chỉ yêu thương, hoặc có thể có những người đang
chịu nhiều đau khổ cần được ủi an[208].
Ngày nay chủ nghĩa cá nhân đôi khi dẫn ta đến lối sống khép kín trong sự an
toàn của một tổ ấm bé nhỏ và cảm thấy tha nhân như một phiền toái nguy hiểm. Thế
nhưng, sự cô lập này không đem lại niềm an bình và hạnh phúc, mà khép kín con
tim của gia đình và làm cho gia đình mất đi tầm nhìn rộng lớn của cuộc sống.

188. Trước hết, chúng ta nói về cha mẹ ruột của chúng ta. Đức
Giêsu nhắc lại cho những người Pharisiêu rằng việc bỏ rơi cha mẹ là trái với Luật
của Thiên Chúa (Mc 7,8-13). Mọi người
chúng ta đều phải ý thức mình là con. Trong mỗi con người, “cho dẫu đã trở
thành người lớn, hay cao niên, cho dẫu đã làm cha làm mẹ, nếu như có mang một
chức trách nào đó, thì bên dưới tất cả các vai trò ấy vẫn còn căn tính của người
con. Tất cả chúng ta đều là con. Và điều này luôn dẫn ta trở lại với sự thực,
đó là sự sống không phải là cái chúng ta đã trao ban nhưng là cái chúng ta đã
được lãnh nhận. Tặng phẩm sự sống vĩ đại là món quà đầu tiên chúng ta đã nhận
được”[209].

189. Vì vậy, “điều răn thứ tư đòi buộc con cái […] phải thảo
kính cha mẹ (cf. Xh 20,12). Điều răn
này đứng liền ngay sau những điều răn liên quan đến chính Thiên Chúa. Thật vậy,
nó hàm ẩn một điều gì đó thánh thiêng, một cái gì đó thần linh, một cái gì đó
thuộc cội rễ của mọi hình thức tôn kính khác giữa loài người với nhau. Và biểu
thức Kinh thánh về điều răn thứ tư còn nói thêm: “để ngươi được sống lâu trên đất
mà Chúa là Thiên Chúa của ngươi sẽ ban cho ngươi”. Mối liên kết đạo đức giữa
các thế hệ là một bảo đảm cho tương lai, và là bảo đảm cho một lịch sử thật sự
nhân bản. Một xã hội mà trong đó con cái không tôn kính cha mẹ là một xã hội
không đáng kính […]. Đó là một xã hội sẽ gồm toàn những người trẻ cằn cỗi và
tham lam”[210].

190. Nhưng còn có mặt kia của vấn đề: “người đàn ông sẽ lìa
bỏ cha mẹ mình” (St 2,24), Lời Chúa
khẳng định như vậy. Điều đó đôi khi người ta không làm được trong thực tế, và
hôn nhân không được đảm nhận cho đến cùng vì nó không chu toàn việc lìa bỏ và tận
hiến ấy. Không được bỏ rơi hay quên lãng cha mẹ, thế nhưng, để kết hợp trong
hôn nhân thì phải rời khỏi họ, để làm sao cho tổ ấm mới thực sự là một nơi cư
ngụ, một nơi an trú, là nền tảng và là dự phóng, và để có thể thực sự trở nên
“một xương một thịt” (ibid.). Trong một
số cuộc hôn nhân người ta  giấu vợ hoặc
chồng của mình nhiều chuyện, nhưng lại tâm sự với mẹ cha, như thế là coi trọng
ý kiến của cha mẹ hơn là tình cảm và ý kiến của người phối ngẫu. Người ta chỉ
có thể tạm thời và không dễ kéo dài tình trạng này lâu được, trong khi phải xây
dựng sự tin tưởng nhau và đối thoại với nhau nhiều hơn nữa. Hôn nhân thách thức
ta tìm một cách thế mới để sống phận làm con cái.

191. “Xin đừng sa thải con lúc tuổi đà xế bóng, chớ bỏ rơi
khi sức lực suy tàn” (Tv 71,9). Đó là
tiếng kêu van của người cao tuổi lo sợ bị lãng quên và coi khinh. Như thể Thiên
Chúa kêu gọi chúng ta trở nên khí cụ của Ngài để lắng nghe những lời kêu xin của
người nghèo, Ngài cũng chờ đợi chúng ta lắng nghe tiếng kêu cứu của những người
tuổi cao sức tàn[211]. Điều này chất vấn các gia
đình và các cộng đoàn, vì “Hội thánh không thể và không muốn đi theo một tâm thức
vô cảm, hay dửng dưng và khinh miệt, đối với tuổi già. Chúng ta phải đánh động
cảm thức tập thể về lòng biết ơn, quí trọng, hiếu khách, làm cho những người
cao niên cảm thấy mình là một thành phần sống động trong cộng đoàn. Người cao
niên là những người nam và người nữ, là những người cha và người mẹ, đã từng đi
trước chúng ta trên cùng một con đường, sống trong cùng một ngôi nhà của chúng
ta, chiến đấu trong cùng một cuộc chiến hằng ngày của chúng ta hầu mưu tìm một
cuộc sống xứng đáng[212]. Bởi thế, “như tôi muốn một
Hội thánh thách thức nền văn hóa đào thải bởi một niềm vui tràn trề qua vòng
tay mới mẻ ôm chặt giữa người trẻ và người già!”[213].

192. Thánh Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta chú ý đến chỗ đứng
của người già trong gia đình, bởi lẽ có những nền văn hóa, “do hậu quả của sự
phát triển kĩ nghệ và đô thị một cách vô trật tự, đã và vẫn còn tiếp tục đẩy
người cao niên vào những hoàn cảnh sống bên lề không thể chấp nhận được”[214]. Những người cao niên giúp
ta nhận thức “tính liên tục giữa các thế hệ” với “đặc sủng xóa bỏ hố phân cách”[215]. Nhiều lần chính các ông
bà đảm bảo việc truyền đạt các giá trị lớn lao cho các con cháu mình và “nhiều
người có thể nhận thấy chính ông bà đã khai tâm đời sống đức tin cho mình”[216]. Lời lẽ của các ngài, những
sự âu yếm của các ngài hay chỉ với sự hiện diện của các ngài cũng đã giúp các
em nhận ra rằng lịch sử không bắt đầu từ nơi chúng, và chúng là những người thừa
kế của một cuộc hành trình dài và cần phải tôn trọng hậu cảnh là những gì đến
trước chúng ta. Những ai phá vỡ mối liên kết với lịch sử sẽ gặp khó khăn khi muốn
dệt nên các tương quan ổn định và cũng khó nhìn nhận rằng họ không phải là những
ông chủ của thực tại. Do đó, “sự quan tâm đến người cao niên làm nên nét khác
biệt của một nền văn minh. Liệu trong một nền văn minh người ta có quan tâm đến
người già không? Có chỗ cho người già không? Nền văn minh này sẽ tiến bộ nếu biết
tôn trọng sự khôn ngoan, sự khôn ngoan của những người cao niên”[217].

193. Thiếu kí ức lịch sử là một khiếm khuyết nghiêm trọng của
xã hội chúng ta. Nghĩ rằng “mọi sự đã qua rồi” là một tâm thức thiếu trưởng
thành. Biết và có thể nhận định trước những biến cố đã qua là khả năng duy nhất
để xây dựng một tương lai có ý nghĩa. Không thể giáo dục mà không có kí ức:
“Xin anh em nhớ lại những ngày đầu” (Dt
10,32). Những câu chuyện của các cụ rất tốt cho trẻ em và người trẻ, vì họ đặt
chúng trong mối liên hệ với lịch sử đã sống của gia đình hay của thôn làng và đất
nước. Một gia đình mà thiếu kính trọng và chăm sóc ông bà, vốn là kí ức sống động
của mình, sẽ là một gia đình rời rã; ngược lại, một gia đình mà còn nhắc nhớ (đến
quá khứ) là gia đình có tương lai. Bởi thế, “trong một nền văn minh mà không có
chỗ cho người cao niên hoặc người cao niên bị loại bỏ vì tạo ra vấn đề, thì xã
hội đó đã nhiễm vi khuẩn sự chết”[218],
ngay từ lúc “bị nhổ khỏi cội rễ của mình”[219].
Hiện tượng của ngày nay, đó là, người ta cảm thấy mồ côi vì không còn sự kế tục
giữa các thế hệ, bị mất gốc và thiếu niềm tin vốn cho ta sức sống, thách thức
chúng ta phải làm cho gia đình mình trở thành một nơi, trong đó trẻ con có thể
bén rễ sâu vào thửa đất của lịch sử cộng thể.

194. Theo dòng thời gian, tương quan giữa anh chị em sẽ ngày
càng sâu đậm hơn, và “mối liên kết huynh đệ hình thành giữa con cái trong gia
đình, nếu được triển nở trong một bầu khí giáo dục mở ra với những người khác,
sẽ là trường học lớn dạy sống tự do và hòa bình. Trong gia đình, anh chị em học
sống chung với nhau cuộc sống làm người […]. Có lẽ chúng ta không luôn ý thức,
nhưng chính gia đình là nơi dẫn dắt tình huynh đệ vào trong thế giới! Từ kinh
nghiệm đầu tiên này về tình huynh đệ, được nuôi dưỡng bởi tình thương và giáo dục
gia đình, lối sống nghĩa huynh đệ chiếu tỏa như một lời hứa hẹn trên toàn xã hội”[220].

195. Quãng đời lớn lên giữa anh chị em cho ta một kinh nghiệm
tuyệt vời về việc chăm sóc lẫn nhau, qua sự giúp đỡ và được giúp đỡ. Bởi thế,
“tình huynh đệ trong gia đình tỏa sáng cách đặc biệt khi chúng ta thấy những sự
quan tâm, những ứng xử kiên nhẫn, những tình cảm thương yêu của anh chị vây bọc
các em nhỏ yếu đuối nhất, lúc ốm đau hoặc mang khuyết tật”[221].
Phải nhìn nhận rằng “có một anh em trai, một chị em gái thương yêu mình, là một
kinh nghiệm mạnh mẽ, vô giá, không gì thay thế được”[222],
tuy nhiên, cần phải kiên nhẫn dạy cho con cái đối xử với nhau như anh chị em.
Công cuộc đào tạo thực hành như vậy, đôi khi mệt nhọc đấy nhưng thực sự là một
trường dạy về tính xã hội. Tại một số nước tồn tại một xu hướng mạnh mẽ đó là mỗi
gia đình chỉ có một con, thì kinh nghiệm tình anh em một nhà bắt đầu ít phổ biến.
Trong trường hợp không thể có nhiều hơn một đứa con, ta sẽ phải tìm cách bảo đảm
đứa trẻ không lớn lên đơn độc hoặc bị cô lập.

196. Ngoài tổ ấm nhỏ của đôi vợ chồng và con cái, còn có gia
đình mở rộng mà ta không thể bỏ qua. Thật vậy, “tình yêu giữa người nam và người
nữ trong hôn nhân, từ đó mở rộng ra hơn, tình yêu thương giữa các thành viên
trong cùng một gia đình – giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em, giữa bà
con họ hàng thân thuộc – nhận được hồn sống và sự nâng đỡ bởi một sức năng động
nội tại đưa dẫn gia đình đến một tình hiệp thông mỗi lúc một sâu xa và đậm đà
hơn, làm nền tảng và nguyên lí cho cộng đoàn hôn nhân và gia đình”[223]. Trong khung cảnh ấy còn
có các bạn hữu và các gia đình thân hữu, và cả những cộng đoàn gia đình hỗ trợ
lẫn nhau trong những lúc khó khăn, trong những dấn thân xã hội và trong đức
tin.

197. Gia đình lớn này nên tiếp đón các thiếu nữ lầm lỡ, các
trẻ không cha không mẹ, những bà mẹ đơn thân một mình nuôi dạy con cái, những
người khuyết tật thiếu thốn tình thương và sự gần gũi đặc biệt, những người trẻ
đang chiến đấu để thoát khỏi nghiện ngập, những người độc thân, li dị hoặc góa
bụa đang chịu cảnh sống cô độc, những người già yếu và bệnh tật không con cái đỡ
nâng, và cũng đón tiếp “thậm chí cả những người bất hạnh nhất bởi lối sống thiếu
đạo đức của họ”[224]. Gia đình lớn cũng có thể
giúp đỡ bù đắp cho sự yếu kém của các cha mẹ, hoặc khám phá và tố cáo kịp thời
những hoàn cảnh khả dĩ xảy ra bạo lực hoặc việc trẻ em bị lạm dụng, qua sự tỏ
bày một tình thương lành mạnh và đỡ đần thân ái khi cha mẹ chúng không thể bảo
đảm điều đó.

198. Sau hết, chúng ta không thể quên rằng trong gia đình lớn
này còn có cả cha mẹ và tất cả bà con họ hàng của người bạn đời. Một sự tế nhị
riêng của tình yêu là tránh nhìn họ như những đối thủ cạnh tranh, như những con
người nguy hiểm, như những kẻ xâm lấn. Sự hợp nhất vợ chồng đòi phải tôn trọng
những phong tục và tập quán của họ, cố tìm hiểu ngôn ngữ của họ, hạn chế những
lời chỉ trích, quan tâm đến họ và một cách nào đó mang họ vào trong trái tim của
mình, ngay cả khi ta phải giữ gìn sự độc lập chính đáng và sự riêng tư của hai
vợ chồng. Những thái độ ấy cũng là cung cách tinh tế ta bày tỏ sự quảng đại dấn
thân đầy yêu thương đối với người bạn đời của mình.

199. Các cuộc đối thoại trong suốt thời gian Thượng Hội đồng
đã khơi lên nhu cầu cần  phát triển những
đường hướng mục vụ mới, mà giờ đây tôi sẽ cố gắng tóm lược một cách tổng quát.
Chính các cộng đoàn khác nhau sẽ phải khai triển những đề nghị thiết thực và hiệu
quả hơn, lưu ý đến cả giáo huấn của Hội thánh cũng như các nhu cầu và thách đố
tại địa phương. Ở đây tôi không nhằm giới thiệu một mục vụ gia đình, mà chỉ có
ý định giới hạn vào việc thâu thập một vài thách đố mục vụ chính yếu.

200. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng nhấn mạnh rằng các gia
đình Kitô hữu, nhờ ân sủng của Bí tích Hôn nhân, là chủ thể chính của mục vụ
gia đình, nhất là khi họ cống hiến “chứng tá đầy hoan lạc của đôi vợ chồng và của
gia đình, Hội thánh tại gia”[225]. Bởi thế, các ngài nhấn mạnh
rằng “điều quan trọng là làm cho người ta cảm nghiệm được Tin mừng gia đình là
một niềm vui “đầy ắp tâm hồn và cả cuộc sống của họ”, vì trong Đức Kitô, chúng
ta được “giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô độc” (Evangelii Gaudium, 1). Dưới ánh sáng của
dụ ngôn người gieo giống (cf. Mt
13,3-9), nhiệm vụ của chúng ta là hợp tác trong việc gieo trồng: phần còn lại
là công trình của Thiên Chúa. Chúng ta cũng không được quên việc Hội thánh rao
giảng về gia đình là một dấu hiệu cho sự mâu thuẫn”[226],
nhưng các đôi vợ chồng cảm kích các Mục tử vì đã cho họ những lí do để can đảm
đặt cược vào một tình yêu mãnh liệt, chắc chắn, vững bền, có khả năng đối phó với
tất cả những gì gặp trên đường đời. Hội thánh muốn đến với các gia đình trong sự
cảm thông khiêm tốn, và ước muốn của Hội thánh là “đồng hành với mỗi gia đình
và mọi gia đình để họ có thể khám phá ra cách tốt nhất để vượt qua những khó
khăn mà họ gặp phải trên hành trình của họ”[227].
Không phải chỉ đưa vào các kế hoạch mục vụ lớn lao với mối bận tâm chung chung
đối với gia đình là đủ. Để các gia đình có thể mỗi lúc một trở nên là chủ thể
tích cực của mục vụ gia đình hơn nữa, đòi hỏi ta phải có “một nỗ lực loan báo
Tin mừng và huấn giáo hướng vào trong chính gia đình”[228],
theo định hướng này.

201. “Vì thế, toàn thể Hội thánh cần có một sự hoán cải truyền
giáo: không được chỉ dừng lại ở việc loan báo hoàn toàn có tính lí thuyết và xa
rời thực tế với những vấn đề của con người”[229].
Mục vụ gia đình “phải làm cho người ta cảm thấy được rằng Tin mừng về gia đình
đáp ứng những mong đợi sâu xa nhất của con người: phẩm giá của con người và sự
thực hiện viên mãn trong tinh thần tương trợ, hiệp thông và phong nhiêu. Vấn đề
không chỉ là giới thiệu các luật lệ, nhưng là đề xuất các giá trị đáp ứng nhu cầu
thiết thực của con người ngày nay, ngay cả trong các nước bị tục hóa nhiều nhất[230]. Ngoài ra, các Nghị phụ
“cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc loan báo Tin mừng thẳng thắn vạch trần
những nhân tố văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế nào (chẳng hạn như vai trò
quá lớn người ta gán cho logic thị trường, chẳng hạn) ngăn cản cuộc sống gia
đình thật sự, dẫn đến sự phân biệt đối xử, nghèo đói, loại trừ và bạo lực. Vì
thế, cần phát triển  đối thoại và hợp tác
với các tổ chức xã hội, và khuyến khích và hỗ trợ các giáo dân đang nỗ lực dấn
thân, với tư cách là Kitô hữu, trong lãnh vực văn hóa và xã hội-chính trị”[231].

202. “Sự góp phần chính yếu cho mục vụ gia đình là từ nơi
giáo xứ, như một gia đình của các gia đình, giáo xứ kết hợp hài hòa các đóng
góp của các cộng đoàn nhỏ, các phong trào và các hiệp hội của Hội thánh”[232]. Cùng với một mục vụ
chuyên biệt hướng đến các gia đình, chúng ta thấy cũng cần có một “công cuộc
đào tạo phù hợp hơn cho các linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ, các giáo lý viên và
các tác viên mục vụ khác”[233] . Các phúc đáp cho việc
tham khảo ý kiến được gửi đến toàn thế giới nêu lên nhận định rằng các thừa tác
viên có chức thánh thường được đào tạo thiếu phù hợp để đối phó với các vấn đề
phức tạp hiện nay của gia đình. Theo hướng đó, kinh nghiệm của truyền thống
Đông phương lâu đời về việc linh mục kết hôn cũng có thể hữu ích.

203. Các chủng sinh cần được đào tạo rộng hơn theo liên
ngành về mục vụ chuẩn bị hôn nhân và hôn nhân, chứ không chỉ đơn thuần về lí
thuyết. Hơn nữa, việc đào tạo không luôn cho phép họ bày tỏ thế giới tâm lí
tình cảm của họ. Một số chủng sinh mang trong mình kinh nghiệm của một gia đình
bị thương tích, không có cha hoặc mẹ, với tình trạng cảm xúc thiếu ổn định. Cần
bảo đảm một chương trình đào tạo giúp các thừa tác viên tương lai trưởng thành
có được sự quân bình tâm lí do nhiệm vụ đòi hỏi. Các mối liên hệ trong gia đình
là nền tảng để củng cố lòng tự trọng lành mạnh của các chủng sinh. Bởi thế, để
giúp họ kiên vững trong thực tế thì việc đồng hành của các gia đình trong suốt
quá trình chủng viện và đời linh mục là rất quan trọng. Theo nghĩa đó, nên có sự
kết hợp giữa thời gian trong chủng viện với những thời gian khác trong giáo xứ,
điều đó giúp họ tiếp xúc nhiều hơn với thực tế cụ thể của các gia đình. Quả thật,
suốt cuộc đời mục vụ linh mục gặp gỡ các gia đình nhiều nhất. “Sự hiện diện của
giáo dân và gia đình, đặc biệt là sự hiện diện của người nữ trong việc đào tạo
linh mục, giúp họ biết quí trọng sự đa dạng và bổ túc của nhiều ơn gọi khác nhau
trong Hội thánh”[234].

204. Các phúc đáp cho việc tham khảo ý kiến cũng bày tỏ cách
tha thiết về sự cần thiết phải đào tạo tác viên giáo dân của mục vụ gia đình với
sự giúp đỡ của các nhà tâm lí giáo dục, bác sĩ gia đình, bác sĩ cộng đồng, nhân
viên xã hội, luật sư cho trẻ em và gia đình, với tinh thần cởi mở đón nhận sự
đóng góp của các khoa tâm lí học, xã hội học, tính dục học và cả khoa tham vấn
(counseling). Các nhà chuyên môn, đặc
biệt là những người có kinh nghiệm đồng hành, giúp thể hiện các hướng dẫn mục vụ
trong những hoàn cảnh thực tế và những bận tâm cụ thể của gia đình. “Các chương
trình và các khóa đào tạo dành riêng cho các tác tiên mục vụ có thể đào tạo cho
họ có khả năng đưa chương trình chuẩn bị hôn nhân hòa nhập vào đời sống năng động
rộng lớn hơn của Hội thánh”[235]. Một sự chuẩn bị mục vụ tốt
là điều rất quan trọng “ngay cả đối với các tình huống khẩn cấp đặc biệt do bạo
hành trong gia đình và lạm dụng tình dục”[236].
Tất cả những điều đó không hề làm suy giảm, mà còn bổ túc thêm giá trị nền tảng
của việc linh hướng, của các nguồn mạch thiêng liêng vô giá của Hội thánh và của
bí tích Hòa Giải.

205. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã khẳng định bằng nhiều
cách khác nhau rằng cần giúp các bạn trẻ khám phá giá trị và sự phong phú của
hôn nhân[237]. Họ phải nhận ra được sự hấp
dẫn của một kết hợp trọn vẹn, một kết hợp nâng cao và kiện toàn chiều kích xã hội
của cuộc sống, mang lại cho tính dục ý nghĩa cao trọng nhất của nó, và đồng thời
cổ võ thiện ích của con cái và tạo cho chúng hoàn cảnh tốt nhất để được trưởng
thành và giáo dục.

206. “Thực tại xã hội phức tạp và những thách đố mà ngày nay
các gia đình đang phải đối diện đòi hỏi toàn thể cộng đoàn Kitô hữu dấn thân
hơn nữa trong việc chuẩn bị cho các đôi bạn sắp kết hôn. Cần nhớ tầm quan trọng
của các nhân đức. Trong số đó đức khiết tịnh là điều kiện quí báu cho sự tăng
trưởng đích thật của tình yêu liên vị. Về sự cần thiết này, các Nghị phụ Thượng
Hội đồng đã đồng ý nhấn mạnh đến đòi hỏi phải có sự tham gia nhiều hơn của cả cộng
đoàn, đặc biệt là đời sống chứng tá của chính các gia đình, cũng như có một nền
tảng chuẩn bị hôn nhân trong hành trình khai tâm Kitô giáo, bằng việc nhấn mạnh
đến mối quan hệ hôn nhân với Bí tích Rửa tội và các bí tích khác. Đồng thời
cũng rõ ràng là cần phải có các chương trình đặc biệt để chuẩn bị gần cho việc
kết hôn, đây thật là một kinh nghiệm thật sự tham dự vào đời sống của Hội thánh
và để đôi bạn có cơ hội đào sâu hơn những khía cạnh khác nhau của đời sống gia đình”[238].

207. Tôi mời gọi các cộng đoàn Kitô hữu hãy nhận biết rằng
việc đồng hành với những người đính hôn trong hành trình tình yêu của họ là một
việc thiện ích cho chính họ. Như các Giám mục Ý đã nói rất đúng rằng những người
kết hôn, đối với cộng đoàn Kitô hữu, là “một nguồn tài nguyên quí giá vì, trong
khi chân thành dấn thân lớn lên trong tình yêu và tự hiến cho nhau, họ có thể
góp phần đổi mới chính tấm áo dệt nên toàn bộ thân thể Hội thánh: một hình thức
đặc biệt của tình bạn mà họ đang sống có thể trở thành mẫu dễ làm lan tỏa, và
làm tăng trưởng tình thân hữu và huynh đệ trong cộng đoàn Kitô hữu mà họ thuộc
về”[239]. Có nhiều cách thức hợp
pháp để tổ chức việc chuẩn bị gần cho hôn nhân, và mỗi Hội thánh địa phương sẽ
phân định thế nào là cách tốt nhất, nhờ bảo đảm một sự huấn luyện phù hợp đồng
thời không làm cho các bạn trẻ xa rời bí tích. Không cần phải truyền đạt cho họ
toàn bộ Giáo lí, cũng không đưa ra cho họ quá nhiều chủ đề. Thật vậy, cả trong
trường hợp này, quả đúng là “không phải biết nhiều mà làm no thỏa linh hồn,
nhưng là cảm và nếm thực tại trong tâm hồn”[240].
Cần quan tâm đến chất lượng hơn là số lượng, và phải dành ưu tiên – cùng với việc
loan báo Tin mừng kerygma cách mới mẻ
– cho nội dung, nếu được truyền đạt cách hấp dẫn và sâu sắc, sẽ giúp họ dấn
thân vào hành trình trọn cuộc đời “với cả trái tim và lòng quảng đại”[241]. Điều quan trọng là “con
đường khai tâm” vào Bí tích Hôn nhân khả dĩ cung cấp cho họ những yếu tố cần
thiết để có thể lãnh nhận bí tích ấy với những điều kiện tốt nhất và khởi đầu
cuộc sống gia đình một cách vững chắc.

208. Hơn nữa, cũng nên tìm ra những phương thế, thông qua
các gia đình truyền giáo, các gia đình của chính những người đính hôn và các
nguồn lực mục vụ khác, để thực hiện một sự chuẩn bị từ xa, khả dĩ giúp cho tình
yêu của họ trưởng thành bằng một sự đồng hành gần gũi và chứng từ phong phú.
Thường thì rất hữu ích nếu qui tụ được các nhóm bạn đang thời kì đính hôn và đề
nghị các buổi nói chuyện chuyên đề dựa trên một vài chủ đề khác nhau mà người
trẻ thực sự quan tâm. Tuy nhiên, không thể thiếu một vài thời điểm riêng tư, với
mục đích chính yếu là để giúp mỗi người học cách yêu thương con người cụ thể
này, con người mà người đó muốn chia sẻ cả cuộc đời. Học yêu thương một ai đó
không phải là một cái gì bất ngờ, cũng không thể là mục tiêu của một khóa học
ngắn hạn trước khi cử hành hôn phối. Thực ra, mỗi người đều chuẩn bị cho cuộc
hôn nhân ngay từ lúc sinh ra. Tất cả những gì nhận được từ gia đình cho phép
người ta học được cái gì đó từ chính lịch sử của mình và làm cho họ có khả năng
cam kết trọn vẹn và dứt khoát. Có lẽ những người được chuẩn bị kết hôn tốt nhất
là những người đã học được từ chính cha mẹ mình thế nào là một hôn nhân Kitô
giáo, trong đó cả hai người chọn nhau vô điều kiện và tiếp tục làm mới lại quyết
định đó mỗi ngày. Theo hướng đó, tất cả các hoạt động mục vụ nhằm giúp các đôi
vợ chồng lớn lên trong tình yêu thương và sống Tin mừng trong gia đình, đều là
sự giúp đỡ vô giá để con cái họ tự chuẩn bị cho cuộc sống hôn nhân tương lai của
mình. Cũng đừng quên những đóng góp quý giá của mục vụ đại chúng. Để lấy một ví
dụ đơn giản, tôi nhớ đến ngày lễ thánh Valentinô, mà trong một số nước ngày lễ
này được giới kinh doanh khai thác tốt hơn là sự sáng tạo của các mục tử.

209. Việc chuẩn bị cho những người đã chính thức đính hôn,
khi cộng đoàn giáo xứ có thể đồng hành với họ từ trước, cũng cần giúp họ nhận
biết những vấn đề và những rủi ro có thể có. Bằng cách đó, người ta có thể nhận
ra là sẽ không khôn ngoan nếu cứ tiếp tục đầu tư vào mối quan hệ đó, tránh
không để mình rơi vào một thất bại có thể thấy trước với những hậu quả rất đau
lòng. Vấn đề là trong cái rực rỡ của tình yêu thuở ban đầu người ta hay tìm
cách che giấu hoặc tương đối hóa rất nhiều chuyện, tránh né không để xảy ra những
bất đồng, và như thế chỉ là cố xua đẩy ra phía trước những khó khăn thôi. Các
đôi bạn đính hôn cần được khuyến khích và giúp đỡ để có thể bày tỏ những gì mỗi
người mong đợi nơi cuộc hôn nhân sắp tới, hiểu thế nào về tình yêu và sự cam kết,
mong muốn gì ở nhau, muốn cùng nhau xây dựng một lối sống chung như thế nào. Những
cuộc thảo luận như thế có thể giúp họ thấy trong thực tế họ có rất ít các điểm
chung, và thấy rằng sự hấp dẫn nhau thôi sẽ không đủ để kết hợp với nhau. Không
có gì bấp bênh, mong manh và bất ngờ cho bằng sự ham muốn, và chúng ta không
bao giờ nên khuyến khích một quyết định kết hôn nếu họ không tìm thấy những lí
do sâu xa khác khả dĩ bảo đảm giao ước ấy là thật sự và bền vững.

210. Trong bất kì trường hợp nào, nếu người này nhận ra rõ
ràng các điểm yếu của người kia, thì người ấy cần tin tưởng cách thực tế vào khả
năng có thể giúp người kia phát triển điểm tốt nhất của bản thân họ để cân bằng
với đối trọng là những khuyết điểm của họ, với mục đích kiên quyết là thăng tiến
con người. Điều đó hàm ý chấp nhận với cả quyết tâm khả năng phải đương đầu trước
một vài hi sinh từ bỏ, những lúc gian nan và tình huống xung đột, và quyết tâm
vững vàng sẵn sàng cho việc này. Phải nhận ra được các dấu hiệu cảnh báo nguy
cơ có thể có về mối quan hệ, để trước khi kết hôn họ tìm thấy phương thế giúp đối
mặt với chúng cách thành công. Thật đáng tiếc, nhiều người đến ngày thành hôn
mà vẫn chưa biết nhau. Họ chỉ vui chơi với nhau, đã có những kinh nghiệm với
nhau, nhưng chưa đối đầu trước thách đố thể hiện chính mình và học biết người
kia thực sự là ai.

211. Việc chuẩn bị gần cũng như việc đồng hành lâu dài phải
làm sao cho đôi bạn không xem việc cưới nhau xong là chấm dứt cuộc hành trình,
nhưng xem hôn nhân như một ơn gọi đưa họ tiến về phía trước, với một quyết tâm
chắc chắn và thực tế cùng nhau vượt qua mọi thử thách và khó khăn. Mục vụ tiền
hôn nhân và mục vụ hôn nhân trước hết phải là một mục vụ của hôn ước, mang lại
các yếu tố giúp cho tình yêu đôi bạn trưởng thành và vượt qua những lúc gian
nan. Việc đó không chỉ là truyền cho họ những xác tín về đạo lí, cũng không thể
giản lược vào các nguồn linh đạo quí giá mà Hội thánh luôn cống hiến, nhưng còn
phải có những chương trình thực tế, những lời khuyên được đem ra áp dụng, các
chiến lược rút ra từ kinh nghiệm, hướng dẫn tâm lí. Tất cả những điều này làm
nên một đường lối sư phạm của tình yêu không thể bỏ qua sự nhạy cảm hiện nay của
người trẻ, để có thể động viên họ từ bên trong. Đồng thời, trong khi chuẩn bị
cho những người đính hôn, chúng ta cần chỉ cho họ những nơi chốn và con người, những
nhà tham vấn hoặc những gia đình sẵn sàng giúp đỡ, để họ có thể chạy đến tìm kiếm
sự trợ giúp khi gặp khó khăn. Nhưng cũng không bao giờ được quên đề nghị họ đến
với bí tích Hòa Giải, giúp họ đem những tội lỗi và những sai lầm trong quá khứ
và trong chính mối quan hệ của họ, đặt dưới tác động của lòng thương xót tha thứ
của Thiên Chúa và của quyền năng chữa lành của bí tích.

212. Về việc chuẩn bị gần cho hôn nhân người ta có xu hướng
tập trung vào những thiệp mời, trang phục, lễ lạc và vô số những chi tiết vốn
hao tốn biết bao về ngân sách cũng như sức lực và niềm vui. Các đôi bạn hầu như
đều bị rã rời và kiệt sức trong ngày hôn lễ, thay vì dành nguồn sinh lực tốt nhất
để chuẩn bị cho mình như là cặp uyên ương cùng sánh bước vào một cuộc hành
trình lớn. Não trạng này cũng được gặp nơi một số đôi bạn sống chung mà không
bao giờ đi đến hôn nhân, vì nghĩ rằng tổ chức một lễ cưới tốn kém quá nhiều,
thay vì họ dành ưu tiên tình yêu cho nhau và hợp thức hóa tình yêu ấy trước những
người khác. Các bạn đính hôn thân mến, các con hãy can đảm (làm) khác với người
ta, đừng để mình bị xã hội tiêu thụ vốn thích sự hào nhoáng bên ngoài nuốt chửng
các con. Điều quan trọng là tình yêu gắn kết các con nên một, được củng cố và
thánh hóa nhờ ân sủng. Các con có thể chọn việc tổ chức hôn lễ một cách đơn sơ
và giản dị, đặt tình yêu lên trên tất cả. Các tác viên mục vụ và cả cộng đoàn
có thể trợ giúp để sự ưu tiên này trở thành qui chuẩn chứ không phải là biệt lệ.

213. Trong việc chuẩn bị ngay trước lễ cưới, điều quan trọng
là khai sáng giúp cho đôi bạn hiểu rõ ý nghĩa của từng cử chỉ để họ có thể sống
việc cử hành phụng vụ cách sâu xa nhất. Chúng ta nên nhớ rằng, trong trường hợp
của hai người đã được rửa tội, sự cam kết trọng đại như việc bày tỏ lời ưng thuận
kết hôn, và sự kết hợp thân xác của hai người làm hôn nhân nên hoàn hợp chỉ có
thể được giải thích như là những dấu chỉ tình yêu của Con Thiên Chúa làm người
kết hợp với Hội thánh trong giao ước tình yêu. Nơi những người đã được rửa tội,
lời nói và cử chỉ được chuyển thành một ngôn ngữ diễn tả đức tin. Thân xác, với
những ý nghĩa mà Thiên Chúa muốn đưa vào đó trong khi tạo dựng, “được biến đổi
thành ngôn ngữ của các thừa tác viên bí tích, họ ý thức rằng trong giao ước hôn
nhân mầu nhiệm được biểu lộ và thực hiện”[242].

214. Đôi khi những người đính hôn không nhận thức được tầm
quan trọng về mặt thần học và linh đạo của những lời ưng thuận, những lời vốn
làm sáng tỏ ý nghĩa của mọi hành động tiếp theo sau. Cần phải nói rõ rằng những
lời ấy không thể chỉ giản lược trong hiện tại; chúng hàm chứa toàn thể gồm cả
tương lai: “cho đến khi cái chết chia lìa các con”. Ý nghĩa của sự ưng thuận
cho thấy rằng “tự do và trung thành chẳng những không đối nghịch, mà còn hỗ trợ
lẫn nhau, ngay cả trong tương quan liên vị cũng như trong những tương quan xã hội.
Thật vậy, trong nền văn minh của truyền thông toàn cầu, chúng ta hãy nghĩ đến
những thiệt hại gây ra bởi sự lạm phát của lời hứa chưa hoàn thành […]. Tôn
trọng lời nói, trung thành với lời hứa, là điều người ta không thể mua hay bán.
Chúng không thể bị áp đặt bằng vũ lực, nhưng cũng không thể giữ được lời mà
không có hi sinh”[243].

215. Các Giám mục Kenya đã nhận xét rằng “nhiều đôi vợ chồng
tương lai vì quá tập trung vào ngày cưới mà quên đi họ đang phải chuẩn bị cho một
sự dấn thân kéo dài suốt cả cuộc đời”[244].
Cần giúp cho họ hiểu rằng bí tích không chỉ là một khoảnh khắc để rồi sau đó
lùi vào quá khứ và thành những kỉ niệm, bởi vì bí tích còn ảnh hưởng thường
xuyên trên toàn bộ cuộc sống hôn nhân[245].
Ý nghĩa truyền sinh của tính dục, ngôn ngữ của thân xác và những cử chỉ của
tình yêu bày tỏ trong lịch sử của một đôi vợ chồng, trở thành một “tiếp nối
không gián đoạn của ngôn ngữ phụng vụ” và “theo một nghĩa nào đó, đời sống vợ
chồng trở thành phụng vụ”[246].

216. Đôi bạn cũng có thể suy niệm các bài đọc Thánh Kinh, và
làm phong phú thêm hiểu biết về ý nghĩa của những chiếc nhẫn cưới mà hai người
trao cho nhau, cũng như những dấu chỉ khác trong nghi thức. Nhưng thật không tốt
nếu đôi bạn đến với lễ cưới mà chưa cùng cầu nguyện với nhau, và cho nhau, cầu
xin Chúa giúp để mình được sống trung thành và quảng đại, cùng nhau xin Chúa
cho biết Ngài chờ đợi gì nơi mình, và dâng hiến tình yêu của mình cho Đức Trinh
Nữ Maria. Những ai đồng hành với đôi bạn trong khi chuẩn bị hôn nhân nên hướng
dẫn để họ biết sống những giờ phút cầu nguyện này vì là điều rất tốt cho họ.
“Phụng vụ lễ cưới là một sự kiện độc đáo, là nghi lễ được sống vừa trong bối cảnh
gia đình vừa xã hội. Một trong những dấu lạ đầu tiên mà Chúa Giêsu đã làm tại
tiệc cưới Cana: rượu ngon của phép lạ của Chúa, làm cho một gia đình mới khai
sinh thêm niềm vui, là rượu mới của Giao ước của Đức Kitô với con người, nam và
nữ, của mọi thời đại. […] Trong dịp này vị chủ tế thường có cơ hội ngỏ lời với
một cộng đoàn gồm cả những người vốn ít tham dự vào đời sống Hội thánh, hoặc những
người thuộc một giáo hội Kitô hoặc một cộng đoàn tôn giáo khác. Đây là một cơ hội
quí giá để loan báo Tin mừng của Đức Kitô”[247].

217. Chúng ta phải nhìn nhận có một giá trị lớn lao mà người
ta vẫn hiểu hôn nhân vốn là một vấn đề của tình yêu, và người ta chỉ có thể kết
hôn với người mình tự do lựa chọn và yêu thương. Thế nhưng, khi tình yêu chỉ  hệ tại ở nét hấp dẫn thể lí hay một tình cảm
mơ hồ, thì cũng có nghĩa là vợ chồng sẽ phải chịu một cảnh ngộ hết sức mong
manh khi tình cảm ấy rơi vào khủng hoảng hoặc khi nét hấp dẫn thể lí tàn tạ đi.
Vì những nhầm lẫn này thường xảy ra, nên việc đồng hành với các đôi vợ chồng
trong những năm đầu tiên của cuộc sống hôn nhân lại càng cần thiết, để làm cho
quyết định có ý thức và tự do thuộc về nhau và yêu nhau cho đến cùng được phong
phú và sâu sắc hơn. Nhiều khi thời gian đính hôn không đủ dài, quyết định cưới
nhau vội vàng vì nhiều lí do, trong khi có điều đáng ngại hơn nữa, là tình trạng
những người trẻ chậm trưởng thành. Vì thế, các đôi bạn mới cưới có bổn phận phải
bổ túc tiến trình đáng lẽ đã phải thực hiện trong thời kì đính hôn.

218. Đàng khác, tôi muốn nhấn mạnh rằng một trong những
thách đố của mục vụ gia đình là giúp các đôi bạn khám phá ra rằng hôn nhân
không thể được hiểu như là một điều gì đó đã xong rồi. Sự kết hợp đã là hiện thực
và không thể rút lại, được Bí tích Hôn nhân xác nhận và thánh hiến. Nhưng trong
khi sống kết hợp với nhau, đôi bạn trở thành những chủ thể, những chủ nhân của
chính lịch sử đời mình và là người sáng tạo một dự án đòi hỏi phải cùng nhau tiến
hành. Cùng nhìn về tương lai, một tương lai mà đôi bạn cần phải xây dựng từng
ngày nhờ ân sủng của Thiên Chúa, và chính vì thế đừng ai có tham vọng người phối
ngẫu phải hoàn hảo. Cần gạt sang một bên những ảo tưởng và chấp nhận người kia
như con người thực của người ấy: còn chưa kiện toàn, đang trong hành trình được
mời gọi để lớn lên. Khi nhìn về người bạn đời với ánh mắt thường xuyên chỉ
trích, điều đó có nghĩa là bạn còn chưa đảm nhận cuộc hôn nhân của mình như một
dự án phải cùng nhau xây dựng, với lòng kiên nhẫn, cảm thông, khoan dung và quảng
đại. Điều này có nghĩa là tình yêu đang dần bị thay thế bởi một cái nhìn tra vấn
và gay gắt, bởi sự kiểm soát công lao và quyền hạn của mỗi người, bởi những phản
kháng, những tranh chấp và tự vệ. Như thế, họ không còn khả năng nâng đỡ nhau để
cả hai cùng trưởng thành và lớn lên trong sự hiệp nhất. Cần phải trình bày điều
này cho các đôi vợ chồng mới cưới cách rõ ràng thực tế ngay từ đầu, để họ có thể
ý thức được thực tại mà họ đang khởi đầu. Lời ưng thuận mà họ trao cho nhau là
khởi đầu một cuộc hành trình, với mục đích là để họ có thể vượt qua được những
rủi ro có thể có do hoàn cảnh hoặc những trở ngại mà họ gặp phải. Lời chúc lành
họ lãnh nhận là một ân sủng và một lực đẩy cho hành trình này luôn được mở ra.
Thường thì hành trình này giúp họ ngồi lại thảo luận với nhau để phác họa kế hoạch
cụ thể về các mục tiêu, các phương tiện của mình trong cả các chi tiết.

219. Tôi nhớ một điệp khúc nói rằng nước ao tù thì hư thối.
Đó là những gì xảy ra khi cuộc sống tình yêu trong những năm đầu hôn nhân bị
trì trệ, không còn phấn khích, không còn những ưu tư lành mạnh thúc đẩy tiến về
phía trước. Các đôi bạn không được dừng lại vũ điệu mình đang bước hướng về
phía trước bằng tình yêu trẻ trung ấy, vũ điệu với đôi mắt bỡ ngỡ ngập tràn hi
vọng. Trong thời kì đính hôn và trong những năm đầu  của hôn nhân, niềm hi vọng vốn là chất men
xúc tác giúp cho đôi bạn nhìn xa hơn những mâu thuẫn, những xung đột, những bất
tất, niềm hi vọng luôn làm cho người ta thấy xa hơn. Và đây là điều làm chuyển
động mọi kì vọng của đôi bạn để duy trì trong cuộc hành trình tăng trưởng.
Chính niềm hi vọng mời gọi chúng ta sống trọn vẹn giây phút hiện tại, đặt trái
tim mình vào cuộc sống gia đình, bởi vì cách tốt nhất để chuẩn bị và củng cố
tương lai là sống tốt giây phút hiện tại.

220. Hành trình này đi qua nhiều giai đoạn mời gọi đôi bạn
quảng đại hiến thân: từ cuộc gặp gỡ ban đầu đầy cảm xúc với những nét hấp dẫn,
đến nhu cầu cảm thấy người kia như một phần của đời mình. Từ đó, đôi bạn đi đến
cảm nghiệm hoan hỉ mình thuộc về nhau, để rồi nhận ra toàn thể cuộc sống là một
dự phóng chung của cả hai người, đạt đến khả năng đặt hạnh phúc của người kia
lên trên nhu cầu của mình, và vui mừng nhận thấy cuộc hôn nhân của mình là một
thiện ích đối với xã hội. Tình yêu trưởng thành cũng bao hàm cả việc học biết
“thương lượng”. Đây không phải là một thái độ tìm tư lợi hay trò chơi có tính
thương mại, nhưng xét cho cùng đó là một thực hành tình yêu thương dành cho
nhau, bởi lẽ việc thương lượng này là một sự đan kết giữa cống hiến và từ bỏ vì
ích lợi của gia đình. Trong mỗi giai đoạn mới của cuộc sống hôn nhân, đôi bạn cần
phải ngồi xuống và thương thảo lại các điều đã thỏa thuận, làm sao để đừng có
người thắng kẻ thua, nhưng là cả hai cùng thắng. Trong gia đình các quyết định
không được thực hiện cách đơn phương, vì cả hai cùng chia sẻ trách nhiệm đối với
gia đình, tuy nhiên mỗi nhà là một nét độc đáo riêng và mỗi cuộc hôn nhân đều
có cách sắp xếp tốt nhất khác nhau.

221. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ của hôn
nhân là vì có những kì vọng quá cao về đời sống vợ chồng. Khi khám phá ra thì
thấy thực tế quả là giới hạn và rắc rối hơn những gì mình mơ ước, vậy thì giải
pháp là đừng nghĩ cách vội vàng và vô trách nhiệm về sự chia tay, nhưng hãy đảm
nhận hôn nhân như một tiến trình trưởng thành dần, trong đó mỗi người phối ngẫu
là phương tiện Thiên Chúa dùng để giúp người kia lớn lên. Mỗi người có thể thay
đổi, lớn lên, phát triển các tố chất tiềm tàng mà mỗi người mang trong mình. Mỗi
cuộc hôn nhân là một “lịch sử cứu độ”, và điều đó giả thiết rằng chúng ta khởi
đầu từ một tình trạng mong manh, nhờ ơn Chúa và nhờ sự đáp trả sáng tạo và quảng
đại từ phía chúng ta, hôn nhân sẽ dần dần trở nên một thực tại ngày càng bền vững
và quí giá hơn. Phải chăng sứ mạng lớn nhất của hai người, một nam một nữ,
trong tình yêu là: giúp nhau trở thành người đàn ông hay người phụ nữ đích thực
hơn. Làm cho lớn lên là giúp người kia định hình trong bản sắc riêng của họ. Bởi
thế, tình yêu là sản phẩm của một tay nghề tinh xảo. Khi đọc đoạn Thánh Kinh
nói về việc tạo dựng người nam và người nữ, người ta nhận thấy trước hết Thiên
Chúa dựng nên người đàn ông (cf. St
2,7), rồi thấy thiếu một cái gì đó rất thiết yếu và Ngài đã tạo nên người đàn
bà, bấy giờ Ngài thấy người đàn ông thảng thốt: “Phen này, đây là xương bởi
xương tôi, thịt bởi thịt tôi!”. Và sau đó dường như người ta nghe thấy cuộc đối
thoại kì diệu giữa hai người trong đó người đàn ông và người phụ nữ bắt đầu
khám phá lẫn nhau. Thực ra, ngay cả trong những thời điểm khó khăn người kia có
thể lại làm ta ngạc nhiên và các cánh cửa mới được mở ra để họ lại tìm thấy
nhau, như  lần đầu tiên gặp gỡ; và trong
mỗi giai đoạn mới họ quay về để “định hình” lại cho nhau. Tình yêu có nghĩa gì
khác đâu nếu không phải là người này chờ đợi người kia với chính sự nhẫn nại của
người thợ thủ công thừa hưởng từ Thiên Chúa.

222. Việc đồng hành với các đôi vợ chồng phải khuyến khích họ
quảng đại thông truyền sự sống. «Phù hợp với tính cách cá vị và hoàn toàn nhân
bản của tình yêu vợ chồng, con đường đúng đắn của việc kế hoạch hóa gia đình là
đối thoại thuận tình giữa vợ chồng, tôn trọng các nhịp thời gian và coi trọng
nhân phẩm của người bạn đời. Theo nghĩa đó, Thông điệp Humanae Vitae (cf. 10-14) và Tông huấn Familiaris Consortio (cf. 14; 28-35) cần phải được khám phá lại để
đánh thức người ta sẵn sàng sinh sản chống lại não trạng ngày nay vốn thường
thù địch với sự sống […]. Sự chọn lựa làm cha làm mẹ có trách nhiệm giả thiết
người ta phải được huấn luyện lương tâm, vốn là “tâm điểm sâu kín nhất và là
cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên
Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ” (GS, 16). Vợ chồng càng cố gắng lắng nghe Thiên Chúa và các lệnh
truyền của Ngài trong lương tâm (cf. Rm 2,15),
và để mình được hướng dẫn thiêng liêng, thì quyết định của họ càng tự do thâm
sâu hơn, không bị chi phối bởi tính tùy tiện chủ quan và không bị lôi kéo bởi lối
sống của môi trường xung quanh”[248]. Những gì Công Đồng
Vatican II xác định vẫn còn giá trị: «vợ chồng […], đồng tâm hiệp lực với
nhau, họ sẽ tạo được cho mình một phán đoán ngay thẳng: biết xét đến lợi ích
riêng của họ cũng như của con cái đã sinh hay tiên liệu sẽ có, nhận định về các
hoàn cảnh vật chất hay tinh thần của thời đại và bậc sống, sau hết biết nghĩ đến
lợi ích của gia đình, của xã hội trần gian và của chính Giáo Hội. Sự phán đoán ấy,
sau cùng chính đôi vợ chồng phải chọn lựa lấy trước mặt Thiên Chúa»[249]. Đàng khác, «việc sử dụng
các phương pháp dựa trên “chu kì tự nhiên của sự thụ thai” (HV 11) cần phải được khuyến khích. Người
ta nhấn mạnh rằng “những phương pháp này tôn trọng thân xác của người phối ngẫu,
khích lệ sự dịu dàng âu yếm giữa họ, và cổ võ việc giáo dục sự tự do đích thực”
(Sách Giáo Lí của Hội thánh Công Giáo,
2370). Cần phải luôn nhấn mạnh rằng con cái là một quà tặng tuyệt vời của Thiên
Chúa, một niềm vui cho cha mẹ và cho Hội thánh. Qua chúng Chúa đổi mới thế giới
này»[250].

223. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã cho thấy “những năm đầu
tiên của hôn nhân là một thời kì rất quan trọng và tế nhị, trong đó các đôi vợ
chồng ngày càng ý thức hơn về những thách đố và ý nghĩa của hôn nhân. Bởi thế cần
phải có một sự đồng hành mục vụ tiếp theo sau khi cử hành bí tích (cf. Familiaris Consortio, Phần III). Trong
việc mục vụ này sự có mặt của các đôi vợ chồng có kinh nghiệm rất quan trọng.
Giáo xứ được xem là nơi mà các cặp vợ chồng có kinh nghiệm như thế sẵn sàng phục
vụ để có thể giúp cho những đôi vợ chồng trẻ, có thể cùng với sự hợp tác của
các hiệp hội, các phong trào thuộc Hội thánh và các cộng đoàn mới. Cần khích lệ
các đôi vợ chồng trẻ có một thái độ cơ bản sẵn sàng tiếp nhận quà tặng tuyệt vời
là con cái. Cần lưu ý đến tầm quan trọng của linh đạo gia đình, việc cầu nguyện
và tham dự Thánh lễ Chúa nhật, khuyến khích các đôi vợ chồng nên gặp gỡ đều đặn
để thúc đẩy phát triển đời sống thiêng liêng và liên đới với nhau trong những
đòi hỏi cụ thể của đời sống. Phụng vụ, thực hành việc đạo đức và thánh lễ được
cử hành cho các gia đình, đặc biệt là vào dịp kỉ niệm hôn nhân, đã được đề cập
như là những điều rất quan trọng để thúc đẩy việc loan báo Tin mừng qua gia
đình”[251].

224. Hành trình này là vấn đề của thời gian. Tình yêu cần thời
gian sẵn sàng dành cho nhau cách vô cầu, mọi cái khác chỉ là phụ thuộc. Cần thời
gian để trò chuyện, để ôm hôn nhau không vội vã, để chia sẻ các kế hoạch, để lắng
nghe nhau, để nhìn vào mắt nhau, để trân trọng nhau, để thắt chặt hơn nữa mối
tương quan. Đôi khi  nhịp sống cuồng nhiệt
của xã hội, hoặc những lúc bận rộn gây áp lực sẽ tạo ra các vấn đề. Đôi khi, thời
gian đôi bạn sống bên nhau không có chất lượng cũng là vấn đề. Đôi bạn chỉ chia
sẻ một không gian vật lí, mà chẳng chú ý gì đến nhau. Các tác viên mục vụ và
các nhóm gia đình cần giúp các đôi vợ chồng trẻ hoặc non yếu học biết tận dụng
những giây phút ấy để gặp gỡ nhau, để dừng lại đối diện với nhau, và chia sẻ cả
những khoảnh khắc thinh lặng buộc họ trải nghiệm sự hiện diện của người phối ngẫu.

225. Các cặp vợ chồng đã có một kinh nghiệm “học nghề” tốt
theo nghĩa này có thể chia sẻ các phương thế thiết thực mà họ thấy là hữu ích đối
với họ như: lên kế hoạch về thời gian dành để ở bên nhau cách vô cầu, thời gian
giải trí với con cái, những cách thức khác nhau để mừng các sự kiện quan trọng,
những không gian tâm linh chung. Nhưng họ cũng có thể dạy những nghệ thuật giúp
đưa vào các khoảnh khắc ấy nội dung và ý nghĩa, để học cách thông giao tốt hơn.
Việc làm này hết sức quan trọng khi những gì mới lạ của thời đính hôn đã lịm tắt.
Bởi vì khi người ta không biết làm gì với thời gian dành cho nhau đó, thì rốt
cuộc người này hoặc người kia sẽ tự lánh mình vào trong các thứ thiết bị kĩ thuật,
hoặc sẽ bày ra những công việc khác để làm, sẽ tìm kiếm những vòng tay khác hoặc
trốn tránh một sự thân mật không còn mấy thoải mái.

226. Các đôi vợ chồng trẻ cũng được khích lệ tạo ra những tập
quán riêng, để có được một cảm giác ổn định và an toàn, được xây dựng qua một
loạt các nghi tiết chung hằng ngày. Điều tốt đẹp ấy có thể luôn là một nụ hôn
trao cho nhau mỗi buổi sáng, chúc lành cho nhau mỗi buổi tối, trông chờ và đón
đợi khi người kia đi về, thỉnh thoảng cùng nhau đi ra ngoài, chia sẻ với nhau
những công việc gia đình. Nhưng đồng thời, cũng hữu ích khi phá đi sự đơn điệu
của thói quen bằng tổ chức một cuộc lễ, cũng đừng làm mất đi khả năng tổ chức
những dịp đặc biệt của gia đình, để vui vẻ và ăn mừng những kinh nghiệm tuyệt vời.
Họ cần những khoảnh khắc ấy để cùng biết ngỡ ngàng trước những ơn huệ kì diệu của
Thiên Chúa và cùng nhau nuôi dưỡng lòng 
nhiệt thành vì sự sống. Khi người ta biết ăn mừng, là người ta có khả
năng này làm mới lại năng lượng của tình yêu, giải phóng người ta khỏi sự đơn
điệu nhàm chán và làm cho những những thói quen thường nhật đượm đầy màu sắc và
hi vọng.

227. Chúng ta, những mục tử phải khuyến khích các gia đình lớn
lên trong đức tin. Vì thế, tốt nhất là khuyên họ thường xuyên xưng tội, thực
hành linh hướng, thỉnh thoảng tham dự các kì tĩnh tâm. Nhưng đừng quên mời gọi
gia đình dành thời gian hàng tuần cùng cầu nguyện, bởi vì “gia đình hiệp nhau cầu
nguyện thì hiệp nhất bên nhau”. Cũng vậy, khi ta đi thăm các gia đình, nên mời
mọi thành viên trong gia đình qui tụ lại và cầu nguyện cho nhau trong chốc lát
và phó dâng gia đình trong tay Chúa. Đồng thời, cũng nên khích lệ người chồng
người vợ tìm thời giờ cầu nguyện một mình với Thiên Chúa, vì mỗi người có những
thập giá riêng phải vác. Tại sao ta không nói với Chúa về những lo lắng của
mình, hoặc kêu xin Ngài ban sức mạnh để chữa lành các vết thương và xin Ngài
soi sáng đỡ nâng cho công việc làm của mình? Các Nghị phụ Thượng Hội đồng cũng
nhấn mạnh rằng “Lời Chúa là nguồn mạch sự sống và linh đạo cho gia đình. Mọi mục
vụ gia đình phải được định hình từ bên trong và huấn luyện các thành viên của Hội
thánh tại gia bằng việc đọc Thánh Kinh và cầu nguyện theo hướng dẫn của Hội
thánh. Lời Chúa không chỉ là Tin mừng cho đời sống riêng tư của một cá nhân, mà
còn là  tiêu chuẩn đánh giá và là ánh
sáng giúp phân định những thách đố khác nhau mà các đôi vợ chồng và gia đình gặp
phải”[252].

228. Có thể là một trong hai người phối ngẫu chưa rửa tội,
hoặc không muốn sống những cam kết của đức tin. Trong trường hợp đó, ước nguyện
của người kia muốn sống và triển nở trong đời sống Kitô hữu gặp phải sự thờ ơ của
vợ hoặc chồng, có khi cũng đau đớn. Tuy nhiên, có thể tìm ra một vài giá trị
chung để chia sẻ và nhiệt thành vun đắp. Dù sao, yêu người phối ngẫu không phải
là tín hữu, làm cho người ấy được hạnh phúc, xoa dịu những nỗi đau và chia sẻ
cuộc sống với người ấy, đó quả thực là một con đường nên thánh. Đàng khác, tình
yêu là một quà tặng của Thiên Chúa, và ở đâu tình yêu lan tỏa ở đó người ta sẽ
cảm thấy có sức mạnh biến đổi, bằng những cách đôi khi hết sức nhiệm mầu, thậm
chí đến mức “một người chồng ngoại đạo được thánh hóa nhờ vợ, và một người vợ
ngoại đạo được thánh hóa nhờ chồng” (1 Cr
7,14).

229. Các giáo xứ, các phong trào, trường học và các tổ chức
khác của Hội thánh có thể có nhiều cách trợ giúp khác nhau để chăm sóc và phục
hồi các gia đình. Chẳng hạn như: các cuộc họp mặt của các đôi vợ chồng sống gần
nhau hay là bạn bè chung với nhau, những cuộc tĩnh tâm ngắn cho các vợ chồng,
thuyết trình chuyên đề về những vấn đề rất cụ thể của đời sống gia đình, trung
tâm tham vấn hôn nhân, các tác viên truyền giáo được chuẩn bị để nói chuyện với
các đôi bạn về những khó khăn và nguyện vọng của họ, tham vấn cho những hoàn cảnh
gia đình khác nhau (như nghiện ngập, ngoại tình, bạo hành trong gia đình), các
chương trình phát triển đời sống thiêng liêng, lớp tập huấn cho cha mẹ có con
cái có vấn đề, các cuộc hội ngộ gia đình. Các văn phòng giáo xứ là nơi cần có
khả năng đón tiếp trong thân tình và quan tâm đến những trường hợp cứu giúp gia
đình khẩn cấp, hoặc chỉ dẫn cách dễ dàng đến những địa chỉ có thể trợ giúp
chuyên môn. Cũng có một sự hỗ trợ mục vụ trong các nhóm các đôi vợ chồng, xét
như họ dấn thân phục vụ cho sứ vụ, cầu nguyện, đào tạo hoặc nâng đỡ lẫn nhau.
Các nhóm này là cơ hội để trao ban, để sống sự cởi mở hướng đến các gia đình
khác, để chia sẻ đức tin, nhưng đồng thời những nhóm này cũng là một phương tiện
để củng cố các đôi các vợ chồng và giúp họ tăng trưởng.

230. Thực tế có nhiều đôi vợ chồng biến mất khỏi cộng đoàn
Kitô hữu sau khi cưới, nhưng thường chúng ta lại không tận dụng những dịp họ
quay trở lại để giới thiệu cho họ cách hấp dẫn về lí tưởng cao đẹp của hôn nhân
Kitô giáo và đồng hành gần gũi với họ hơn: tôi muốn nói, chẳng hạn vào dịp lễ Rửa
tội của một đứa con của họ, dịp Rước Lễ lần đầu, hoặc khi họ tham dự một lễ an
táng hay lễ cưới của một người bà con hoặc bạn hữu. Hầu như tất cả các đôi vợ
chồng đều xuất hiện lại vào những dịp này, đây có thể là những dịp thuận lợi nhất.
Một phương cách khác để tiếp cận họ là dịp làm phép nhà, hay viếng thăm nhà
trong một cuộc rước ảnh tượng Đức Mẹ, đó là những dịp để có được một cuộc đối
thoại mục vụ về hoàn cảnh của các gia đình. Cũng có thể hữu ích là giao phó cho
những đôi vợ chồng lớn tuổi nhiệm vụ theo dõi giúp đỡ các đôi bạn mới cưới sống
gần họ, để gặp gỡ, đồng hành với họ trong giai đoạn khởi đầu và đề nghị cho họ
một lộ trình tăng trưởng. Với nhịp sống như hiện nay, hầu hết các cặp vợ chồng
không thể tham dự những cuộc gặp gỡ thường xuyên, và chúng ta không thể thu hẹp
việc mục vụ của mình chỉ vào một số ít đôi đặc tuyển (élites). Ngày nay mục vụ gia đình cốt yếu phải là truyền giáo, đi
ra, tiếp cận với người ngoài, chứ không thu mình trong một nhà máy sản xuất các
khóa học mà có ít người tham gia.

231. Cũng cần nói một chút với những người họ đã làm cho thứ
rượu mới của thời đính hôn hóa thành cũ kĩ đi trong tình yêu. Khi rượu đã cũ dần
theo dòng thời gian cùng với kinh nghiệm của hành trình này, thì ở đó cũng xuất
hiện, triển nở tròn đầy sự trung tín đi qua những khoảnh khắc nho nhỏ của cuộc
sống. Đó là sự trung tín của mong đợi và kiên nhẫn. Sự trung tín đong đầy những
hi sinh và niềm vui này sinh hoa kết trái theo tuổi tác khi mọi thứ đã trở nên
“dày dạn” và lúc này đôi mắt của họ trở nên rạng ngời khi ngắm nhìn lũ cháu đàn
con. Tình yêu thuở ban đầu đã như thế đó, nhưng bây giờ người ta ý thức, lắng đọng,
trưởng thành hơn cùng với những tái khám phá hằng ngày làm ngỡ ngàng, ngày này
qua ngày khác, năm này qua năm kia. Như Thánh Gioan Thánh Giá đã dạy, “những
người yêu nhau lâu năm là những người đã qua thử luyện và kiểm nghiệm”. Họ
không còn “nhiều cảm xúc bừng cháy, sôi bỏng và lửa nhiệt tình bên ngoài. Bây
giờ họ hưởng nếm hương vị ngọt ngào của rượu tình yêu đậm chất, đã dậy men và nằm
sâu trong tâm hồn”[253]. Điều này giả định là họ
đã cùng nhau vượt qua được các cuộc khủng hoảng và những thời kì lo âu, không
tránh né các thử thách hay che đậy những khó khăn.

232. Lịch sử của một gia đình được đánh dấu bởi mọi loại khủng
hoảng, nhưng đó cũng góp phần tạo nên vẻ đẹp kịch tính của nó. Cần giúp các đôi
vợ chồng hiểu ra rằng việc thắng vượt một khủng hoảng không làm cho mối tương
quan của họ kém mãnh liệt hơn, nhưng cải thiện, làm ổn định và làm cho rượu hiệp
nhất được chín muồi hơn. Sống với nhau không để hạnh phúc suy yếu dần đi, nhưng
để học sống hạnh phúc theo cách thức mới, khởi đi từ các khả năng mở ra từ một
giai đoạn mới. Mỗi khủng hoảng là một thực tập giúp cho cuộc sống chung thêm mạnh
mẽ, hay ít nhất tìm thấy được một ý nghĩa mới của kinh nghiệm hôn nhân. Dù sao
chăng nữa đôi bạn cũng không được nản lòng trước một khúc quanh dốc xuống, một
sự suy thoái không tránh được, hay một tình trạng tầm thường phải chịu đựng.
Ngược lại, khi hôn nhân được coi là một nhiệm vụ gồm cả việc phải vượt qua các
trở ngại, thì mỗi cuộc khủng hoảng được xem như một cơ hội để có thể uống với
nhau thứ rượu ngon hơn. Thật là tốt việc đồng hành với các đôi vợ chồng để họ
có thể chấp nhận các cuộc khủng hoảng có thể xảy đến, đối diện với chúng và
dành cho chúng một chỗ trong đời sống gia đình. Các cặp vợ chồng từng trải và
được huấn luyện phải sẵn sàng đồng hành với các cặp khác trong việc khám phá
này, làm sao để các cuộc khủng hoảng không làm họ kinh hãi cũng không đẩy họ đến
chỗ có quyết định nông nổi. Mỗi khủng hoảng đều ẩn chứa một tin vui mà ta cần
biết lắng nghe bằng lỗ tai của tâm hồn.

233. Trước những thách đố của một cuộc khủng hoảng, phản ứng
tức thời của ta thường là chống lại, phòng thủ, cảm thấy mình đang mất kiểm
soát bản thân, bởi vì nó cho thấy sự bất cập của chính cách sống của mình, và
điều đó làm ta khó chịu. Bấy giờ ta sử dụng phương cách chối bỏ, che đậy, tương
đối hóa tầm quan trọng của các vấn đề, chỉ mong đợi nó sẽ qua đi theo thời
gian. Nhưng làm như thế việc giải quyết sẽ bị trì hoãn và khiến ta mất rất nhiều
sức lực trong việc che giấu vô ích không những thế còn làm tình hình phức tạp
hơn. Mối liên kết vợ chồng bị suy yếu dần và sự cách li gây tổn hại tình vợ chồng
thân mật ngày càng gia tăng. Trong một cuộc khủng hoảng không được giải quyết,
điều chịu tổn hại nhất là sự thông giao giữa hai người. Như thế, người mà trước
đây là “người tôi yêu” sẽ trở thành “người bạn đời của tôi”, rồi chỉ còn là
“người bố hoặc người mẹ của các con tôi”, và cuối cùng trở thành là một người
xa lạ.

234. Để đối phó với một khủng hoảng ta cần phải hiện diện với
nó. Điều đó thật khó, vì đôi khi người ta tự cô lập để tránh nói ra điều mình cảm
nhận, họ thu mình vào trong một sự im lặng đớn hèn và lừa dối. Trong những lúc
như vậy cần tạo ra những cơ hội để trải lòng với nhau. Vấn đề là đối thoại
trong lúc này sẽ trở nên khó khăn hơn nếu đôi bạn chưa bao giờ học cách để làm
điều đó. Đối thoại là một nghệ thuật đích thực mà đôi bạn cần học biết trong
lúc êm ấm thuận hòa, để đem ra thực hành trong những thời kì khó khăn. Cần giúp
họ khám phá những nguyên nhân ẩn kín nhất trong tâm hồn của hai vợ chồng, và đối
diện với chúng, giống như một việc sinh nở, đây là một tiến trình đau đớn nhưng
sẽ vượt qua và để lại một kho tàng mới. Nhưng những phúc đáp của cuộc tham vấn
đã thực hiện cho thấy rằng trong các hoàn cảnh khó khăn hoặc nguy kịch phần
đông người ta không nhờ đến các trợ giúp của mục vụ đồng hành, vì họ không cảm
thấy được sự thông cảm, gần gũi, hay không thực tế, cụ thể. Bởi vậy, giờ đây
chúng ta  nên tìm cách tiếp cận với các
cuộc khủng hoảng hôn nhân bằng một cái nhìn nhạy cảm hơn với những gánh nặng của
đau đớn và thống khổ họ phải chịu.

235. Có những cuộc khủng hoảng phổ biến thường xảy ra trong
các cuộc hôn nhân, như khủng hoảng của buổi ban đầu, khi các vợ chồng trẻ cần tập
thích nghi với những khác biệt của nhau và khi họ mới tách ra khỏi cha mẹ; hoặc
khủng hoảng khi họ mới có con kéo theo những thách đố mới về mặt cảm xúc; khủng
hoảng khi nuôi dạy con còn nhỏ đòi hỏi phải thay đổi tập quán sống của cha mẹ;
khủng hoảng khi con bước vào tuổi dậy thì, đòi hỏi mất rất nhiều sức lực, mất sự
ổn định của các bậc cha mẹ và đôi khi căng thẳng nhau; khủng hoảng của “tổ trống
trơn” buộc các đôi vợ chồng phải nhìn lại chính mình; khủng hoảng gây ra bởi
hoàn cảnh khi phải chăm sóc cha mẹ già của các đôi vợ chồng đòi hỏi họ phải hiện
diện, quan tâm nhiều hơn và đòi phải có những quyết định khó khăn. Đó là những
hoàn cảnh gay go có thể gây ra lo sợ, cảm giác tội lỗi, bị trầm cảm hay mệt mỏi
có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự kết hiệp vợ chồng.

236. Ngoài ra còn có những khủng hoảng cá nhân ảnh hưởng đến
đời sống các cặp vợ chồng, thường liên quan đến những khó khăn về kinh tế, việc
làm, tình cảm, xã hội, tinh thần. Và còn thêm những tình huống bất ngờ có thể ảnh
hưởng đến cuộc sống gia đình đòi hỏi một hành trình của tha thứ và hòa giải.
Chính trong lúc tìm cách tha thứ, mỗi người phải tự hỏi trong khiêm tốn và yên
lặng xem liệu mình có tạo cớ cho người kia phạm lỗi không. Một số gia đình tan
vỡ khi vợ chồng kết án lẫn nhau, nhưng “kinh nghiệm cho thấy rằng, với một sự
trợ giúp thích đáng và với những hành động hòa giải nhờ ơn sủng, một tỉ lệ lớn
các khủng hoảng hôn nhân được khắc phục cách thỏa đáng. Biết tha thứ và cảm nhận
mình được thứ tha là một kinh nghiệm cơ bản trong cuộc sống gia đình”[254]. “Nghệ thuật vất vả của việc
hòa giải, đòi hỏi sự hỗ trợ của ân sủng, cần sự hợp tác quảng đại của bà con và
bạn hữu, và đôi khi cũng cần một sự giúp đỡ bên ngoài và chuyên nghiệp”. “Nghệ
thuật kiên trì của hòa giải, vốn cần sự nâng đỡ của ân sủng, sự cộng tác quảng
đại của bà con và bạn bè, và đôi khi cũng cần đến sự giúp đỡ từ bên ngoài và những
hỗ trợ chuyên môn”[255].

237. Một sự kiện đã trở thành phổ biến là khi một người cảm
thấy mình không nhận được những gì mình mong muốn, hoặc không thực hiện được những
gì mình mơ ước, như thế có vẻ là đủ lí do để kết thúc một cuộc hôn nhân. Như vậy
sẽ không có cuộc hôn nhân nào bền vững cả. Đôi khi, để quyết định tất cả đã chấm
dứt thì chỉ cần có một sự bất mãn nào đó, hoặc vì người kia vắng mặt trong lúc
người này cần đến họ, hoặc lòng kiêu hãnh bị tổn thương, hay một nỗi sợ mơ hồ
nào đó. Có những hoàn cảnh yếu đuối của con người vốn không thể tránh khỏi, mà
người ta gán cho nó một sức nặng tình cảm quá lớn. Chẳng hạn, họ cảm thấy mình
không được trân trọng đầy đủ, những ghen tương, những khác biệt có thể lộ hiện
ra giữa hai người, sự lôi cuốn bởi những người nào đó khác, những quan tâm mới
có xu hướng chiếm trọn tâm hồn, những thay đổi về thể lí của người phối ngẫu,
và nhiều sự việc khác, là những cơ hội để mời gọi bạn tái tạo lại tình yêu một
lần nữa hơn là tấn công chống lại tình yêu.

238. Trong những hoàn cảnh như thế, một số người có sự trưởng
thành cần thiết để xác nhận lại sự chọn lựa của mình, chọn người kia như là người
bạn đường của mình, vượt trên những giới hạn của tương quan, và chấp nhận cách
thực tế rằng người kia không thể đáp ứng mọi ước mơ mình ấp ủ. Họ tránh coi
mình như là những người tử đạo duy nhất, quí trọng những khả năng nhỏ bé và hạn
chế mà cuộc sống gia đình cống hiến cho họ và nhằm củng cố mối liên kết hôn phối
mà việc xây dựng sẽ đòi hỏi thời gian và công sức. Bởi vì, xét cho cùng, họ nhận
ra rằng mọi khủng hoảng đều có thể như là một lời “ưng thuận” mới, có thể làm
cho tình yêu tái sinh nên mạnh mẽ hơn, được biến đổi, trưởng thành và được khai
sáng. Khởi đi từ một cuộc khủng hoảng, người ta có can đảm truy tìm những gốc rễ
sâu xa của những gì đang xảy ra, để đàm phán lại với nhau những thỏa ước căn bản,
để đạt được một sự cân bằng mới và cùng nhau đi tiếp một giai đoạn mới. Với
thái độ cởi mở thường xuyên này, họ có thể đối diện với nhiều hoàn cảnh khó
khăn! Dù bất kì trường hợp nào, trong khi nhìn nhận hòa giải là việc có thể được,
ngày nay chúng ta khám phá ra rằng “một sứ vụ dành riêng cho những người có
quan hệ hôn nhân bị đổ vỡ, là đặc biệt khẩn cấp”[256].

239. Thật dễ hiểu gia đình thường gặp nhiều khó khăn khi có
một thành viên nào đó không trưởng thành trong cách sống tương quan, bởi vì người
ấy chưa được chữa lành những vết thương thuộc một giai đoạn nào đó trong cuộc đời.
Trải qua thời thơ ấu hoặc thời niên thiếu trong bất hạnh rất có thể là nguyên
nhân cho các cuộc khủng hoảng cá nhân, và cuối cùng làm tổn thương đến hôn nhân
của đương sự. Nếu tất cả mọi người trưởng thành một cách bình thường, thì khủng
hoảng có lẽ sẽ ít xảy ra hơn và ít gây đau đớn hơn. Nhưng thực tế cho thấy, đôi
khi, một số người phải cần tới tuổi ngoài bốn mươi mới có được mức trưởng thành
mà lẽ ra họ đã phải đạt được ở cuối giai đoạn vị thành niên. Đôi khi người ta
yêu bằng một thứ tình yêu ích kỉ đúng của trẻ con, vốn gắn với một giai đoạn mà
thực tại bị nhìn méo mó, và cư xử thất thường cho rằng tất cả mọi thứ phải xoay
quanh bản thân mình. Đó là một tình yêu vô độ, rên la và khóc lóc khi không đạt
được điều mình muốn. Có khi người ta yêu bằng một tình yêu của giai đoạn vị
thành niên, đặc biệt biểu lộ qua sự đối đầu, những phê phán gay gắt, những thói
quen kết tội người khác, lí luận theo cảm tính và trí tưởng tượng, những người
như thế chờ đợi người khác phải lấp vào chỗ trống rỗng của mình hoặc phải chịu
đựng tính hay thay đổi bất chợt của mình.

240. Nhiều người bước qua thời thơ ấu mà không bao giờ cảm
nhận mình được yêu thương vô điều kiện, và điều này làm tổn thương tới khả năng
tin tưởng và tự hiến của họ. Một tương quan thảm hại với cha mẹ và anh chị em, nếu
như không bao giờ được chữa trị, sẽ lại xuất hiện và gây tổn hại cho đời sống lứa
đôi. Bởi thế, cần tiến hành một cuộc giải phóng mà ta chưa bao giờ đối mặt. Khi
quan hệ giữa vợ chồng không được êm đẹp, trước khi đưa ra quyết định quan trọng,
phải đảm bảo rằng mỗi người đã thực hiện tiến trình chữa trị vấn đề của đời
mình. Điều đó đòi hỏi phải nhìn nhận sự cần thiết của việc chữa trị, ta thiết
nài xin ơn tha thứ và được thứ tha, chấp nhận sự giúp đỡ, tìm kiếm những động lực
tích cực và luôn bắt đầu thử nghiệm lại. Mỗi người phải rất chân thành với
chính mình để thừa nhận rằng cách sống tình yêu của mình như thế là còn chưa
trưởng thành. Dẫu có vẻ rõ ràng tất cả là lỗi của người kia, nhưng khủng hoảng
không bao giờ có thể vượt qua nếu chỉ trông chờ người kia thay đổi. Cũng phải tự
hỏi xem những gì trong cuộc sống cá nhân cần được phát triển cho chín chắn hay
được chữa trị để tiến tới việc giải quyết sự xung đột.

241. Trong một vài trường hợp, xét thấy nhân phẩm của mình
và thiện ích của con cái cần được bảo vệ yêu cầu ta phải đưa ra một giới hạn chắc
chắn trước những đòi hỏi quá đáng của người kia, trước một bất công nghiêm trọng,
trước sự bạo hành hoặc thường xuyên thiếu tôn trọng từ phía người kia. Cần phải
nhìn nhận rằng “có những trường hợp việc li thân là không thể tránh khỏi. Đôi
khi điều đó trở nên thậm chí là cần thiết xét về mặt luân lí, khi đó là cách để
giải thoát người phối ngẫu yếu thế hơn, hoặc tránh cho những đứa con nhỏ khỏi bị
thương tổn nghiêm trọng nhất do sự chuyên chế và bạo hành, và do sự khinh khi
và bóc lột, do sự thiếu quan tâm và thờ ơ”[257].
Thế nhưng, “việc li thân chỉ có thể được xem như phương dược cuối cùng, sau khi
mọi cố gắng hợp lí khác đều tỏ ra vô hiệu”[258].

242. Các Nghị phụ đã chỉ cho thấy “cần phải có một sự phân định
đặc biệt để đồng hành mục vụ với những người li thân, li dị, bị bỏ rơi. Cần đón
tiếp và trân trọng nỗi đau khổ của những người phải gánh chịu li hôn, li dị hoặc
bị ruồng bỏ một cách bất công, hoặc buộc phá vỡ cuộc chung sống do sự ngược đãi
của người phối ngẫu kia. Tha thứ cho điều bất công mình phải chịu thì không dễ
chút nào, nhưng ân sủng sẽ giúp người ta có thể tha thứ với tiến trình thời
gian. Do đó, cần có một mục vụ hòa giải và trung gian thông qua các trung tâm
tham vấn chuyên biệt được thiết lập trong các giáo phận”[259].
Đồng thời, “những người li dị mà không tái hôn, thường là những chứng nhân của
lòng trung thành trong hôn nhân, cần được khích lệ tìm thấy trong Thánh Thể
lương thực nâng đỡ tình trạng hiện tại của họ. Cộng đoàn địa phương và các mục
tử phải đồng hành với những người này một cách ân cần, nhất là khi họ có con
cái hoặc lâm cảnh nghèo túng cùng cực”[260].
Một thất bại hôn nhân trở nên chấn động và đau lòng hơn trong trường hợp của
người nghèo, vì họ không có bao nhiêu nguồn lực để định hướng lại cuộc sống. Một
người nghèo khi không còn môi trường gia đình an ổn thì gặp nguy cơ bị bỏ rơi
và mọi thứ rủi ro tổn hại sự toàn vẹn của nó gấp đôi.

243. Đối với những người li dị đang sống một kết hợp mới, điều
quan trọng là làm cho họ cảm thấy rằng họ vẫn là thành phần của Hội thánh,
“không bị rút phép thông công” và không bị đối xử như vậy, bởi lẽ họ luôn là
thành phần làm nên sự hiệp thông Hội thánh [261].
Những hoàn cảnh này “đòi hỏi phải có sự phân định cẩn thận và đồng hành hết sức
tôn trọng, tránh mọi kiểu nói và thái độ làm cho họ cảm thấy bị kỳ thị và khuyến
khích họ tham gia vào đời sống của cộng đoàn. Chăm sóc cho những người như thế
không làm cho đức tin của cộng đoàn và việc làm chứng cho sự bất khả phân li của
hôn nhân bị suy yếu đi, mà ngược lại chính trong sự chăm sóc này mà cộng đoàn
thể hiện đức ái của mình”[262].

244. Đàng khác, một số lớn các Nghị phụ “đã nhấn mạnh đến sự
cần thiết phải làm cho các thủ tục công nhận các trường hợp hôn nhân vô hiệu trở
nên dễ dàng tiếp cận và nhanh chóng hơn, và có thể hoàn toàn miễn phí”[263]. Sự chậm chạp của tiến
trình gây  khó chịu và nản lòng cho những
người liên hệ. Hai Văn kiện gần đây của tôi về vấn đề này [264] đã giúp đơn giản hóa các
thủ tục để tuyên bố, nếu có thể, về hôn nhân vô hiệu. Qua đó tôi cũng muốn “nói
rõ ràng rằng trong giáo phận của mình chính Giám mục được đặt làm mục tử và là
người đứng đầu, nên chính ngài cũng là thẩm phán của các tín hữu đã được ủy
thác cho mình”[265]. Vì thế, “việc thi hành
các văn kiện này là một trách nhiệm lớn đối với Đấng Bản Quyền của giáo phận,
các vị được mời gọi đích thân phán quyết một số trường hợp, và trong mọi trường
hợp, các vị bảo đảm sao cho người tín hữu đạt đến công lí một cách dễ dàng hơn.
Điều này bao hàm việc chuẩn bị đầy đủ số lượng nhân sự, gồm các giáo sĩ và giáo
dân, những người được đặc cử cho việc phục vụ này trong Giáo hội. Do đó, cần phải
sẵn sàng cung cấp cho những người li thân hoặc các đôi vợ chồng đang gặp khủng
hoảng, một dịch vụ thông tin, tham vấn và hòa giải, liên kết với mục vụ gia
đình, cũng có thể tiếp nhận những người này trong việc điều tra sơ bộ cho tiến
trình liên quan đến hôn nhân (cf. Mitis
iudex
, khoản 2-3)”[266].

245. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng cũng nêu rõ “những hậu quả
của việc li thân hoặc li dị trên con cái, trong mọi trường hợp chúng đều là nạn
nhân vô tội của hoàn cảnh”[267]. Trên tất cả mọi xem xét
mà mình muốn làm, thiện ích của con cái phải là mối quan tâm hàng đầu, không được
để cho bất cứ quyền lợi hay mục tiêu nào khác che lấp. Tôi khẩn xin các cha mẹ
li thân: “Đừng, đừng, đừng bao giờ lấy con cái mình ra mà làm con tin! Anh chị
li thân vì nhiều khó khăn và nhiều lí do, cuộc sống đã trao cho anh chị thử
thách này, nhưng chớ để con cái là kẻ phải gánh chịu hậu quả nặng nề của sự
phân li ấy, không được sử dụng chúng làm con tin chống lại người phối ngẫu kia,
chúng cần lớn lên trong khi nghe người mẹ nói tốt về người cha, cho dù hai người
không còn sống với nhau, và nghe người cha nói tốt về người mẹ”[268]. Thật là vô trách nhiệm việc
làm hư đi hình ảnh của người cha hoặc người mẹ với mục đích để tranh thủ tình cảm
của đứa con, để trả thù hoặc để tự vệ, bởi vì việc làm đó sẽ gây thiệt hại cho
đời sống nội tâm của con cái và sẽ tạo nên những vết thương khó chữa lành.

246. Cho dù hiểu những hoàn cảnh xung đột mà vợ chồng phải
trải qua, Hội thánh không thể ngừng lên tiếng nhân danh những con người dễ bị tổn
thương nhất, đó là những đứa con thường phải âm thầm đau khổ. Ngày nay, “cho dẫu
dường như ta có sự nhạy cảm tiến bộ hơn, và làm mọi phân tích tâm lí rất tinh tế,
tôi tự hỏi liệu có phải chúng ta đã bị chai lì trước cả những vết thương trong
tâm hồn của trẻ em. […] Chúng ta có cảm thấy sức nặng của tảng núi nghiền nát
tâm hồn của một đứa trẻ trong các gia đình nơi mà người ta đối xử tệ bạc với
nhau và làm tổn thương nhau, đến mức phá vỡ mối dây trung tín trong hôn nhân
hay không?”[269]. Những kinh nghiệm tệ hại
này không giúp ích gì cho trẻ em cho đến khi chúng trưởng thành để có khả năng
dấn thân dứt khoát. Vì thế, các cộng đoàn Kitô hữu không nên bỏ rơi các cha mẹ
đã li dị những người đang sống một mối quan hệ mới. Ngược lại, cần đưa họ vào cộng
đoàn và đồng hành với họ trong vai trò giáo dục con cái. Thật vậy, “làm sao
chúng ta có thể khuyên các người cha người mẹ này làm tất cả để giáo dục con
cái trong đời sống đức tin Kitô giáo, và cho họ mẫu gương về một đức tin xác
quyết và thực hành, trong khi chúng ta lại để cho họ xa cách đời sống của cộng
đoàn, như thể họ đã bị tuyệt thông? Ta phải làm cách nào để tránh không bồi
thêm những gánh nặng khác ngoài gánh nặng con cái mà họ phải mang vác, trong những
hoàn cảnh này”[270]. Giúp chữa lành các vết
thương của cha mẹ và tiếp nhận họ về mặt thiêng liêng, cũng là điều tốt ngay cả
cho những đứa con, tất cả họ cần nhìn thấy dung mạo gia đình của Hội thánh tiếp
đón họ qua kinh nghiệm thương đau này. Li dị là một điều xấu, và số lượng các vụ
li dị ngày càng gia tăng là điều rất đáng lo ngại. Vì thế, không nghi ngờ gì nữa,
nhiệm vụ mục vụ quan trọng nhất của chúng ta đối với các gia đình, đó là củng cố
tình yêu và giúp chữa lành các vết thương, để chúng ta có thể ngăn chặn sự lây
lan của thảm kịch này trong thời đại chúng ta.

247. “Cần có quan tâm đặc biệt đến những vấn đề liên quan đến
hôn nhân hỗn hợp. Hôn phối giữa những người Công giáo và những người đã được rửa
tội khác “mặc dù mang một sắc thái đặc biệt, vẫn có nhiều yếu tố cần được tôn
trọng và phát huy, hoặc vì giá trị nội tại của chúng hoặc vì chúng có thể góp
phần cho trào lưu đại kết”. Nhằm mục đích ấy, “nên tìm cách […] để có sự cộng
tác chân tình giữa thừa tác viên công giáo và thừa tác viên không công giáo, từ
thời gian chuẩn bị hôn nhân cho tới lễ cưới” (Familiaris Consortio, 78). Về việc chia sẻ Thánh Thể, cần lưu ý rằng
“việc quyết định chấp nhận bên phối ngẫu không Công giáo có được rước lễ hay không
phải được thực hiện phù hợp với các quy định chung hiện hành,  cả đối với các Kitô hữu Đông phương cũng như
đối với các Kitô hữu khác, trong khi xét đến hoàn cảnh đặc biệt này, nghĩa là
hai người Kitô hữu đã được rửa tội lãnh nhận bí tích hôn nhân Kitô giáo. Cho dẫu
các đôi vợ chồng trong hôn nhân hỗn hợp có chung bí tích Rửa tội và Hôn phối,
việc chia sẻ Thánh Thể chỉ có thể là trường hợp biệt lệ, và trong mọi trường hợp,
cần tuân giữ các quy định đã được đặt ra” (Hội Đồng Giáo Hoàng về Thăng Tiến sự
Hiệp Nhất Kitô giáo, Hướng dẫn việc Áp dụng
các Nguyên tắc và Quy luật Đại kết
, ngày 25 tháng 3 năm 1993, 159-160)”[271].

248. “Những hôn phối khác đạo là nơi ưu việt cho cuộc đối
thoại liên tôn […] có một số khó khăn đặc biệt cả về căn tính Kitô giáo của
gia đình, lẫn về việc giáo dục đức tin cho con cái. […] Số các gia đình mà
đôi vợ chồng kết hợp theo hôn phối khác đạo ngày càng tăng trong các vùng truyền
giáo và ngay cả tại các nước có truyền thống Kitô giáo lâu đời, đòi hỏi khẩn
thiết phải có chương trình chăm sóc mục vụ đặc biệt tùy theo bối cảnh xã hội và
văn hóa khác nhau. Tại một số quốc gia, không có tự do tôn giáo, người phối ngẫu
Kitô giáo bị buộc phải cải đạo khác mới có thể kết hôn, và không thể cử hành
hôn phối khác đạo theo giáo luật, cũng không thể rửa tội cho con cái. Bởi thế,
chúng tôi tái khẳng định sự tự do tôn giáo thiết yếu phải được tôn trọng đối với
tất cả mọi người”[272]. Cần đặc biệt chú ý đến những
người kết hợp trong các cuộc hôn nhân như vậy, không những chỉ trong thời kì
trước lễ cưới. Các đôi vợ chồng và gia đình trong đó một người là Công giáo và
người kia là không phải là tín hữu gặp phải những thách đố rất đặc biệt. Trong
những trường hợp như thế, cần phải chứng tỏ khả năng đem Tin mừng cắm sâu vào
những hoàn cảnh như thế mới mong có thể giáo dục con cái của họ theo đức tin
Kitô giáo”[273].

249. “Khó khăn đặc biệt xuất hiện trong hoàn cảnh liên quan
đến việc rửa tội cho những người đang ở trong một điều kiện hôn nhân phức tạp.
Đó là trường hợp những người đã kết ước một hôn phối bền vững trong thời gian
ít nhất một trong hai người chưa biết đức tin Kitô giáo. Trong những trường hợp
này, các Giám mục được mời gọi thực hiện việc phân định mục vụ thích đáng với lợi
ích thiêng liêng của họ”[274].

250. Hội thánh chọn thái độ sống phù hợp với Chúa Giêsu, bằng
một tình yêu không biên giới mà Người đã tự hiến cho mọi người không trừ một ai
[275]. Cùng với các Nghị phụ Thượng
Hội đồng, tôi đã xem xét hoàn cảnh của các gia đình sống kinh nghiệm trong nhà
mình có người mang xu hướng đồng tính, một kinh nghiệm không dễ dàng đối với
cha mẹ cũng như con cái. Vì vậy, trước hết chúng tôi muốn khẳng định lại rằng mọi
người, không phân biệt khuynh hướng tính dục, phải được tôn trọng theo phẩm giá
của họ và phải được đón nhận với lòng kính trọng, hết sức tránh “mọi dấu hiệu
kì thị bất công”[276] và nhất là mọi hình thức
gây hấn và bạo lực. Còn đối với gia đình thì cần bảo đảm một sự đồng hành trân
trọng, để người có xu hướng đồng tính có thể nhận được sự trợ giúp cần thiết, để
họ hiểu và thi hành trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trên cuộc đời của mình [277].

251. Trong khi thảo luận về phẩm giá và sứ mạng của gia
đình, các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã nhận định rằng “về các dự tính xem những
kết hợp giữa những người đồng tính đồng nhất với hôn nhân, thì không có một nền
tảng nào để đồng hóa những kết hợp đồng tính và kế hoạch của Thiên Chúa về hôn
nhân và gia đình hoặc xem là tương tự, hoặc thậm chí giống xa xa”; và không thể
chấp nhận “rằng các Giáo hội địa phương phải chịu sức ép về vấn đề này và các
cơ quan quốc tế đặt điều kiện cho những viện trợ tài chính cho các nước nghèo để
đưa vào các đạo luật cho phép lập “hôn nhân” giữa những người cùng giới [278].

252. Những gia đình chỉ có cha hoặc mẹ đơn thân thường xuất
phát từ trường hợp “những người mẹ hoặc người cha ruột, chưa hề bao giờ muốn hội
nhập vào cuộc sống gia đình, những hoàn cảnh bạo hành trong đó một người đã buộc
phải bỏ trốn cùng con cái, cái chết của một trong hai người cha hoặc mẹ, một
trong hai người từ bỏ gia đình, và nhiều hoàn cảnh khác nữa. Dù nguyên nhân nào
đi nữa, người cha hoặc người mẹ đơn thân đang sống với con nhỏ phải được nâng đỡ
và an ủi từ những gia đình khác trong cộng đoàn Kitô hữu, cũng như từ các tổ chức
mục vụ giáo xứ. Những gia đình này thường chịu ảnh hưởng bởi sức nặng của các vấn
đề kinh tế, sự bấp bênh của công ăn việc làm, khó khăn trong việc nuôi dưỡng
con cái, thiếu nhà ở”[279].

253. Có những lúc cuộc sống gia đình bị thách thức do cái chết
của một người thân yêu. Chúng ta không nên bỏ lỡ dịp mang ánh sáng đức tin đến
để đồng hành với gia đình đang đau khổ trong những lúc này [280]. Bỏ quên một gia đình đang
đau đớn vì có người thân qua đời là một sự thiếu sót lòng thương xót, là đã bỏ
mất cơ hội cho mục vụ, và với thái độ này các cánh cửa có thể sẽ khép lại với
chúng ta khiến cho không thể làm bất cứ điều gì khác để loan báo Tin mừng.

254. Tôi hiểu nỗi thống khổ của người đã mất đi một người rất
thân yêu, một người phối ngẫu đã từng chia sẻ với mình biết bao nhiêu điều.
Chính Chúa Giêsu đã xúc động và đã khóc tại đám tang của một người bạn (cf. Ga 11,33.35). Và làm sao chúng ta lại
không hiểu được tiếng khóc than của người đã mất một đứa con? Quả thật, “khi ấy
thời gian như ngừng lại: vực thẳm như mở ra nuốt lấy cả quá khứ và tương lai.
[…] Và có khi đau đớn đến nỗi ta còn lên án Thiên Chúa. Biết bao người – tôi
hiểu họ – nổi giận với Thiên Chúa”[281].
“Góa bụa là một kinh nghiệm đặc biệt khó khăn […] một số người cho thấy họ biết
dồn sức lực của mình nhiều hơn cho con cho cháu, nhờ đó tìm ra được một sứ mạng
giáo dục mới qua lối biểu lộ tình yêu này. […] Những người không có người
thân để có thể cậy dựa và để nhận được tình cảm an ủi, họ cần được cộng đoàn
Kitô hữu hỗ trợ với sự quan tâm đặc biệt và sẵn sàng giúp đỡ, nhất là khi họ
lâm vào hoàn cảnh cùng cực”[282].

255. Thông thường sự thương tiếc người thân qua đời có thể
kéo dài một thời gian, và khi một mục tử muốn đồng hành với gia đình theo lộ
trình này, cần thích ứng với nhu cầu của từng giai đoạn. Toàn bộ lộ trình này
được khơi gợi  qua các vấn đề sau: về
nguyên nhân của cái chết, về những gì lẽ ra đã có thể làm được, về việc người ấy
đã sống như thế nào trước khi chết … Qua một hành trình chân thành và kiên nhẫn
của cầu nguyện và của giải thoát nội tâm, bình an sẽ trở lại. Đến một lúc nào
đó trong quãng thời gian tang tóc, ta cũng cần giúp họ khám phá ra rằng có bao
nhiêu người giữa chúng ta cũng đã mất một người thân yêu, nhưng chúng ta vẫn
còn có một sứ mạng để hoàn thành, và rằng không ích gì  việc kéo dài nỗi đau khổ như thể muốn tỏ lòng
tôn kính người quá cố. Người thân yêu đã qua đời không cần chúng ta phải đau khổ,
họ cũng không vui gì khi chúng ta tàn phá cuộc đời mình. Cũng không phải là biểu
hiện tốt nhất của tình yêu khi gợi nhớ và gọi tên người ấy liên tục, bởi vì làm
như thế có nghĩa là bám víu vào một quá khứ không còn nữa, thay vì yêu thương một
người thực sự hiện đang ở bên kia thế giới. Sự hiện diện thể lí của họ không
còn nữa, nhưng, nếu sự chết là một cái gì đó mạnh mẽ, thì “tình yêu cũng mạnh
như sự chết” (Dc 8,6). Tình yêu có một
trực giác, giúp ta nghe được cái vô thanh và nhìn thấy được cái vô hình. Điều
này không phải là một việc tưởng tượng người thân yêu đó như họ vốn là, nhưng
là khả năng có thể chấp nhận họ đã được biến đổi như họ hiện giờ. Đức Giêsu Phục
sinh, khi Maria bạn Người muốn ôm chặt lấy Người, Người đã bảo chị ấy đừng cầm
giữ Người lại (cf. Ga 20,17), để mở
ra cho chị một cuộc gặp gỡ khác.

256. Biết rằng người chết không bị hủy diệt hoàn toàn là một
điều an ủi cho chúng ta, và đức tin bảo đảm cho chúng ta rằng Chúa Phục Sinh sẽ
không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Như vậy, chúng ta có thể ngăn cái chết không cho
nó “làm nhiễm độc cuộc sống, làm tình cảm của ta thành trống rỗng, xô ta rơi
vào khoảng không tăm tối nhất”[283]. Thánh Kinh nói về một
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta vì tình yêu, và đã tạo nên chúng ta cách nào đó
để cuộc sống của chúng ta không kết thúc bằng cái chết (cf. Kn 3,2-3). Thánh Phaolô nói với chúng ta
về một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô ngay sau cái chết: “Mong ước của tôi là được ra
đi để ở với Ðức Kitô” (Pl 1,23). Với
Người, sau cái chết, điều đang chờ đợi chúng ta là những gì Thiên Chúa đã dọn sẵn
cho những ai yêu mến Ngài (1 Cr 2,9).
Kinh Tiền Tụng của Phụng Vụ lễ cầu hồn diễn tả điều đó cách tuyệt vời: “Để những
ai buồn sầu vì số phận chắc chắn phải chết cũng được an ủi vì Chúa đã hứa ban
phúc trường sinh bất diệt sau này. Vì, lạy Chúa, đối với các tín hữu Chúa, sự sống
thay đổi chứ không mất đi”. Thật vậy, “những người thân yêu của chúng ta không
biến mất trong bóng tối hư không: niềm hi vọng bảo đảm với chúng ta rằng họ
đang ở trong vòng tay tốt lành và mạnh mẽ của Thiên Chúa”[284].

257. Một cách để thông giao với những người thân yêu của
chúng ta đã qua đời là cầu nguyện cho họ [285].
Thánh Kinh nói “cầu nguyện cho người chết” là một việc “thánh thiện và đạo đức”
(2 Mcb 12,44-45). Lời cầu nguyện cho
họ “không những có thể giúp họ, mà còn làm cho lời chuyển cầu của họ cho chúng
ta mang lại hiệu quả”[286]. Sách Khải Huyền trình bày
các vị tử đạo, trong khi khẩn cầu cho những người đau khổ vì bất công trên thế
gian (cf. 6,9-11), liên kết vững vàng với thế giới này trên hành trình đi về. Một
số vị thánh, trước khi chết, an ủi những người thân yêu hứa rằng các ngài sẽ ở
gần họ để giúp họ. Thánh Têrêxa thành Lisieux cảm thấy mình muốn tiếp tục làm
việc lành từ trên Trời[287]. Thánh Đa minh quả quyết rằng
“ngài sẽ giúp ích nhiều hơn sau khi qua đời […] mạnh mẽ hơn trong việc đoạt lấy
ân sủng”[288]. Đó là những mối dây liên
kết yêu thương,[289] vì “sự kết hợp giữa những
người còn sống trên dương thế với các anh em đã yên nghỉ trong bình an của Chúa
Kitô không hề bị gián đoạn […], nhưng được củng cố nhờ việc truyền thông cho
nhau những của cải thiêng liêng”[290].

258. Nếu chúng ta chấp nhận cái chết, chúng ta có thể chuẩn
bị cho nó. Cách chuẩn bị là chúng ta lớn lên trong tình yêu hướng đến những người
đang bước đi cùng với mình, cho đến ngày “sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn
tang tóc, kêu than và đau khổ nữa” (Kh
21,4). Bằng cách đó, chúng ta cũng chuẩn bị gặp lại những người thân yêu của ta
đã qua đời. Như Đức Giêsu trao đứa con đã chết được hồi sinh lại cho người mẹ
(cf. Lc 7,15), đối với chúng ta Người
cũng sẽ làm như thế. Chúng ta đừng phí sức bám níu năm này qua năm khác những
gì thuộc quá khứ. Chúng ta càng sống tốt trên trái đất này bao nhiêu, thì chúng
ta càng có thể chia sẻ hạnh phúc lớn lao hơn với những người thân yêu của chúng
ta trên trời bấy nhiêu. Chúng ta càng trưởng thành và triển nở bao nhiêu, thì
chúng ta càng có thể mang được nhiều điều tốt đẹp hơn vào bàn tiệc thiên quốc bấy
nhiêu.

259. Cha mẹ luôn có ảnh hưởng trên sự phát triển về mặt tinh
thần của con cái, về điều tốt cũng như điều xấu. Vì thế, việc tốt nhất là họ
hãy đảm nhận trách nhiệm không thể né tránh này và thực hiện việc giáo dục cách
ý thức, nhiệt thành, hữu lí và phù hợp. Vì chức trách giáo dục này của gia đình
là rất quan trọng và trở nên rất phức tạp, nên tôi muốn dừng lại ở điểm này để
xem xét cách đặc biệt.

260. Gia đình không thể khước từ mình chính là nơi nâng đỡ,
đồng hành, hướng dẫn con cái, cho dù cần phải tái tạo lại các phương pháp và
tìm cho ra các nguồn lực mới. Cha mẹ cần phải dự tính xem mình muốn trao cho
con cái những gì. Bởi thế cha mẹ không được tránh né tự hỏi xem ai là người
đang quan tâm cung ứng cho chúng những trò giải trí và niềm vui, ai là kẻ đi
vào phòng của bọn trẻ qua các màn hình TV hay máy điện tử, ai là người mà mình
trao phó con cái để họ hướng dẫn chúng trong những thời gian rảnh rỗi. Chỉ cần
chúng ta dành thời gian cho con cái, nói với chúng về những chuyện quan trọng một
cách đơn giản với tâm tình trìu mến, và tạo ra những cơ hội lành mạnh để chiếm
hết thời gian của chúng, như vậy sẽ giúp chúng tránh được khỏi bị xâm hại. Cảnh
giác thì luôn luôn cần thiết. Bỏ bê con cái không bao giờ là điều hay. Cha mẹ
phải hướng dẫn và chuẩn bị cho con cái, trẻ nhỏ và thanh thiếu niên, để chúng
biết đối phó với những hoàn cảnh mà chúng có thể gặp phải, chẳng hạn như các
nguy cơ bị tấn công, lạm dụng hoặc nghiện ngập.

261. Tuy nhiên, lo lắng quá đến mức bị ám ảnh thì không phải
là giáo dục, và chúng ta không thể kiểm soát hết mọi tình huống mà con mình có
thể trải qua. Ở đây có thể ứng dụng nguyên tắc “thời gian thì quan trọng hơn
không gian”[291]. Nói cách khác, điều quan
trọng là tạo ra các qui trình hơn là kiểm soát các nơi chốn. Nếu một phụ huynh
bị ám ảnh muốn biết con mình đang ở đâu và kiểm soát mọi việc làm của nó, thì
đó chỉ là tìm cách kiểm soát về nơi chốn. Đó không phải là giáo dục con, không
giúp con tăng trưởng, không chuẩn bị cho con đối đầu với những thách đố. Điều
đáng quan tâm chủ yếu là tạo ra nơi con cái, với cả tình thương yêu, những tiến
trình giúp trưởng thành sự tự do của con, chuẩn bị, triển nở toàn diện, vun trồng
sự tự lập đích thật. Chỉ như thế đứa con mới có được những yếu tố cần thiết để
biết tự bảo vệ và hành động cách thông minh và khôn ngoan trong các hoàn cảnh
khó khăn. Bởi vậy, câu hỏi quan trọng đặt ra không phải là biết con mình hiện
đang ở đâu, lúc này nó đang ở với ai, theo nghĩa thể lí, nhưng là hiện giờ nó
đang ở đâu theo nghĩa hiện sinh, nghĩa là nó đang đặt những xác tín, mục tiêu,
ước muốn, dự tính cuộc đời mình ở đâu. Thế nên, những câu hỏi mà tôi muốn đặt
ra với các bậc cha mẹ là: “Chúng ta có tìm hiểu con mình đang thực sự “ở đâu”
trong hành trình đời sống của chúng không? Tâm hồn của chúng đang thực sự ở
đâu, chúng ta có biết không? Và nhất là, chúng ta có muốn biết điều đó không?”[292].

262. Nếu trưởng thành chỉ là sự phát triển một cái gì đó vốn
đã có sẵn trong mã di truyền, thì sẽ không có gì để làm. Sự khôn ngoan, khả
năng phán đoán và lương tri không  phụ
thuộc vào các yếu tố tăng trưởng thuần túy về lượng, nhưng phụ thuộc cả một chuỗi
các yếu tố tổng hợp trong thâm sâu tâm hồn con người; chính xác hơn, nằm ngay
trong trung tâm của tự do con người. Hẳn nhiên, mỗi đứa con sẽ làm ta ngạc
nhiên với các dự tính của chúng xuất phát từ tự do ấy, chúng phá vỡ cả những
khuôn suy nghĩ của cha mẹ, và nếu điều đó có xảy đến thì cũng tốt. Giáo dục gồm
cả nhiệm vụ giúp phát triển sự tự do có trách nhiệm, để tại các giao điểm của
cuộc đời chúng biết lựa chọn với ý ngay lành và thông minh; đào tạo những người
hiểu rõ rằng cuộc sống của mình và của cộng đoàn mình là do mình định đoạt và sự
tự do này là một quà tặng lớn lao.

263. Dẫu cha mẹ cần đến trường học để bảo đảm cho con cái
mình có được một nền giáo dục cơ bản, nhưng họ không bao giờ có thể khoán trắng
việc huấn luyện đạo đức cho con cái nơi một ai khác. Sự phát triển tình cảm và
đạo đức của một con người đòi hỏi một kinh nghiệm cơ bản: tin rằng cha mẹ của
mình là đáng tin cậy. Đó là một trách nhiệm trong giáo dục: với tình thương và
gương sáng cha mẹ tạo sự tin tưởng nơi con cái, truyền cho chúng một lòng kính
trọng trong yêu thương. Khi một đứa con nào đó không còn cảm thấy mình được quý
yêu trước mặt cha mẹ, dù đó là do khuyết điểm của mình, hoặc nó không nhận thấy
cha mẹ đang quan tâm thật sự đến nó, điều đó gây tổn thương sâu sắc và tạo nhiều
nhiều khó khăn trên bước đường trưởng thành của nó. Sự vắng mặt này, tức là sự
bỏ rơi do thiếu tình thương, sẽ gây ra một nỗi đau sâu sắc hơn là một sự sửa dạy
nào đó có thể có do trẻ làm một hành động sai trái.

264. Nhiệm vụ của cha mẹ bao gồm cả việc giáo dục ý chí và
phát triển những thói quen cũng như khuynh hướng tình cảm hướng thiện cho con
cái. Điều đó hàm ý nói đến những cách cư xử tốt đẹp đáng để học tập và những
khuynh hướng cần phát triển dẫn đến sự trưởng thành. Nhưng người ta luôn bàn đến
một tiến trình khởi đi từ sự bất toàn đến sự viên mãn hơn. Ước muốn thích nghi
với xã hội, hoặc thói quen từ bỏ được thỏa mãn ngay lập tức để thích ứng với một
luật lệ và bảo đảm cho mình một cuộc chung sống tốt đẹp, tự nó đã là một giá trị
khởi đầu cho tâm hồn hướng đến những giá trị cao hơn. Việc giáo dục đạo đức phải
luôn được thực hiện bằng những phương pháp tích cực và đối thoại giáo dục liên quan
đến sự nhạy cảm và ngôn ngữ riêng của con cái. Ngoài ra, việc giáo dục này phải
được thực hiện theo cách quy nạp, sao cho đứa trẻ có thể tự mình khám phá được
tầm quan trọng của các giá trị nhất định, các nguyên tắc và luật lệ, thay vì áp
đặt cho nó những điều được xem như là những chân lí dứt khoát.

265. Để hành động tốt thì “phán đoán đúng” hoặc chỉ biết rõ
những gì phải làm thôi cũng chưa đủ, cho dù đó là điều ưu tiên. Nhiều lúc chúng
ta không nhất quán với những xác tín riêng của mình, ngay cả khi chúng chắc chắn.
Ngay cả khi lương tâm nói cho ta về một phán đoán luân lí nhất định, thì những
thứ khác hấp dẫn hơn có khi sẽ lôi cuốn mạnh hơn, nếu  ta chưa đạt được tới mức sự thiện vốn được
tâm trí nắm bắt đã bén rễ trong ta như một thiên hướng tình cảm thâm sâu, như ước
muốn hướng thiện vượt trổi hơn những điều hấp dẫn kia và cho ta cảm thấy rằng sự
thiện mà ta đã nhận biết cũng là sự thiện “cho chúng ta” tại đây và lúc này. Một
sự giáo dục đạo đức hữu hiệu bao hàm việc cho người ta biết nên hành động tới mức
nào thì tốt. Ngày nay, thường sẽ không đạt được hiệu quả khi ta yêu cầu một điều
gì đó đòi hỏi cố gắng và hi sinh từ bỏ mà lại không cho thấy rõ ràng sự thiện
mà người ta có thể đạt được.

266. Cần phải phát triển những thói quen. Ngay cả những thói
quen mà trẻ đã đắc thủ có một vai trò tích cực, chúng giúp chuyển các giá trị
quan trọng đã được nội tâm hóa thành những hành vi bên ngoài lành mạnh và bền vững.
Một đứa bé có thể có tâm tính dễ hòa đồng và sẵn lòng đối xử tốt với người
khác, nhưng nếu trong một thời gian lâu mà không được người lớn nhắc nhở, không
quen nói những tiếng “làm ơn”, “xin lỗi”, “cám ơn”, thì tâm hướng tốt lành đó của
nó không dễ dàng được bày tỏ ra theo cung cách này. Củng cố ý chí và lặp lại những
hành động nhất định nào đó tạo nên hạnh kiểm đạo đức, và không có sự lặp đi lặp
lại có ý thức, tự do và trân trọng những hành vi tốt thì việc giáo dục hạnh kiểm
đó sẽ không hoàn tất. Những lí do, hoặc sự hấp dẫn mà ta cảm thấy về một giá trị
nhất định nào đó, sẽ không trở thành nhân đức nếu không có những hành động vốn
có động lực thúc đẩy thích hợp.

267. Tự do là một cái gì đó rất kì vĩ, nhưng ta cũng có thể
đánh mất nó. Giáo dục đạo đức là vun trồng tự do qua các gợi ý, các động lực,
những áp dụng thực hành, những khích lệ, phần thưởng, gương lành, mẫu mực, biểu
tượng, những suy tư, những lời khuyên dạy, xem xét lại cách hành động và các đối
thoại giúp con người phát triển những nguyên tắc bền vững trong nội tâm, có thể
đi đến mức làm điều tốt một cách bộc phát. Nhân đức là một xác tín đã được chuyển
hóa thành nguyên tắc hành động thuộc nội tâm và bền vững. Bởi thế, đời sống đạo
đức xây dựng tự do, củng cố và giáo dục tự do, qua việc ngăn chặn con người trở
thành nô lệ cho những xu hướng cưỡng bách biến con người thành bất nhân và chống
xã hội. Thật vậy, chính phẩm giá con người đòi hỏi mỗi người phải “hành động
theo sự lựa chọn có ý thức và tự do, nghĩa là được thúc đẩy và xác quyết bởi những
xác tín cá nhân”[293].

268. Tương tự, điều thiết yếu cần giúp trẻ em và thanh thiếu
niên nhận ra rằng mọi hành động xấu đều có hậu quả của nó. Cần khơi dậy nơi
chúng khả năng tự đặt mình vào hoàn cảnh của người khác và hối hận vì đã gây ra
sự dữ làm cho người ta đau khổ. Một số hình phạt – đối với những hành động hung
hăng chống lại xã hội – có thể phần nào đạt được mục tiêu này. Điều quan trọng
là kiên quyết dạy cho trẻ biết xin lỗi và sửa chữa những thiệt hại gây ra cho
người khác. Khi tiến trình giáo dục cho thấy những hoa quả nơi sự trưởng thành
tự do cá nhân, thì chính đứa trẻ đến một lúc nào đó sẽ bắt đầu chân nhận với
lòng tri ân rằng thật là quí hóa khi được lớn lên trong một gia đình và nó cũng
chịu đựng được ngay cả những đòi hỏi mà tiến trình huấn luyện đặt ra.

269. Việc sửa lỗi sẽ là một kích hoạt khi cùng một lúc cha mẹ
đáng giá cao và nhìn nhận những nỗ lực của con trẻ, còn con trẻ thì nhận ra cha
mẹ vẫn tin tưởng kiên nhẫn với nó. Một đứa trẻ được ân cần sửa sai sẽ cảm thấy
mình được quan tâm, nó nhận thấy mình là một ai đó, cảm thấy cha mẹ nhìn nhận
những tiềm năng của mình. Điều này không đòi hỏi cha mẹ phải hoàn hảo, nhưng cần
khiêm tốn nhận biết những hạn chế của mình và chứng tỏ rằng mình cũng rất nỗ lực
để trở nên tốt hơn. Tuy nhiên, một dấu chứng mà con cái cần thấy nơi cha mẹ đó
là không để cho những cơn giận cuốn mình đi. Khi con làm điều xấu, thì phải được
sửa lỗi, nhưng không bao giờ xem con như một kẻ thù hoặc như một đối tượng để
mình trút cơn nóng giận. Ngoài ra, người lớn phải biết rằng một số hành vi xấu
gắn liền với sự mỏng manh và giới hạn tuổi tác của trẻ nhỏ. Bởi thế, việc thường
xuyên sửa phạt có thể sẽ gây tác hại chứ không giúp trẻ cảm nhận được mức độ
nghiêm trọng của các hành vi và gây ra sự chán nản bực bội: “Hỡi những người
làm cha, đừng làm con cái bực tức” (Ep
6,4; cf. Cl 3,21).

270. Điều cơ bản là đừng biến kỉ luật thành một lực kháng hủy
hoại ước muốn, nhưng trở thành một lực đẩy để đi xa hơn. Làm thế nào để hòa nhập
kỉ luật với sức năng động nội tâm? Làm thế nào để đảm bảo kỉ luật là một giới hạn
có tính xây dựng của cuộc hành trình mà đứa trẻ phải đảm nhận, chứ không phải
là một bức tường ngăn chặn hoặc là một lối giáo dục gây ức chế? Cần tìm ra sự
cân bằng giữa hai thái cực có hại như nhau. Một đàng đòi phải xây dựng một thế
giới phù hợp với những ước muốn của con cái, chúng sẽ lớn lên với ý thức mình
là chủ thể của quyền lợi chứ không phải của trách nhiệm. Đàng khác đi đến chỗ
con cái sống mà không ý thức về phẩm giá của mình, về căn tính riêng và các quyền
của mình, chúng bị đè nặng bởi các nghĩa vụ và phục tùng để thực thi những ước
muốn của người khác.

271. Giáo dục đạo đức bao hàm việc chỉ đòi hỏi một đứa bé
hay một người trẻ chỉ những điều đối với chúng không là một hi sinh quá mức chịu
đựng, và chỉ đòi hỏi trong mức độ chúng phải nỗ lực mà không gây phẫn uất hoặc
cảm thấy bị cưỡng bức. Hành trình thông thường là đề ra những bước nhỏ có thể
được hiểu, được chấp nhận và được trân trọng, và bao gồm một sự từ bỏ hợp lí.
Ngược lại, nếu đòi hỏi quá nhiều, thì sẽ không được điều gì cả. Con người ta
ngay khi có thể được giải thoát khỏi quyền bính, có thể sẽ thôi không còn làm
điều tốt nữa.

272. Việc giáo dục đạo đức đôi khi gặp phải phản ứng khinh
thường do con trẻ trải nghiệm mình đã bị bỏ rơi, vì thất vọng, thiếu tình
thương, hoặc một ấn tượng xấu về cha mẹ. Các giá trị đạo đức được phóng chiếu
lên những hình ảnh méo mó của người cha và người mẹ, hoặc những yếu đuối của
người lớn. Bởi thế, ta cần giúp thanh thiếu niên biết áp dụng trong thực tế những
điều tương tự như: những giá trị đạt được cách đặc biệt nơi một số người rất
gương mẫu, nhưng cũng được thể hiện một cách không hoàn hảo và ở các mức độ
khác nhau. Đồng thời, vì những phản kháng của người trẻ thường gắn liền với những
kinh nghiệm tiêu cực, cho nên ta cần giúp họ theo con đường chữa trị vết thương
của thế giới nội tâm này, từ đó họ mới có thể đi đến sự thông cảm và hòa giải với
con người và với xã hội.

273. Trong khi đề ra các giá trị, ta cần tiến hành từ từ,
khai triển bằng nhiều cách khác nhau tùy theo độ tuổi và khả năng cụ thể của
con trẻ, không đòi hỏi phải áp dụng các phương pháp nghiêm ngặt và thiếu uyển
chuyển. Những đóng góp có giá trị của tâm lí học và khoa học giáo dục cho thấy
rằng để làm thay đổi hành vi của một đứa trẻ cần có một quá trình tiệm tiến,
nhưng cũng như tự do nó cần được khai thông và kích thích, vì tự nó tự do không
thể đảm bảo sự trưởng thành của mình. Tự do được đặt trong hoàn cảnh, thực tế,
đó là tự do bị giới hạn và có điều kiện. Tự do đó không đơn thuần là một khả
năng lựa chọn điều tốt hoàn toàn có tính bộc phát. Ta thường không phân biệt được
cách thỏa đáng giữa hành động “tự nguyện” và hành động “tự do”. Một người nào
đó có thể ước muốn rất mạnh mẽ một điều gì đó xấu xa, do một niềm đam mê không
thể cưỡng lại hoặc bởi một nền giáo dục tệ hại. Trong trường hợp như vậy, quyết
định của người ấy đúng thực là tự nguyện, không mâu thuẫn với xu hướng của ý
chí, nhưng đó không phải là tự do, bởi vì hầu như người đó không thể không chọn
điều xấu ấy. Đó là điều xảy ra với người nghiện ngập ma túy không cưỡng lại được.
Khi người đó muốn có ma túy thì anh làm hết sức để có nó, nhưng anh ta đã bị áp
lực cưỡng bức mạnh mẽ đến nỗi lúc đó anh không thể có một quyết định khác hơn.
Vì vậy, quyết định của anh là tự nguyện, nhưng không tự do. Không có nghĩa gì cả
khi nói “hãy để anh tự do lựa chọn”, bởi lẽ thật ra anh không thể chọn lựa, và
càng lao vào ma túy anh càng gia tăng nghiện ngập. Người nghiện cần đến sự giúp
đỡ của người khác và một tiến trình giáo dục.

274. Gia đình là trường học đầu tiên dạy các giá trị nhân bản,
nơi đây người ta học biết  sử dụng tự do
một cách tốt đẹp. Có những xu hướng đã được hình thành chín chắn trong thời thơ
ấu bám rễ sâu trong con người và chúng vẫn còn tồn tại suốt cuộc đời, như một cảm
xúc thuận lợi đối với một giá trị, hoặc như một sự chối bỏ tự phát những lối cư
xử nhất định. Nhiều người hành động trong cả cuộc sống theo một cung cách nhất
định nào đó vì họ xem như vậy là đáng giá, cái cung cách hành động như đã thấm
sâu và trở thành con người của họ từ thời thơ ấu: “Tôi đã được dạy như thế”;
“Đó là những gì tôi đã học”. Trong bối cảnh gia đình, người ta cũng có thể học
biết phân định với tinh thần phê bình các thông điệp do các phương tiện truyền
thông đem lại. Thật đáng buồn, một số chương trình truyền hình hoặc một số hình
thức quảng cáo có ảnh hưởng tiêu cực và hạ thấp những giá trị hấp thụ được từ
trong cuộc sống gia đình.

275. Trong thời đại hiện nay, nơi mà những lo lắng và tốc độ
kĩ thuật ngự trị, nhiệm vụ rất quan trọng của gia đình là giáo dục khả năng biết
chờ đợi. Vấn đề không phải là cấm bọn trẻ chơi với các thiết bị điện tử, nhưng
phải tìm cách để giúp chúng có khả năng phân biệt các lí lẽ khác nhau và không
áp dụng tốc độ kĩ thuật số trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Trì hoãn không phải
là khước từ ước muốn, nhưng là làm chậm lại sự thỏa mãn của mình. Khi trẻ em hoặc
thanh thiếu niên không được giáo dục để chấp nhận rằng có những điều phải chờ đợi,
chúng sẽ trở thành những kẻ kiêu căng độc tài, bắt mọi sự phục tùng để thỏa mãn
nhu cầu trước mắt của chúng và chúng lớn lên cùng với thói hư muốn có “tất cả
ngay lập tức”. Đó là một sự lừa dối kinh khủng vốn không giúp cho tự do triển nở,
mà còn làm hại tự do. Trái lại, khi người ta giáo dục để học biết trì hoãn một
số điều và học biết chờ đợi cho tới thời điểm phù hợp, tức là người ta dạy cho
biết làm chủ bản thân, độc lập trước các xung năng của mình nghĩa là gì. Như thế,
khi trẻ em kinh nghiệm được mình có thể chịu trách nhiệm về chính mình, lòng tự
trọng của chúng càng được phát triển. Đồng thời, điều đó dạy cho chúng biết tôn
trọng quyền tự do của người khác. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là kì vọng
trẻ sẽ hành động như người lớn, nhưng cũng không được xem thường khả năng phát
triển sự tự do trong trách nhiệm đến mức trưởng thành của chúng. Trong một gia
đình lành mạnh, tiến trình học tập này được thực hiện cách thông thường qua những
đòi hỏi của cuộc sống chung.

276. Gia đình là môi trường đầu tiên của việc hòa nhập xã hội,
bởi vì đó là nơi đầu tiên con người học biết đặt mình đối diện với người khác,
để lắng nghe, để chia sẻ, để chịu đựng, để tôn trọng, để giúp đỡ, để chung sống.
Nhiệm vụ của giáo dục là phải khơi dậy cảm nhận về thế giới và xã hội như “bầu
khí gia đình”, dạy ta biết “sống” vượt ra ngoài giới hạn ngôi nhà riêng của
mình. Trong khung cảnh gia đình ta học để làm sống lại sự gần gũi, quan tâm lẫn
nhau, chào hỏi nhau. Nơi đó người ta phá vỡ vòng vây ích kỉ nguy khốn để nhận
ra rằng chúng ta đang sống cùng những người khác, với những người khác, những
người xứng đáng với sự quan tâm, tử tế, và tình cảm của chúng ta. Sẽ không có mối
tương quan xã hội nào nếu không có chiều kích đầu tiên của cuộc sống thường nhật
này, xem ra rất nhỏ nhặt: sống gần gũi bên nhau, hằng ngày chúng ta gặp nhau
lúc này lúc khác, cùng lo đến những điều tất cả chúng ta bận tâm, giúp nhau
trong những điều nhỏ nhặt hằng ngày. Mỗi ngày gia đình phải sáng tạo những cách
thức mới để gia tăng sự nhận biết lẫn nhau.

277. Trong khung cảnh gia đình người ta cũng có thể thiết lập
lại các thói quen tiêu dùng để cùng nhau tiên liệu cho ngôi nhà chung: “Gia
đình là chủ thể chính của một hệ sinh thái toàn diện, bởi lẽ nó là chủ thể xã hội
đầu tiên, chứa đựng trong chính mình hai nguyên lí-nền tảng của nền văn minh
nhân loại trên trái đất: các nguyên lí của hiệp thông và nguyên lí của sự phong
nhiêu”[294]. Cũng vậy, những lúc khó
khăn và gian khổ trong đời sống gia đình có thể dạy ta rất nhiều điều. Chẳng hạn
như khi trong gia đình có một người bệnh, vì “trước hoàn cảnh bệnh hoạn, trong
gia đình cũng phát sinh những khó khăn, nguyên nhân do sự yếu đuối của con người.
Nhưng, nhìn chung, thời gian gia đình có người bệnh lại là thời gian làm tăng sức
mạnh gắn kết gia đình. […] Một nền giáo dục mà đánh mất sự nhạy cảm với bệnh
tật của con người, sẽ làm cho con tim người ta trở nên cằn cỗi. Điều đó làm cho
trẻ “bị tê liệt” trước nỗi đau khổ của người khác, không có khả năng đối đầu với
đau khổ và sống kinh nghiệm các giới hạn”[295].

278. Các công nghệ truyền thông và giải trí ngày càng phong
phú có thể tạo điều kiện thuận lợi hơn hoặc cản trở sự gặp gỡ giữa cha mẹ và
con cái xét về mặt giáo dục. Khi được sử dụng tốt thì chúng có thể hữu ích để nối
kết các thành viên trong gia đình cho dẫu ở xa nhau. Sự liên lạc thường xuyên
có thể giúp giải quyết các khó khăn[296].
Tuy nhiên, cần phải biết rõ rằng chúng không thay thế cho nhu cầu đối thoại cá
nhân và sâu xa hơn vốn cần có một sự tiếp xúc thể lí, hoặc ít nhất, nghe được
tiếng nói của người kia. Chúng ta biết đôi khi những phương tiện này làm cho
người ta cách xa nhau thay vì xích lại gần nhau, như khi đến giờ ăn mà mỗi người
đều chú tâm vào chiếc điện thoại di động của mình, hoặc khi một người đi ngủ
trong khi phải chờ người kia, đang mải mê hàng giờ với một thiết bị điện tử.
Trong gia đình, đây cũng phải là lí do để đối thoại và thỏa thuận với nhau để
làm sao gia đình dành ưu tiên cho sự gặp gỡ của các thành viên mà không rơi vào
những điều cấm đoán phi lí. Tuy nhiên, chúng ta không thể bỏ qua những nguy cơ
của các hình thức truyền thông mới đối với trẻ nhỏ và thanh thiếu niên, chúng
đôi khi làm cho trẻ trở nên thờ ơ, tách rời khỏi thế giới thực. Bệnh “tự kỉ về
kĩ thuật” này dễ dàng đưa trẻ vào tầm thao túng của những người tìm cách xâm nhập
vào thế giới sâu kín của chúng với những bận tâm ích kỉ.

279. Cũng không tốt nếu cha mẹ trở nên độc tài toàn trị đối
với con cái mình, chúng vốn chỉ có thể tin tưởng vào họ, bởi vì như thế là cản
trở một tiến trình thích đáng giúp chúng hòa nhập vào xã hội và trưởng thành
tình cảm. Để hiệu quả của việc làm cha và làm mẹ được nối dài đến với một thực
tại rộng lớn hơn, “các cộng đoàn Kitô hữu được kêu gọi để hỗ trợ cho sứ mạng
giáo dục của gia đình”[297], cách đặc biệt qua huấn
giáo khai tâm. Để hỗ trợ một nền giáo dục toàn diện, chúng ta cần “làm sống lại
giao ước giữa gia đình và cộng đoàn Kitô hữu”[298].
Thượng Hội đồng đã muốn nêu rõ tầm quan trọng của các trường Công giáo, vốn
“đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp cha mẹ hoàn tất bổn phận giáo dục
con cái[299] […]. Các trường Công
giáo cần được khuyến khích trong sứ mạng giúp các em học sinh lớn lên thành người
trưởng thành, những người có thể nhìn thấy thế giới bằng cái nhìn yêu thương của
Chúa Giêsu và hiểu được cuộc sống như một lời mời gọi phục vụ Thiên Chúa”. Theo
nghĩa đó, “cần được khẳng định cách dứt khoát về quyền tự do của Hội thánh về
việc dạy đạo lí và quyền phản đối theo lương tâm của các nhà giáo dục”[300].

280. Công Đồng Vatican II đề cập đến sự cần thiết phải có về
“một nền giáo dục giới tính tích cực và khôn ngoan”, dành cho trẻ em và thanh
thiếu niên “dần theo năm tháng khi chúng lớn lên” và “phải lưu tâm đến những tiến
bộ của tâm lí học, sư phạm và giáo dục”[301].
Chúng ta nên tự hỏi liệu các tổ chức giáo dục của chúng ta đã đảm nhận thách đố
này chưa. Thật khó để nghĩ về vấn đề giáo dục giới tính trong một thời đại khi
người ta có xu hướng tầm thường hóa và làm nghèo nàn tính dục. Người ta chỉ có
thể hiểu được nó trong cái nhìn toàn cảnh của một nền giáo dục về tình yêu, sống
dâng hiến cho nhau. Bằng cách đó, ngôn ngữ của tính dục sẽ không bị làm nghèo
nàn đi một cách đáng buồn, nhưng được khai sáng. Xung năng tính dục có thể được
vun trồng trong một tiến trình nhận biết chính mình và trong sự phát triển năng
lực tự chủ, có thể giúp khơi lên khả năng quí giá của niềm vui và sự gặp gỡ
thân tình.

281. Giáo dục giới tính cung cấp thông tin, nhưng không được
quên rằng trẻ em và thanh thiếu niên chưa đạt tới sự trưởng thành đầy đủ. Thông
tin phải đến đúng thời điểm theo cách thức phù hợp với lứa tuổi. Sẽ không ích lợi
nếu cứ chất đầy cho chúng các dữ liệu mà không phát triển một ý thức phê bình
trước sự xâm lấn của các ý tưởng đề xướng, các văn hóa phẩm khiêu dâm thiếu kiểm
soát và sự tràn ngập của các kích thích có thể gây phương hại đến tính dục. Những
người trẻ phải có khả năng nhận ra rằng chúng đang bị tấn công dồn dập bởi các
thông điệp không mang lại ích lợi gì cho chúng và cho sự trưởng thành của
chúng. Cần giúp chúng nhận biết và tìm kiếm những ảnh hưởng tích cực, đồng thời
giúp chúng tránh xa tất cả những gì làm biến dạng khả năng yêu thương của
chúng. Cũng vậy, chúng ta phải chấp nhận “trước hết cần có một ngôn ngữ mới mẻ
và phù hợp hơn để giới thiệu cho trẻ em và thanh thiếu niên về đề tài tính dục”[302].

282. Nền giáo dục giới tính gìn giữ một cảm thức e thẹn lành
mạnh có một giá trị lớn lao, cho dẫu ngày nay một số người cho rằng đó là một
điều đã lỗi thời. Đó là sự phòng vệ tự nhiên của một nhân vị bảo vệ cõi riêng
tư nội tâm của mình và tránh không để mình biến thành một sự vật đơn thuần bị
người khác sử dụng. Nếu không có cảm thức e thẹn, ta có thể giản lược tình cảm
và tính dục thành những nỗi ám ảnh chỉ chú ý vào hoạt động sinh dục, thành những
bệnh lí làm méo mó khả năng yêu thương của ta và những hình thức khác nhau của
bạo lực tình dục dẫn đến việc đối xử phi nhân tính hoặc làm tổn hại những người
khác.

283. Thông thường giáo dục giới tính tập trung vào việc kêu
gọi người ta “bảo vệ mình” bằng cách tìm thực hành một thứ “tình dục an toàn”.
Những lối nói đó truyền đạt một thái độ tiêu cực đối với mục đích sinh sản tự
nhiên của tính dục, như thể đứa con có thể có là một kẻ thù phải đề phòng. Như
thế là cổ võ thái độ duy kỉ gây hấn thay vì cởi mở đón nhận. Mời gọi thanh thiếu
niên đùa bỡn với thân xác và các thèm muốn của mình, như thể chúng đã có sự trưởng
thành, các giá trị, sự dấn thân cho nhau và các mục đích riêng của hôn nhân, quả
là một điều vô trách nhiệm. Như thế tức là khuyến khích họ vui vẻ sử dụng người
khác như một đối tượng trải nghiệm để bù đắp các khiếm khuyết và những giới hạn
lớn của mình. Trái lại, điều quan trọng là dạy một khóa học về các biểu hiện
khác nhau của tình yêu, về việc chăm sóc lẫn nhau, về sự dịu dàng tôn trọng
nhau, về việc thông giao giàu ý nghĩa. Quả thật, tất cả điều này chuẩn bị cho một
sự tự hiến hoàn toàn và quảng đại mà họ sẽ bày tỏ, sau một cam kết công khai,
qua việc hiến dâng thân xác. Như thế sự kết hợp tính dục trong hôn nhân sẽ thể
hiện như dấu chỉ của một sự cam kết toàn vẹn, được làm cho phong phú nhờ cả quá
trình đi trước.

284. Không được lừa dối người trẻ khiến họ nhầm lẫn giữa các
bình diện: sự hấp dẫn tình dục “nhất thời tạo ra một ảo tưởng của sự nên một,
nhưng nếu không có tình yêu thì sự “nên một” này rốt cuộc vẫn để lại tình trạng
hai người xa lạ và phân li như trước”[303].
Ngôn ngữ của thân xác đòi hỏi học tập kiên trì để biết diễn giải và phải giáo dục
những ham muốn của mình để thật sự tự hiến. Khi người ta tưởng mình trao hiến tất
cả ngay lập tức thì rất có thể là người ta không trao hiến gì hết. Một đàng ta
hiểu đó là sự mong manh và nhầm lẫn của tuổi trẻ, đàng khác là khuyến khích
thanh thiếu niên kéo dài sự ấu trĩ của họ trong cách diễn tả tình yêu. Nhưng,
ngày nay ai là người sẽ nói về những điều này? Ai có thể quan tâm đến các bạn
trẻ? Ai sẽ giúp họ chuẩn bị một cách nghiêm túc để sống cho một tình yêu cao
thượng và quảng đại? Ngày nay người ta quá coi nhẹ việc giáo dục giới tính.

285. Giáo dục giới tính cũng nên bao hàm cả sự tôn trọng và
lòng quí trọng sự khác biệt, điều đó thể hiện nơi mỗi người khả năng vượt qua sự
khép kín trong những giới hạn của chính mình để mở ra đón nhận người khác.
Ngoài những khó khăn có thể hiểu được mà mỗi người có thể gặp phải, người trẻ cần
được giúp đỡ để biết chấp nhận thân xác của mình như nó đã được tạo ra, bởi vì
“nghĩ rằng mình là chủ nhân tuyệt đối của thân xác mình, sẽ dẫn tới có khi
cách tinh vi nghĩ rằng mình cũng là chủ tuyệt đối trên cả tạo thành […].
Quí trọng thân xác mình, là người nam hay là người nữ, cũng cần thiết
để có thể nhận ra chính mình trong cuộc gặp gỡ với tha nhân, một người
khác với mình. Bằng cách đó, chúng ta có thể vui mừng đón nhận tặng
phẩm đặc biệt là tha nhân nam hay nữ kia, vốn là công trình của Thiên
Chúa Tạo Hóa, và giúp làm phong phú cho nhau”[304].
Chỉ bằng cách bỏ đi nỗi sợ sự khác biệt người ta mới có thể đạt đến sự giải
thoát chính mình để khỏi qui hướng về mình và tìm kiếm chính bản thân. Giáo dục
giới tính phải giúp người ta chấp nhận chính thân xác mình, chứ không tìm cách
“xóa bỏ sự khác biệt tính dục để rồi không còn biết phải đối diện với nó ra
sao”[305].

286. Người ta cũng không thể không biết rằng cấu trúc hình
thành nên hiện hữu của mỗi người, nữ cũng như nam, không chỉ là tập hợp những yếu
tố sinh học hay di truyền, mà còn nhiều yếu tố khác liên quan đến tính khí, lịch
sử gia đình, văn hóa, kinh nghiệm sống, nền giáo dục ta đã nhận được, những ảnh
hưởng của bạn bè, người thân trong gia đình và những người ta ngưỡng mộ, cũng
như những hoàn cảnh cụ thể khác đòi hỏi một nỗ lực thích ứng. Quả thực là chúng
ta không thể tách rời nam tính và nữ tính ra khỏi công trình tạo dựng của Thiên
Chúa, vốn là điều có trước tất cả các quyết định và kinh nghiệm của chúng ta và
trong đó có những yếu tố sinh học không thể bỏ qua. Nhưng nam tính và nữ tính
đúng là cái gì đó không phải cứng nhắc. Cho nên, cách thể hiện nam tính của người
chồng, chẳng hạn, có thể linh động thích ứng với hoàn cảnh công việc của người
vợ. Đảm đương việc nhà hoặc một vài công việc chăm sóc con cái không hề làm cho
người chồng giảm đi nam tính của mình, cũng không hàm nghĩa đó là một sự thất bại,
một sự nhượng bộ hay một điều gì đáng xấu hổ. Chúng ta phải giúp trẻ chấp nhận
là bình thường những “hoán đổi” lành mạnh này mà không hề làm giảm sút phẩm giá
hình ảnh của người cha. Quan niệm cứng nhắc về nam tính hay nữ tính sẽ trở
thành quá đáng, và không giáo dục trẻ em cũng như người trẻ về tính hỗ tương được
thâm nhập vào các điều kiện thực tế của hôn nhân. Sự cứng nhắc này, đến lượt
nó, có thể cản trở sự phát triển các năng lực của mỗi người, đến mức có thể coi
những người nam cống hiến cho nghệ thuật hay khiêu vũ là ít nam tính và những
người nữ thi thành nhiệm vụ điều hành thì ít nữ tính. Điều này, cảm ơn Chúa,
nay đã thay đổi, nhưng tại một số nơi những quan niệm không phù hợp vẫn tiếp tục
gây ảnh hưởng đến sự tự do chính đáng và làm hư sự phát triển đích thực về căn
tính cụ thể của con cái và tiềm năng của chúng.

287. Giáo dục con cái phải đi qua một hành trình thông truyền
đức tin, một việc trở nên khó khăn do lối sống hiện tại, giờ giấc làm việc,
tính phức tạp của thế giới ngày nay, trong đó nhiều người, để tồn tại, phải chịu
một nhịp độ điên cuồng[306]. Dù sao, gia đình vẫn phải
tiếp tục là nơi học biết những lí lẽ và vẻ đẹp của đức tin, để cầu nguyện và phục
vụ tha nhân. Điều này bắt đầu với bí tích Rửa tội, trong đó, như Thánh
Augustinô nói, các bà mẹ nuôi dạy con mình là để “cộng tác vào sự sinh hạ thánh
thiêng”[307]. Sau đó, khởi sự hành
trình tăng trưởng sự sống mới này. Đức tin là một ơn huệ của Thiên Chúa mà ta
lãnh nhận trong bí tích Rửa tội, chứ không phải là kết quả của một hành động
phàm nhân, tuy nhiên cha mẹ là phương thế Thiên Chúa dùng để giúp cho đức tin của
con cái được trưởng thành và phát triển. Bởi thế, “thật tuyệt vời khi các bà mẹ
dạy cho con nhỏ của mình làm cử chỉ hôn Chúa Giêsu hay Đức Mẹ. Một cử chỉ dịu
dàng tình cảm biết bao! Khi ấy trái tim của con trẻ sẽ trở thành nơi cầu nguyện”[308]. Thông truyền đức tin giả
định rằng cha mẹ thực sự sống kinh nghiệm đức tin, tin tưởng vào Chúa, tìm kiếm
Ngài, cần đến Ngài, bởi lẽ chỉ bằng cách này “đời nọ tới đời kia, thiên hạ đề
cao sự nghiệp Chúa, và truyền tụng những chiến công của Ngài” (Tv 144,4) và “ người cha sẽ dạy cho con
cái rõ Ngài là Đấng tín trung” (Is 38,19).
Điều này đòi hỏi chúng ta kêu xin Chúa hành động trong tâm hồn của con cái, nơi
mà chúng ta không thể chạm đến được. Hạt cải rất bé nhỏ sẽ trở thành một cây lớn
(cf. Mt 13,31-32), và như thế chúng
ta nhận ra sự không cân đối giữa việc làm và hiệu quả. Bởi thế, chúng ta biết rằng
mình không phải là chủ nhân của tặng phẩm nhưng là những người quản lí cần mẫn.
Tuy nhiên, nỗ lực sáng tạo của chúng ta là một đóng góp giúp chúng ta cộng tác
với kế hoạch của Thiên Chúa. Vì thế, “phải chăm lo quí trọng các đôi vợ chồng,
những người mẹ và những người cha, như những chủ thể tích cực của việc huấn
giáo […]. Việc huấn giáo trong gia đình là một trợ lực lớn lao, như một
phương pháp hiệu quả nhằm huấn luyện các cha mẹ trẻ và làm cho họ ý thức sứ mạng
của mình như là những người loan báo Tin mừng cho chính gia đình mình”[309].

288. Việc giáo dục đức tin biết thích ứng với mỗi đứa trẻ, bởi
vì các phương thế đã học hoặc các công thức đôi khi không còn tác dụng. Trẻ nhỏ
cần các biểu tượng, những hành động, và những chuyện kể. Thanh thiếu niên thường
dị ứng với uy quyền và các qui tắc, vì thế tốt hơn nên khích lệ kinh nghiệm đức
tin cá nhân của các em và cung cấp cho các em những chứng tá sáng ngời nhằm
thuyết phục bởi chính vẻ đẹp của những chứng tá ấy. Cha mẹ muốn đồng hành đức
tin với con cái mình cần chú ý đến những thay đổi của chúng, vì họ biết rằng
kinh nghiệm tâm linh không áp đặt nhưng đề nghị trong sự tự do. Điều quan trọng
là con cái nhìn thấy một cách cụ thể đối với cha mẹ chúng việc cầu nguyện thật
sự là quan trọng. Bởi thế, những khoảnh khắc cầu nguyện trong gia đình và những
diễn tả lòng đạo đức bình dân có thể có sức loan báo Tin mừng mạnh hơn bất kì
việc dạy giáo lý và bài giảng đạo nào. Tôi muốn bày tỏ cách đặc biệt lòng biết
ơn đến tất cả các bà mẹ không ngừng cầu nguyện, như Thánh nữ Monica, cho những
người con của mình đang lạc xa Chúa Kitô.

289. Thực hành việc thông truyền đức tin cho con cái, theo
nghĩa tạo thuận lợi cho việc biểu lộ và phát triển đức tin, cho phép gia đình
trở thành nhà rao giảng Tin mừng, và một cách tự nhiên gia đình bắt đầu thông
truyền đức tin cho mọi người xung quanh, ngay cả những người bên ngoài phạm vi
gia đình. Những đứa con lớn lên trong các gia đình truyền giáo thường trở thành
những nhà truyền giáo, nếu như cha mẹ biết cách sống sứ vụ này, bằng cách đó
người khác cảm thấy họ gần gũi và thân thiện, và như thế con cái lớn lên theo
cách tương quan này với thế giới mà không từ bỏ đức tin và những xác tín của
mình. Chúng ta nên nhớ rằng chính Đức Giêsu đã ăn uống với những người tội lỗi
(cf. Mc 2,16; Mt 11,19), Người đã dừng lại để trò chuyện với người phụ nữ Samaria
(cf. Ga 4,7-26), và tiếp chuyện với
ông Nicôđêmô vào ban đêm (cf. Ga 3,1-21),
Người còn để cho một cô gái điếm xức dầu bàn chân mình (cf. Lc 7,36-50), và đã không ngần ngại đụng chạm các người bệnh (cf. Mc 1,40-45; 7,33). Các Tông đồ của Người
cũng làm như vậy, họ không phải là những người xem thường người khác, không
khép kín trong những nhóm nhỏ của những người đặc tuyển, tách khỏi cuộc sống của
dân chúng. Trong khi chính quyền bách hại họ, họ lại được hưởng lòng yêu mến của
toàn dân (cf. Cv 2,47; 4,21.33;
5,13).

290. “Gia đình như thế là chủ thể của hoạt động mục vụ thông
qua việc loan báo Tin mừng cách minh nhiên và sự kế thừa đa dạng các hình thức
chứng tá như: sự liên đới với những người nghèo, sự đón nhận những con người
khác biệt, việc bảo vệ thiên nhiên, sự liên đới tinh thần và vật chất với các
gia đình khác, nhất là với những gia đình túng quẫn nhất, việc dấn thân cho sự
thăng tiến công ích ngay cả qua việc làm thay đổi những cơ cấu xã hội bất công,
bắt đầu từ địa hạt nơi gia đình đang sống, bằng cách thực hành các việc thương
xót về phần xác lẫn phần linh hồn”[310].
Điều này phải được đặt trong bối cảnh của niềm xác tín quí giá nhất nơi các
Kitô hữu, đó là: tình yêu của Chúa Cha nâng đỡ chúng ta và làm cho chúng ta lớn
lên, tình yêu ấy được thể hiện trong sự hiến thân trọn vẹn của Đức Giêsu, Đấng
đang sống giữa chúng ta, tình yêu ấy làm cho chúng ta có khả năng một lòng một
ý đương đầu với mọi bão tố và mọi giai đoạn của cuộc đời. Ngay giữa lòng mỗi
gia đình lời loan báo Tin mừng tiên khởi (kerygma)
cũng cần phải được vang lên, cả khi thuận lợi cũng như không thuận lợi, để khai
sáng cho cuộc hành trình. Khởi đi từ kinh nghiệm sống trong gia đình, mọi người
đều có thể thốt lên rằng: “Chúng tôi đã tin vào tình yêu mà Thiên Chúa đã dành
cho chúng tôi” (1 Ga 4,16). Chỉ từ
kinh nghiệm này, mục vụ gia đình mới có thể giúp các gia đình, vừa là những Hội
thánh tại gia vừa là men Phúc âm hóa trong xã hội.

291. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã khẳng định cho dẫu Hội
thánh nói rằng mọi cắt đứt ràng buộc hôn phối đều “chống lại ý muốn của Thiên
Chúa, nhưng cũng ý thức nhiều con cái mình đang sống trong hoàn cảnh chông
chênh”[311]. Được soi sáng bởi cái
nhìn của Đức Kitô, “Hội thánh thương yêu ghé mắt đến những anh chị em đang tham
dự vào đời sống của Hội thánh một cách không trọn vẹn, trong khi nhìn nhận rằng
ân sủng của Chúa cũng hoạt động trong cuộc đời của họ bằng cách ban cho họ sức
mạnh để làm điều thiện, để chăm sóc cho nhau bằng tình yêu thương và phục vụ cộng
đoàn nơi họ sinh sống và làm việc”[312].
Đàng khác, thái độ này được thúc đẩy thêm trong bối cảnh của Năm Thánh dành
riêng cho lòng thương xót. Mặc dù Hội thánh luôn đề xướng sự hoàn thiện và mời
gọi đáp lại Thiên Chúa cách trọn vẹn hơn, “Hội thánh cũng phải đồng hành bằng sự
ân cần chăm sóc những đứa con yếu đuối nhất của mình, vốn ghi dấu bởi tình yêu
bị tổn thương và lạc lối, bằng cách khôi phục lại cho họ niềm tin và hi vọng,
như ánh sáng của một ngọn hải đăng hoặc một ngọn đuốc được đặt giữa mọi người hầu
soi sáng cho những người đã lầm đường lạc lối hoặc đang ở giữa bão tố cuộc đời”[313]. Chúng ta đừng quên rằng
thường công việc của Hội thánh giống như công việc của một bệnh viện dã chiến.

292. Hôn nhân Kitô giáo, phản ánh sự kết hợp giữa Đức Kitô
và Hội thánh của Người, được thực hiện một cách trọn vẹn trong sự kết hợp giữa
một người nam và một người nữ, họ hiến thân cho nhau trong một tình yêu độc hữu
và sự trung thành trong tự do, họ thuộc về nhau cho đến chết và mở ra cho việc
truyền sinh, họ được thánh hiến bởi bí tích trao ban ân sủng để xây dựng một Hội
thánh tại gia và men của sự sống mới cho xã hội. Các hình thức kết hợp khác đều
hoàn toàn nghịch lại với lí tưởng này, trong khi một số người lại thực hiện lí
tưởng này ít là một cách phiến diện hay loại suy. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng
đã khẳng định rằng Hội thánh không xem nhẹ các yếu tố mang tính xây dựng trong
những hoàn cảnh chưa phù hợp hoặc không còn phù hợp với giáo huấn của mình về
hôn nhân[314].

293. Các Nghị phụ cũng xem xét hoàn cảnh đặc biệt của một cuộc
hôn nhân thuần túy dân sự hoặc thậm chí, ở đây cần có sự phân biệt, chỉ là một
sự sống chung, trong đó “khi sự kết hợp đạt đến một sự ổn định đáng kể qua một
mối liên kết công khai nào đó, chứng tỏ có một tình cảm sâu nặng và trách nhiệm
đối với con cái, có khả năng vượt qua các thử thách, thì có thể được xem như một
cơ hội đồng hành nhằm phát triển đến bí tích hôn phối”[315].
Đàng khác, điều đáng lo ngại là ngày nay nhiều người trẻ không tin tưởng vào
hôn nhân và họ sống chung nhưng trì hoãn vô thời hạn việc cam kết hôn nhân,
trong khi những người khác chấm dứt sự cam kết mình đã đảm nhận để rồi lập tức
làm một sự cam kết mới. Những ai “là thành phần thuộc Hội thánh thì cần được
quan tâm chăm sóc mục vụ với đầy lòng thương xót và khích lệ”[316]. Thật vậy, các Mục tử
không những chỉ quan tâm thăng tiến hôn nhân Kitô giáo, mà còn phải lo “phân định
mục vụ về hoàn cảnh của nhiều người không còn sống thực tại ấy”, để “đi vào đối
thoại mục vụ với những người này nhằm xác định rõ ràng các yếu tố của đời sống
họ có thể dẫn đến một sự cởi mở hơn với Tin mừng về hôn nhân ở mức trọn vẹn của
nó”[317]. Trong việc phân định mục
vụ này cần “nhận diện các yếu tố có thể thúc đẩy việc Phúc Âm hóa và phát triển
nhân bản cũng như thiêng liêng”[318].

294. “Người ta lựa chọn hôn nhân dân sự hoặc, trong một số
trường hợp khác nhau, đơn giản chỉ là sống chung, thường không bị thúc đẩy bởi
thành kiến hay phản kháng đối với kết hợp bí tích, nhưng do hoàn cảnh văn hóa
hay ngẫu nhiên”[319]. Trong những hoàn cảnh này
ta có thể trân trọng những dấu chỉ của tình yêu, một cách nào đó chúng phản ánh
tình yêu của Thiên Chúa[320]. Chúng ta biết “liên tục
ngày càng có nhiều người, sau một thời gian dài sống chung với nhau, xin cử
hành hôn phối trong nhà thờ. Việc đơn thuần sống chung thường là sự chọn lựa bởi
tâm thức phổ biến đó là chống lại các định chế và những dấn thân dứt khoát,
nhưng cũng vì muốn chờ đợi cho tới khi một cuộc sống Ổn định hơn (có việc làm
và mức lương cố định). Sau hết, tại một số quốc gia, những sự kết hợp trên thực
tế có rất nhiều, không chỉ vì họ bác bỏ các giá trị của gia đình và hôn nhân,
nhưng nhất là vì việc kết hôn được xem là một việc rất tốn kém, do những hoàn cảnh
xã hội, như thế sự khó nghèo vật chất đã đưa đẩy họ đến chỗ sống kết hợp trên
thực tế”[321]. Dù sao đi nữa, “tất cả những
hoàn cảnh này cần phải được đối diện giải quyết một cách xây dựng, bằng cách biến
chúng thành những cơ hội để tiến dần tới hôn nhân và gia đình trọn vẹn trong
ánh sáng của Tin mừng. Điều quan trọng là đón nhận và đồng hành với họ bằng sự
kiên nhẫn và tế nhị”[322]. Đó là điều mà Đức Giêsu
đã làm với người phụ nữ Samaria (Ga
4,1-26): Người đề cập đến khát vọng tình yêu đích thực của chị, để giải thoát
chị khỏi những gì làm u tối cuộc đời chị và đưa chị đến niềm vui trọn vẹn của
Tin mừng.

295. Theo hướng đó, Thánh Gioan Phaolô II đề nghị điều gọi
là “luật tiệm tiến”, với nhận thức rằng con người “hiểu biết, yêu mến và thực
thi sự thiện luân lí theo những giai đoạn phát triển khác nhau”[323]. Đó không phải là một “sự
tiệm tiến của luật”, nhưng là một sự tiệm tiến trong việc thực hiện cách khôn
ngoan những hành động tự do nơi những chủ thể không ở trong điều kiện hiểu biết,
đánh giá hoặc thực hành cách đầy đủ các đòi hỏi khách quan của luật. Bởi vì
ngay cả luật cũng là quà tặng của Thiên Chúa nhằm để chỉ đường, một quà tặng
cho tất cả mọi người không trừ một ai để người ta có thể sống với sự trợ giúp của
ân sủng, dẫu rằng mỗi người “từ từ thẳng tiến, bằng việc hội nhập dần dần giữa
các ơn huệ của Thiên Chúa với những đòi hỏi của tình yêu dứt khoát và tuyệt đối
của Ngài vào trong toàn thể đời sống cá nhân và xã hội của con người”[324].

296. Thượng Hội đồng đã đề cập đến những hoàn cảnh khác nhau
của con người mỏng manh hay bất toàn. Về vấn đề này, ở đây tôi muốn nhắc lại điều
mà tôi đã muốn làm sáng tỏ cho toàn thể Hội thánh, để tránh đi lạc đường: “có
hai dòng suy nghĩ vẫn lưu chuyển trong toàn bộ lịch sử của Hội thánh: loại trừ
và tái hòa nhập […]. Con đường của Hội thánh, kể từ Công Đồng Giêrusalem trở
đi, luôn là con đường của Đức Giêsu: con đường của lòng thương xót và của sự
hòa nhập […]. Con đường của Hội thánh là không lên án vĩnh viễn bất cứ ai; là
con đường tuôn đổ lòng thương xót của Thiên Chúa cho tất cả những ai thành tâm
kêu xin […]. Vì bác ái đích thực luôn vô cùng đại lượng, vô điều kiện và vô cầu”[326]. Vì thế, “cần phải tránh
những phán quyết mà không xét đến tính phức tạp của các hoàn cảnh khác nhau, và
cần phải lưu tâm tới cách thế mà người ta đang sống và khốn khổ vì điều kiện sống
của họ”[327].

297. Điều quan trọng là làm sao hội nhập hết mọi người, phải
giúp mỗi người tìm ra cách thế riêng để tham dự vào cộng đoàn Hội thánh, để họ
cảm thấy mình được chạm đến bởi một lòng thương xót “vô cùng đại lượng, vô điều
kiện và vô cầu”. Không ai có thể bị kết án mãi mãi, bởi vì đó không phải là lối
suy nghĩ của Tin mừng! Tôi không chỉ muốn nói đến những người đã li dị và đang
sống một sự kết hợp mới, nhưng nói với mọi người, đang sống trong bất cứ hoàn cảnh
nào. Tất nhiên, nếu ai đó phơi bày một tội khách quan như thể đó là một phần của
lí tưởng Kitô giáo, hoặc muốn áp đặt một điều gì đó khác với những gì Hội thánh
dạy, thì người ấy không thể tự cho là mình đang dạy giáo lí hay rao giảng, và
theo nghĩa đó thì người ấy một cách nào đó đã tách mình ra khỏi cộng đoàn (cf. Mt 18,17). Người ấy cần phải nghe loan
báo lại sứ điệp Tin mừng và được mời gọi hoán cải. Thế nhưng, ngay cả đối với một
người như thế, vẫn có thể có một cách nào đó để họ tham gia vào đời sống của cộng
đoàn, ví dụ như: dấn thân trong các công tác xã hội, trong các buổi hội họp cầu
nguyện, hoặc theo cách nào đó do sáng kiến cá nhân người ấy có thể đề nghị,
cùng với sự phân định của vị Mục tử. Về cách xử lý những hoàn cảnh được gọi là
“bất qui tắc”, các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã đạt đến một sự đồng thuận chung
mà tôi ủng hộ: “Khi xét đến đường lối mục vụ dành cho những người đã kí kết hôn
phối dân sự, những người đã li dị và tái hôn, hoặc chỉ đơn thuần là sống chung,
Hội thánh phải giúp cho họ hiểu khoa sư phạm ân sủng Thiên Chúa trong đời sống
của họ và giúp họ đạt đến sự viên mãn của kế hoạch Thiên Chúa nơi họ”[328], điều này luôn khả thi nhờ
sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

298. Những người li dị và đang sống một sự kết hợp mới, chẳng
hạn, có thể thuộc về nhiều hoàn cảnh rất khác nhau, dù vậy ta cũng không nên
phân loại xếp hạng mục hoặc khép họ vào những phạm trù quá cứng nhắc đến nỗi
không còn chỗ cho một phân định cá nhân và mục vụ phù hợp. Một sự kiện có thể xảy
ra là sự kết hợp lần thứ hai đã ổn định theo thời gian, với những đứa con mới,
chứng tỏ có sự trung thành, có sự cống hiến quảng đại, dấn thân sống đức tin
Kitô giáo, ý thức tình trạng bất qui tắc của mình và rất khó quay trở lại mà
lương tâm không cảm thấy rằng mình không thể tránh khỏi lại rơi vào những sai lỗi
mới. Hội thánh nhận biết những hoàn cảnh trong đó “người nam và người nữ, vì những
lí do hệ trọng – như nuôi dạy con cái – không thể thỏa mãn sự đòi buộc phải
chia tay”[329]. Cũng một trường hợp của
những người đã nỗ lực nhiều để cứu cuộc hôn nhân đầu tiên của họ và đã bị bỏ
rơi một cách bất công, hoặc trường hợp của “những người đã kí kết một kết ước
thứ hai nhằm mục đích nuôi dạy con cái, và đôi khi trong lương tâm họ chủ quan
tin rằng cuộc hôn nhân trước đây của họ đã đổ vỡ vô phương cứu vãn, chưa bao giờ
thành sự”[330]. Có một trường hợp khác nữa,
đó là một sự kết hợp mới xảy ra từ một cuộc li dị chưa lâu, với tất cả những hậu
quả của khổ đau và hoang mang gây ra cho con cái và toàn thể gia đình, hoặc trường
hợp của một người liên tục bỏ bê bổn phận gia đình. Cần phải thấy rõ rằng đó
không phải là lí tưởng mà Tin mừng đề ra cho hôn nhân và gia đình. Các Nghị phụ
Thượng Hội đồng đã khẳng định rằng các Mục tử phải luôn luôn làm sao để “phân định
thật thích đáng”[331], với một cái nhìn phân định
rõ ràng các hoàn cảnh[332]. Chúng ta biết rằng không
có “những toa thuốc đơn giản”[333].

299. Tôi đồng ý với những nhận định của nhiều Nghị phụ Thượng
Hội đồng, các ngài muốn khẳng định rằng “những người đã được rửa tội mà li dị
và tái hôn về mặt dân sự cần phải được hội nhập nhiều hơn vào cộng đoàn Kitô hữu
theo nhiều cách khác nhau, trong khi tránh mọi dịp gây gương xấu. Lí do của việc
hội nhập là chìa khóa cho việc đồng hành mục vụ với họ, để không những họ biết
mình thuộc về Thân Thể Chúa Kitô, là Hội thánh, mà còn có thể có một kinh nghiệm
thuộc về Hội thánh tràn đầy niềm vui và sinh nhiều hoa trái. Họ là những người
đã được rửa tội, là anh chị em, những người Chúa Thánh Thần đổ xuống muôn vàn
ơn huệ và đặc sủng vì thiện ích của mọi người. Họ có thể tham gia vào nhiều việc
phục vụ khác nhau trong Hội thánh: do đó, cần phân định xem có thể vượt qua những
hình thức loại trừ nào đang được thi hành trong lãnh vực phụng vụ, mục vụ, giáo
dục và cơ chế. Không những không được làm cho họ cảm thấy bị dứt phép thông
công, mà còn phải làm cho họ cảm thấy có thể sống và trưởng thành như những
thành viên sống động của Hội thánh, cảm thấy Hội thánh như một người Mẹ luôn
đón nhận họ, ân cần trìu mến chăm sóc họ và khích lệ họ trên hành trình cuộc sống
và Tin mừng. Việc hội nhập này cũng cần thiết cho việc chăm sóc và giáo dục đức
tin Kitô giáo cho con cái họ, là những đối tượng phải được xem là quan trọng nhất”[334].

300. Nếu chúng ta xét đến rất nhiều hoàn cảnh cụ thể khác
nhau, như những hoàn cảnh mà chúng tôi đã đề cập ở trên, thì có thể hiểu được rằng
không nên mong đợi từ Thượng Hội đồng hoặc từ Tông Huấn này một khoản luật
chung mới về Giáo luật, có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp. Ở đây chỉ có
thể là một sự khích lệ mới, cổ võ một sự phân định cá nhân và mục vụ, với tinh
thần trách nhiệm, các trường hợp đặc biệt, trong đó ta phải nhìn nhận rằng, vì
“mức độ trách nhiệm không như nhau trong mọi trường hợp”[335],
nên các hệ quả hoặc các hiệu quả của một luật lệ không nhất thiết phải luôn giống
nhau[336]. Các linh mục có nhiệm vụ
“đồng hành với những người có liên hệ trên con đường phân định dựa theo giáo huấn
của Hội thánh và những hướng dẫn của Giám mục. Trong tiến trình này sẽ rất hữu
ích nếu ta thực hiện một cuộc xét mình, qua những lúc hồi tâm và thống hối. Những
người li dị tái hôn nên tự hỏi xem mình đã sống thế nào đối với con cái khi mối
liên kết vợ chồng đi vào khủng hoảng; tự hỏi xem mình đã có những nỗ lực hòa giải
hay không; xem người phối ngẫu bị bỏ rơi đang sống thế nào; mối quan hệ mới có
những hậu quả gì trên những người khác trong gia đình và cộng đoàn tín hữu; xét
xem mẫu gương nào mình đang cống hiến cho các bạn trẻ đang chuẩn bị hôn nhân. Một
sự hồi tâm chân thành có thể củng cố niềm tin vào lòng thương xót của Thiên
Chúa vốn không từ chối bất cứ ai”[337].
Vấn đề là một lộ trình đồng hành và phân định nhằm hướng dẫn các tín hữu này đi
đến ý thức về tình trạng của họ trước mặt Thiên Chúa. Trao đổi với linh mục, ở
tòa trong, sẽ góp phần đào luyện một phán đoán đúng đắn về những gì gây cản trở
cho khả năng tham dự đầy đủ hơn vào đời sống của Hội thánh, và về các bước có
thể xúc tiến và phát triển khả năng đó. Đành rằng trong chính lề luật không có
sự tiệm tiến (cf. Familiaris Consortio,
34), nhưng việc phân định này sẽ không bao giờ được phép bỏ qua những yêu sách
của sự thật và bác ái theo Tin mừng như Hội thánh đề nghị. Để có được sự phân định
ấy, phải bảo đảm có các điều kiện cần thiết sau đây, đó là: sự khiêm tốn, cẩn
trọng, lòng yêu mến Hội thánh và giáo huấn của Hội thánh, trong tâm thành tìm
kiếm thánh ý Thiên Chúa và khao khát đáp lại thánh ý Ngài cách hoàn hảo hơn”[338]. Đó là những thái độ cơ bản
thiết yếu để tránh những nguy cơ nghiêm trọng của việc hiểu sai lệch, chẳng hạn
như cho rằng một linh mục có thể dễ dàng chuẩn chước cho các trường hợp “ngoại
lệ”, hoặc cho rằng một số người có thể nhận được đặc ân bí tích bằng cách mua
chuộc. Khi một người có trách nhiệm và thận trọng, nghĩa là người đó không có ý
đặt những ước muốn riêng của mình trên lợi ích chung của Hội thánh, gặp một Mục
tử biết nhận ra tính nghiêm túc của vấn đề mà mình đang phải giải quyết, thì
tránh được nguy hiểm khi làm một sự phân định nào đó mà người ta có thể nghĩ rằng
Hội thánh ủng hộ một nền luân lí hai mặt.

301. Để hiểu cho đúng tại sao có thể và cần phải có một sự
phân định đặc biệt trong một số hoàn cảnh gọi là “bất qui tắc”, có một vấn đề
ta luôn phải lưu ý, đó là làm sao để đừng bao giờ làm cho người ta nghĩ rằng
mình muốn giảm thiểu những đòi hỏi của Tin mừng. Hội thánh có một lối suy tư vững
chắc về những điều kiện và những hoàn cảnh giảm khinh. Bởi thế, người ta không
thể nói rằng tất cả những người đang ở trong một hoàn cảnh gọi là “trái qui tắc”
là đang sống trong tình trạng tội trọng, mất đi ơn thánh hóa. Các giới hạn đó
không chỉ tùy thuộc vào sự thiếu hiểu biết về luật. Một người, dù biết rõ luật,
cũng có thể gặp khó khăn lớn trong việc hiểu biết “các giá trị hàm ẩn trong
nguyên tắc luân lí”[339], hoặc có thể đương sự đang
ở trong các điều kiện cụ thể không cho phép người ấy hành động khác đi và có những
quyết định khác mà không mắc một tội mới. Như các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã
nói rõ “có thể có những nhân tố làm giới hạn khả năng quyết định”[340]. Thánh Tôma Aquinô đã nhìn
nhận rằng một người có thể có ân sủng và đức ái, nhưng không thể thi hành tốt một
vài nhân đức[341], nói cách khác, ngay cả
khi người ấy sở hữu tất cả các nhân đức luân lí được ban cho, anh cũng không thể
hiện rõ nét một nhân đức nào đó trong số đó, bởi vì việc thực hành bên ngoài
nhân đức ấy gặp khó khăn: “Người ta nói rằng một vài vị thánh không có một số
nhân đức nhất định, chính vì các ngài gặp khó khăn trong việc thể hiện bằng
hành vi về các nhân đức ấy, […] cho dù các ngài có các nhân đức khác”[342].

302. Về những yếu tố điều kiện hóa này, Sách Giáo Lí Hội
thánh Công Giáo diễn tả rõ ràng: “Việc quy tội và trách nhiệm một hành động nào
đó có thể được giảm thiểu và thậm chí có thể được loại bỏ vì lý do không biết,
không chú ý, do áp lực, do cưỡng ép, do sợ hãi, do thói quen, do quá gắn bó và
do các nguyên nhân khác về tâm thần hoặc xã hội”[343].
Trong một đoạn văn khác sách Giáo Lí cũng đề cập đến những hoàn cảnh làm giảm
nhẹ trách nhiệm luân lí, và đề cập khá dài, về sự thiếu trưởng thành tình cảm,
áp lực của các thói quen thủ đắc, tâm trạng lo âu hoặc các yếu tố khác về tâm
lí hoặc xã hội[344]. Do đó, một phán quyết
tiêu cực về một hoàn cảnh khách quan không bao hàm một phán quyết về việc quy
trách nhiệm hoặc mức phạm lỗi của người liên hệ[345].
Trong bối cảnh của những xác tín này, tôi xét thấy rất thích hợp những điều mà
nhiều Nghị phụ Thượng Hội đồng đã muốn ủng hộ: “Trong một số hoàn cảnh nhất định
người ta thấy rất khó hành động cách khác. […] Việc phân định mục vụ, trong
khi có lưu ý đến lương tâm được đào tạo đúng đắn của con người, còn phải xét đến
những hoàn cảnh này nữa. Những hậu quả về những hành vi đã làm cũng không nhất
thiết phải giống nhau trong tất cả các trường hợp”[346].

303. Khởi đi từ việc nhìn nhận mức ảnh hưởng của những yếu tố
cụ thể của hoàn cảnh, đối với một số hoàn cảnh mà người ta không thể hiện một
cách khách quan về quan niệm hôn nhân của chúng ta được, thì trong thực hành, Hội
thánh cần xét đến lương tâm của người ta nhiều hơn. Tất nhiên chúng ta cần khuyến
khích sự trưởng thành của một lương tâm được khai sáng, được huấn luyện và được
đồng hành nhờ sự phân định có trách nhiệm và nghiêm túc của người Mục tử, và
khích lệ ngày càng tin tưởng hơn nữa vào ơn sủng Chúa. Thế nhưng lương tâm này
có thể nhận ra không chỉ có một hoàn cảnh không phù hợp cách khách quan với các
đòi hỏi chung của Tin mừng; lương tâm đó cũng có thể nhận ra trong sự chân
thành và trung thực điều mà lúc này đây có thể dâng lên Thiên Chúa đó là một sự
đáp trả quảng đại, và việc khám phá với một sự chắc chắn luân lí nào đó chính
là sự dâng hiến mà Thiên Chúa đang mời gọi giữa bao giới hạn của hoàn cảnh cụ
thể phức tạp, dẫu nó chưa hoàn toàn là lí tưởng khách quan. Dù sao đi nữa,
chúng ta hãy nhớ rằng sự phân định này có tính chất năng động và phải luôn mở
ra cho những giai đoạn phát triển mới và những quyết định mới giúp thực hiện lí
tưởng được trọn vẹn hơn.

304. Quả là hạn hẹp khi chỉ dừng lại xét xem liệu hành động
của một người có phù hợp với một khoản luật hoặc một qui tắc chung hay không, bởi
lẽ điều đó không đủ để phân định và bảo đảm một sự trung tín trọn vẹn với Thiên
Chúa trong cuộc sống cụ thể của một con người. Tôi tha thiết xin chúng ta luôn
nhớ điều thánh Tôma Aquinô dạy và học biết vận dụng vào việc phân định mục vụ của
mình: “Dẫu rằng có sự tất yếu nào đó trong những nguyên tắc chung, nhưng càng
đi vào những trường hợp riêng biệt, càng gặp thấy điều bất tất. […] Trong
lãnh vực thực hành, chân lí hoặc qui luật thực hành thì không như nhau đối với
mọi người trong những áp dụng riêng, mà chỉ đúng cho các nguyên tắc chung thôi;
và ngay cả nơi những người chấp nhận cùng một qui luật thực hành như nhau trong
những trường hợp riêng, qui luật ấy cũng không phải được mọi người biết đến
[…]. Và càng gia tăng điều bất định nếu càng đi sâu vào cái đặc thù”[347]. Đúng là các qui luật
chung nói lên một thiện ích mà chúng ta không bao giờ được xem thường hay bỏ
qua, nhưng trong công thức, chúng không thể bao trọn tuyệt đối mọi hoàn cảnh đặc
thù. Đồng thời, phải nói rằng, chính vì lí do này, những gì là thành phần làm
nên sự phân định thực tế trước một hoàn cảnh riêng không thể nâng lên mức độ của
một qui luật. Điều đó sẽ không những làm nảy sinh một kiểu giải nố không chấp
nhận được, mà còn đe dọa các giá trị mà ta phải đặc biệt quan tâm gìn giữ[348].

305. Bởi thế, một Mục tử không thể cảm thấy hài lòng chỉ bằng
cách áp dụng cho những người sống trong những hoàn cảnh “bất qui tắc” các luật
luân lí, như những viên đá ném vào cuộc sống của con người. Đó là trường hợp của
những cõi lòng khép kín, thường ẩn nấp sau những giáo huấn của Hội thánh “để ngồi
trên tòa ông Môsê và phán quyết đôi khi với thái độ tự tôn và hời hợt đối với
các trường hợp khó khăn và những gia đình bị thương tích”[349].
Cũng trong đường hướng đó, Ủy ban thần học quốc tế đã nói lên rằng: “như vậy luật
tự nhiên không thể được trình bày như là một tập hợp các qui tắc đã được thiết
lập để áp đặt một cách tiên thiên vào chủ thể luân lý, nhưng là một nguồn cảm hứng
khách quan cho tiến trình đưa ra quyết định hết sức riêng tư”[350]. Vì những yếu tố hoàn cảnh
chi phối hay các yếu tố giảm khinh, trường hợp có thể xảy ra là, trong một hoàn
cảnh tội lỗi về mặt khách quan – mà không phải là lỗi phạm chủ quan hoặc không
phải lỗi phạm hoàn toàn – người ta có thể sống trong ân sủng của Chúa, có thể
yêu thương, và cũng có thể tăng trưởng trong đời sống ân sủng và bác ái, trong
khi đón nhận sự giúp đỡ của Hội thánh vì mục đích ấy[351].
Việc phân định phải giúp tìm ra những cách khả dĩ để đáp lại tiếng Chúa và để lớn
lên qua các giới hạn. Trong khi nghĩ rằng tất cả chỉ có thể là trắng hoặc đen,
đôi khi chúng ta đóng kín con đường của ân sủng và của sự triển nở và làm nản
lòng người ta trên con đường nên thánh để vinh danh Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ
rằng “một bước nhỏ, giữa những giới hạn lớn của con người, có thể làm đẹp lòng
Chúa hơn là một cuộc sống đúng đắn bên ngoài êm ả trôi qua từng ngày mà không
phải đối mặt với những khó khăn đáng kể nào”[352].
Việc chăm sóc mục vụ cụ thể của các thừa tác viên và cộng đoàn không thể bỏ qua
thực tại này.

306. Trong mọi hoàn cảnh, đứng trước những người gặp khó
khăn để sống trọn luật Chúa, ta cần phải nói lên lời mời gọi bước theo con đường
của đức ái (via caritatis). Bác ái
huynh đệ là luật đầu tiên của Kitô hữu (cf. Ga
15,12; Gl 5,14). Chúng ta đừng
quên lời hứa của Thánh Kinh: “Trước hết anh em hãy hết tình yêu thương nhau, vì
lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” (1
Pr
4,8); “hãy đoái công chuộc, bằng cách làm việc nghĩa; là tỏ lòng từ bi đối
với người nghèo” (Đn 4,24); “Nước dập
tắt lửa hồng,bố thí đền bù tội lỗi” (Hc
3,30). Đó cũng là điều mà Thánh Augustinô dạy: “Bởi vậy, như khi chúng ta gặp
nguy hiểm vì một vụ hỏa hoạn, trước hết chúng ta chạy đi tìm nước để có thể  dập tắt ngọn lửa, […] cũng thế, nếu một ngọn
lửa tội lỗi bùng cháy lên từ những đam mê của mình và làm ta lung lay, hãy vui
mừng lên nếu ta có cơ hội để làm một công việc từ bi bác ái thật sự, như thể ta
có một nguồn nước giúp dập tắt ngọn lửa kia bùng lên”[353].

307. Để tránh mọi giải thích lệch lạc, tôi nhắc lại rằng dù
sao đi nữa Hội thánh cũng không được từ bỏ đề nghị lí tưởng trọn vẹn của hôn
nhân, kế hoạch của Thiên Chúa trong tất cả tầm vóc cao cả của nó: “Những người
trẻ đã rửa tội cần được khuyến khích để không ngần ngại trước sự phong phú mà
bí tích hôn nhân mang lại cho dự phóng tình yêu của họ, cũng như sự hỗ trợ mạnh
mẽ mà họ nhận được từ ân sủng của Đức Kitô và từ khả năng tham dự cách trọn vẹn
vào đời sống của Hội thánh”[354]. Thái độ lãnh đạm, chủ
nghĩa duy tương đối dưới bất cứ hình thức nào, hoặc sự dè dặt thái quá khi đề
xuất lí tưởng này, sẽ là một sự thiếu trung thành với Tin mừng, và cũng là thiếu
tình yêu của Hội thánh đối với chính những người trẻ. Cảm thông với những hoàn
cảnh ngoại lệ không bao giờ hàm nghĩa che giấu ánh sáng của lí tưởng trọn vẹn
nhất và cũng không cắt bớt những gì Đức Giêsu đã trao ban cho con người. Ngày
nay, điều quan trọng hơn cả của mục vụ dành cho những cuộc hôn nhân thất bại là
nỗ lực mục vụ để củng cố hôn nhân và nhờ đó ngăn ngừa hôn nhân gãy đổ.

308. Tuy nhiên, từ ý thức về tầm quan trọng của các hoàn cảnh
giảm khinh – về tâm lí, lịch sử và cả sinh học – chúng ta thấy “vẫn không làm
giảm đi giá trị của lí tưởng Phúc Âm, cần phải đồng hành với lòng thương xót và
kiên nhẫn đối với các giai đoạn tiến triển có thể có của con người như chúng
đang được vun đắp từng ngày”, nhờ để cho “lòng thương xót của Chúa thúc đẩy
chúng ta làm điều tốt nhất có thể”[355].
Tôi hiểu những ai thích một mục vụ nghiêm nhặt hơn vốn không có chỗ nào cho sự
hàm hồ. Nhưng tôi thành thực tin rằng Đức Giêsu muốn một Hội thánh hằng quan
tâm đến điều tốt lành mà Chúa Thánh Thần gieo vào giữa sự yếu hèn của con người:
một Hội thánh như người Mẹ, trong khi bày tỏ cách rõ ràng giáo huấn khách quan
của mình, vẫn “không từ chối làm điều tốt lành trong khả năng mình, cho dù có gặp
rủi ro bị vấy bẩn bùn lầy trên con đường ấy”[356].
Các Mục tử trong khi nêu cho các tín hữu lí tưởng trọn vẹn của Tin mừng và giáo
huấn của Hội thánh, cũng phải giúp họ biết cảm thương những con người yếu đuối
và tránh ngược đãi hoặc xét đoán quá khắc nghiệt và thiếu kiên nhẫn. Chính Tin
mừng yêu cầu chúng ta đừng xét đoán hay lên án (cf. Mt 7,1; Lc 6,37). Đức
Giêsu “mong chúng ta ngừng tìm kiếm những nơi ẩn náu cho cá nhân hay cộng đồng,
giữ mình tránh xa khỏi vùng tâm điểm của bi kịch nhân loại, để chấp nhận thật sự
đi vào tiếp xúc với cuộc sống cụ thể của những người khác và để biết sức mạnh của
sự dịu hiền. Khi làm như thế, cuộc sống sẽ luôn là sự phức tạp diệu kì cho
chúng ta”[357].

309. Thật là một sự quan phòng khi những suy tư này được
khai triển trong bối cảnh của Năm Thánh Lòng Thương Xót, bởi vì trước bao hoàn
cảnh khác nhau ảnh hưởng đến gia đình, “Hội thánh có sứ mạng loan báo lòng
thương xót của Thiên Chúa, trái tim sống động của Tin mừng, nhờ đó Lòng Thương
Xót ấy phải đến được với lòng trí của mỗi người. Hiền Thê của Đức Kitô bắt chước
lối sống của Con Thiên Chúa mà đến gặp gỡ mọi người không loại trừ ai”[358]. Hội thánh biết rằng chính
Đức Giêsu tự giới thiệu mình là Mục tử của một trăm con chiên, chứ không chỉ là
chín mươi chín con. Người yêu thương tất cả. Từ ý thức đó, có lẽ “dầu thơm của
Lòng Thương Xót có thể chạm tới tất cả mọi người, những tín hữu cũng như những
người ở xa, như một dấu chỉ cho thấy Triều Đại Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng
ta”[359].

310. Chúng ta không được quên rằng “thương xót không chỉ là
hành động của Chúa Cha, nhưng nó trở thành tiêu chuẩn để hiểu những ai là thật
sự là con cái của Ngài. Tóm lại, chúng ta được mời gọi để sống lòng thương xót,
bởi vì lòng thương xót trước hết được áp dụng cho chúng ta”[360].
Đó không phải là một đề nghị lãng mạn hay lời đáp trả yếu kém trước tình yêu của
Thiên Chúa, Đấng luôn muốn thăng tiến con người, bởi vì “cột trụ đỡ nâng đời sống
Hội thánh chính là Lòng Thương Xót. Toàn bộ hoạt động mục vụ của Hội thánh nên
được bao phủ bởi sự dịu hiền của Hội thánh hướng về các tín hữu; việc loan báo
Tin mừng và làm chứng của Hội thánh đối với thế giới không thể diễn ra mà không
có Lòng Thương Xót”[361]. Đúng là đôi khi “chúng ta
hành động như là chủ nhân của ân sủng thay vì là người hỗ trợ cho ân sủng.
Nhưng Hội thánh không phải là một trạm thu thuế; mà là Nhà Cha, nơi có chỗ cho
từng người với cuộc sống vất vả của họ”[362].

311. Việc giảng dạy thần học luân lí không nên bỏ qua những
nhận xét này, bởi vì mặc dù đúng là phải quan tâm đến tính toàn vẹn của giáo huấn
luân lí Hội thánh, nhưng cũng phải luôn lưu tâm đặc biệt đến việc nhấn mạnh và
thúc đẩy các giá trị cao cả nhất và trọng tâm nhất của Tin mừng[363], nhất là địa vị hàng đầu của
đức ái xét như một sự đáp trả sáng kiến nhưng không của tình yêu Thiên Chúa.
Nhiều khi chúng ta phải trả giá đắt để dành không gian trong việc mục vụ cho
tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa[364].
Chúng ta đặt quá nhiều điều kiện cho lòng thương xót đến nỗi làm mất đi cảm thức
cụ thể và ý nghĩa thật sự của nó, và đó là cách tồi tệ nhất để làm loãng Tin mừng.
Đúng là lòng thương xót không loại trừ công lý và sự thật, nhưng trước hết
chúng ta phải nói rằng lòng thương xót là sự viên mãn của công lí và là sự biểu
tỏ rạng ngời nhất của chân lí về Thiên Chúa. Bởi vậy, nên luôn xem là “không
thích hợp bất cứ quan niệm thần học nào mà xét cho cùng nghi ngờ chính sự toàn
năng của Thiên Chúa, và nhất là lòng thương xót của Ngài”[365].

312. Điều này cho chúng ta một khuôn khổ và một bầu khí ngăn
cản chúng ta phát triển một nền luân lí quan liêu lạnh lùng khi xử lí các vấn đề
hết sức tế nhị, thay vào đó đặt chúng ta vào trong bối cảnh của một phân định mục
vụ chất đầy tình yêu thương xót, vốn luôn phải thông cảm, tha thứ, đồng hành,
hi vọng, và trên hết là hội nhập. Đây là suy nghĩ cần phải tỏa lan khắp nơi
trong Hội thánh, để “có kinh nghiệm mở lòng mình ra với những ai đang sống
trong những vùng ngoại biên hiện sinh xa nhất”[366].
Tôi mời gọi các tín hữu đang sống trong những hoàn cảnh phức tạp hãy đến gặp gỡ
trao đổi với các mục tử của mình trong tin tưởng hoặc đến với những người giáo
dân sống tận hiến cho Chúa. Không phải luôn luôn các bạn tìm thấy nơi họ một sự
xác nhận về các ý tưởng và ước muốn của mình, nhưng chắc chắn các bạn sẽ nhận
được một ánh sáng giúp hiểu rõ hơn về những gì đang xảy ra và có thể khám phá
ra một lộ trình cho sự trưởng thành cá nhân. Và tôi kêu mời các mục tử hãy lắng
nghe với tình thương yêu và sự bình tâm, với ước muốn chân thành đi vào trọng
tâm của bi kịch của con người và hiểu được quan điểm của họ, nhằm giúp họ sống
tốt hơn và nhận ra vị trí của họ trong Hội thánh.

313.  Đức
ái mang nhiều sắc thái khác nhau, tùy vào bậc sống mà chúng ta được mời gọi.
Cách đây mấy thập niên, khi nói về tông đồ giáo dân, Công Đồng Vatican II đã đề
cao linh đạo phát sinh từ đời sống gia đình. Công đồng khẳng định rằng linh đạo
giáo dân “phải mang những nét riêng biệt tùy theo từng bậc sống” kể cả bậc sống
“hôn nhân và gia đình”[367], và những mối bận tâm của
gia đình không được trở thành điều xa lạ với linh đạo ấy[368].
Bởi thế, thiết tưởng cần dừng lại ở đây một chút để mô tả vài đặc điểm căn bản
của linh đạo chuyên biệt này, trong các mối tương quan năng động của đời sống
gia đình.

314.  Chúng
ta vẫn thường nói Thiên Chúa cư ngụ trong tâm hồn những ai sống trong ơn sủng của
Ngài. Ngày nay chúng ta cũng có thể nói Chúa Ba Ngôi hiện diện trong đền thờ của
mối hiệp thông hôn nhân. Như Thiên Chúa ở trong những lời tán tụng của dân Ngài
(cf. Tv 22,4) thế nào, thì Ngài cũng
sống thâm sâu trong tình yêu vợ chồng đang tôn vinh Ngài thế ấy.

315.  Sự
hiện diện của Chúa trong gia đình là sự hiện diện thực tế và cụ thể, cùng với mọi
khổ đau, chiến đấu, niềm vui và những cố gắng hằng ngày của nó. Khi sống trong
gia đình, chúng ta không thể mang một bộ mặt nạ vì khó mà giả vờ hay nói dối. Nếu
như tình yêu linh hoạt sự chân thực ấy, thì đúng là Chúa đang ngự trị ở đó, bằng
niềm vui và sự bình an của Người. Linh đạo tình yêu gia đình được cấu thành từ
hàng ngàn cử chỉ thực tế và cụ thể. Trong tình hiệp thông được xây dựng từ bao
nhiêu là dâng hiến và gặp gỡ, Thiên Chúa có chỗ ngự trị của Ngài. Sự dâng hiến
cho nhau đó kết hợp “những giá trị nhân văn và thần linh”[369],
vì nó là sự tròn đầy của tình yêu Thiên Chúa. Cuối cùng, linh đạo hôn nhân là một
linh đạo của mối dây ràng buộc, trong đó tình yêu Thiên Chúa cư ngụ.

316.  Sống
tốt đẹp tình hiệp thông gia đình là một hành trình đích thực để nên thánh trong
đời sống hằng ngày và để được lớn lên trong kinh nghiệm thần bí, một phương thế
để kết hợp thâm sâu với Thiên Chúa. Quả thật những đòi hỏi của đời sống huynh đệ
và cộng đoàn trong gia đình là một cơ hội để người ta không ngừng mở lòng ra
hơn nữa, và nhờ đó có thể gặp gỡ Chúa ngày càng trọn vẹn hơn. Lời Chúa nói với
chúng ta rằng “ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối, và kẻ ấy bước đi trong
bóng tối” (1 Ga 2,11); người ấy “ở lại
trong sự chết” (1 Ga 3,14) và “không
biết Thiên Chúa” (1 Ga 4,8). Vị tiền
nhiệm của tôi, Đức Bênêđictô XVI, đã nói rằng “nhắm mắt trước tha nhân cũng sẽ
làm ta đui mù trước Thiên Chúa”[370], và tình yêu xét cho cùng
là ánh sáng duy nhất “luôn luôn soi chiếu một thế giới tối tăm”[371]. Chỉ cần chúng ta “yêu
thương nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài sẽ nên hoàn hảo
nơi chúng ta” (1 Ga 4,12). Vì “nhân vị
đã sẵn có một chiều kích xã hội trong cấu trúc tự nhiên của nó”[372], và “biểu hiệu đầu tiên và
nguyên thủy của chiều kích xã hội ấy của nhân vị là đôi vợ chồng và gia đình”[373], nên linh đạo nhập thể
trong mối hiệp thông gia đình. Vì thế, những ai có niềm khao khát tâm linh sâu
xa không nên nghĩ rằng gia đình tách biệt sự khát khao tâm linh khỏi đời sống
trưởng thành trong Thánh Thần, nhưng hãy xem đó như một lối đường mà Chúa đang
dùng để dẫn mình tới những tầm cao của sự nhiệm hiệp.

317.  Nếu
gia đình luôn qui hướng về Đức Kitô, Người sẽ hiệp nhất và soi sáng toàn thể đời
sống của gia đình. Những khổ đau và những vấn đề của gia đình trải nghiệm trong
sự thông hiệp với Thập Giá của Chúa, và được Người ôm lấy sẽ giúp gia đình chịu
đựng được những thời khắc tồi tệ. Trong những ngày giờ cay đắng của gia đình,
việc kết hợp với Đức Giêsu bị bỏ rơi có thể giúp tránh được sự đổ vỡ. Các gia
đình dần dần, “đạt đến sự thánh thiện của mình qua đời sống hôn nhân, bằng ân sủng
của Thánh Thần và bằng việc tham dự vào mầu nhiệm thập giá Đức Kitô, nhờ đó những
khó khăn và đau khổ chuyển hóa thành một hiến lễ tình yêu”[374].
Mặt khác, những khoảnh khắc của niềm vui, thư giãn hay những dịp lễ mừng, và
ngay cả tình dục cũng được xem như một sự tham dự vào sự viên mãn của Đấng Phục
Sinh. Bằng những cử chỉ khác nhau trong đời sống hằng ngày, các đôi vợ chồng tạo
nên một “không gian đối thần, trong đó họ có thể cảm nghiệm sự hiện diện bí nhiệm
của Chúa phục sinh”[375].

318.  Cầu
nguyện trong gia đình là một phương thế ưu việt để diễn tả và củng cố đức tin
phục sinh[376]. Gia đình có thể dành vài
phút mỗi ngày để qui tụ với nhau trước Thiên Chúa hằng sống, nói với Ngài những
về những lo lắng bận tâm, cầu xin với Ngài cho những nhu cầu của gia đình, cho
một ai đó đang gặp khó khăn, xin Ngài trợ giúp ta biết sống yêu thương, tạ ơn
Ngài về cuộc sống và về bao ơn lành khác, cầu xin Đức Trinh Nữ che chở chúng ta
dưới tà áo Mẹ. Với những lời đơn sơ như thế, giờ cầu nguyện này có thể đem lại
điều tốt lành lớn lao cho gia đình. Những diễn tả khác nhau của lòng đạo đức
bình dân là một kho tàng linh đạo cho nhiều gia đình. Hành trình cầu nguyện
chung của gia đình đạt tới đỉnh điểm trong việc tham dự Thánh lễ, nhất là trong
khung cảnh ngày nghỉ lễ Chúa Nhật. Đức Giêsu gõ cửa các gia đình chia sẻ với họ
bữa tiệc Thánh Thể (cf. Kh 3,20). Ở
đó, vợ chồng luôn luôn có thể kí kết lại giao ước Vượt Qua vốn là giao ước đã kết
hợp họ và phản ảnh Giao ước mà Thiên Chúa đã kí kết với nhân loại trên thập giá[377]. Thánh Thể là bí tích của
Giao Ước Mới, trong đó công trình cứu chuộc của Đức Kitô được thực hiện (cf. Lc 22,20). Như thế mối liên kết sâu xa
giữa đời sống hôn nhân và Thánh Thể càng trở nên càng rõ nét hơn[378]. Lương thực Thánh Thể là sức
mạnh và động lực cần thiết cho đôi vợ chồng để sống hôn ước mỗi ngày như một “Hội
thánh tại gia”[379].

Linh đạo của tình yêu tự do và độc hữu

319.  Trong
hôn nhân người ta còn sống cảm thức hoàn toàn chỉ thuộc về một người duy nhất.
Vợ chồng đảm nhận thách đố này và ước nguyện cùng nhau sống cho đến mãn đời, và
như thế họ phản ánh lòng trung tín của Thiên Chúa. Xác quyết ấy, vốn định hình
một lối sống, là một “đòi hỏi thâm sâu của giao ước tình yêu vợ chồng”[380], bởi lẽ “người nào không
nhất quyết yêu thương mãi mãi thì khó có thể yêu thật lòng dù chỉ một ngày”[381]. Thế nhưng, điều đó có lẽ
chẳng có ý nghĩa gì về mặt thiêng liêng, nếu nó chỉ đơn thuần là vấn đề tuân giữ
luật với thái độ cam chịu. Đây là chuyện của con tim, nơi chỉ có Thiên Chúa
nhìn thấu (cf. Mt 5,28). Mỗi sáng khi
thức dậy, chúng ta hãy lặp lại trước mặt Chúa quyết định trung tín này của
mình, cho dù có điều gì sẽ xảy ra trong ngày. Và mỗi người, khi đi ngủ, lại
mong đợi đến lúc thức dậy để tiếp tục cuộc phiêu lưu này, nhờ tín thác vào sự
giúp đỡ của Chúa. Như thế, giữa vợ chồng, người này đối với người kia sẽ là một
dấu chỉ và khí cụ của sự gần gũi của Chúa, Đấng không bao giờ để chúng ta đơn độc:
“Này đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

320.  Sẽ
đến một lúc mà tình yêu vợ chồng đạt tới đỉnh cao của sự tự do và trở thành một
không gian độc lập lành mạnh: khi đó người này khám phá ra người kia không thuộc
về riêng mình, mà có một chủ nhân quan trọng hơn rất nhiều, đó là Chúa duy nhất
của người ấy. Không ai có thể tham vọng chiếm được nơi thầm kín riêng tư và bí
mật nhất của người mình yêu và chỉ có Chúa mới là trung tâm điểm của cuộc sống
người ấy. Đồng thời, nguyên tắc duy thực luận thiêng liêng yêu cầu người này đừng
đòi người kia phải hoàn toàn thỏa mãn các nhu cầu của mình. Hành trình tâm linh
của mỗi người – như Dietrich Bonhoeffer đã diễn tả rất hay – cần giúp mình đạt
được sự “vỡ mộng” nào đó liên quan tới người kia[382],
để ngừng kì vọng từ người kia một điều gì đó vốn chỉ thuộc về tình yêu Thiên
Chúa mà thôi. Điều này đòi hỏi một sự tự hủy nội tâm. Không gian riêng mà mỗi
người dành cho tương quan cá vị với Thiên Chúa không chỉ giúp chữa lành các
thương tích của đời sống chung, mà còn giúp người ấy tìm ra ý nghĩa cuộc đời
mình trong tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta cần khẩn cầu sự trợ giúp của Chúa
Thánh Thần mỗi ngày để có thể đạt được sự tự do nội tâm này.

Một linh đạo chăm sóc, an ủi và khích lệ

321.  “Các
đôi vợ chồng Kitô hữu là những cộng tác viên của ân sủng và là những chứng nhân
đức tin cho nhau, cho con cái và cho các thành viên khác trong gia đình”[383]. Thiên Chúa mời gọi họ
thông truyền và chăm sóc sự sống. Đó là lí do tại sao gia đình “bao giờ cũng là
‘bệnh viện’ gần nhất”[384]. Chúng ta hãy chăm sóc
nhau, nâng đỡ nhau và khích lệ nhau, đồng thời hãy sống tất cả những điều này
như thành phần linh đạo gia đình của chúng ta. Đời sống của vợ chồng là một sự
thông dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, và mỗi người – đối với người
kia – là một sự gợi ý thường xuyên từ Chúa Thánh Thần. Tình yêu của Thiên Chúa
được diễn tả “qua những ngôn từ sống động và cụ thể nhờ đó hai người nam và người
nữ diễn tả tình yêu phu phụ của mình”[385].
Như thế hai người phản ánh cho nhau tình yêu thần linh, tình yêu có sức an ủi bằng
lời nói, ánh nhìn, bằng sự giúp đỡ, vuốt ve, một vòng tay ôm ấp. Do đó, “ý muốn
xây dựng một gia đình là can đảm tham gia vào giấc mơ của Thiên Chúa, dám ước
mơ với Ngài, dám xây dựng với Ngài, dám nhập cuộc chơi với Ngài trong lịch sử
này, để xây dựng một thế giới trong đó không ai cảm thấy cô đơn”[386].

322.  Toàn
bộ đời sống gia đình là một “mục vụ” với lòng thương xót. Mỗi chúng ta, bằng sự
chăm sóc, đều khắc họa vào cuộc đời của người khác: “Thư giới thiệu chúng tôi
chính là anh em, thư ấy được viết trong tâm hồn chúng tôi […] không phải viết bằng
mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 3,2-3). Mỗi chúng ta là một “ngư phủ chài lưới người” (Lc 5,10), nhân danh Đức Giêsu thả lưới
(cf. Lc 5,5) kéo những người khác,
hay là một nông dân canh tác mảnh đất tươi tốt đó là những người thân,  bằng việc khích lệ những gì tốt nhất trong họ.
Sự phong nhiêu của đời sống hôn nhân bao hàm việc thăng tiến người khác, vì
“yêu ai là mong đợi nơi người ấy một cái gì đó bất định mà cũng bất ngờ; đồng
thời một cách nào đó, tạo điều kiện cho họ đáp lại sự mong đợi này”[387]. Đây là một cách thờ phượng
Thiên Chúa, vì Ngài đã gieo rất nhiều điều tốt lành nơi người khác với hi vọng
chúng ta sẽ làm cho nó triển nở.

323.  Chiêm
ngắm từng người thân trong gia đình bằng đôi mắt của Thiên Chúa và nhận ra Đức
Kitô nơi họ là một kinh nghiệm tâm linh sâu xa. Điều này đòi hỏi một sự sẵn
sàng đáp ứng cách vô cầu giúp ta quí trọng phẩm giá của họ. Người ta chỉ có thể
hiện diện trọn vẹn với một người nếu biết hiến thân không vì một lí do nào và
quên đi mọi chuyện xảy ra xung quanh. Như thế người được yêu thương là người xứng
đáng được quan tâm đầy đủ. Đức Giêsu là mẫu gương về điều này, bởi vì khi bất cứ
người nào đến nói chuyện với Người, Người đều chăm chú nhìn và đem lòng yêu
thương (cf. Mc 10,21). Không ai cảm
thấy bị mất hút khi hiện diện cùng Người, vì những lời nói và cử chỉ của Người
thể hiện trong câu hỏi này: “Bạn muốn tôi làm gì cho bạn?” (Mc 10,51). Đây là điều chúng ta kinh
nghiệm trong đời sống hằng ngày của gia đình. Trong đó chúng ta được nhắc nhở rằng
mỗi người sống bên ta đều xứng đáng được ta lưu tâm cách tận tình, vì họ có phẩm
giá vô hạn vì là đối tượng của tình yêu vô biên của Chúa Cha. Từ đó sẽ nảy sinh
sự dịu dàng vốn có thể “khơi lên trong lòng người khác niềm vui cảm thấy mình
được yêu thương. Sự dịu dàng được diễn tả một cách đặc biệt trong việc quan tâm
cách tinh tế trước những hạn chế của người khác, nhất là khi chúng hiển lộ rõ
ràng”[388].

324.  Được
Chúa Thánh Thần thúc đẩy, gia đình không chỉ đón nhận sự sống bằng cách sinh sản
trong phạm vi gia đình, nhưng còn mở ra, đi ra khỏi chính mình để tuôn ban những
thiện ích của mình cho người khác và để quan tâm chăm sóc họ và tìm kiếm hạnh
phúc cho họ. Sự cởi mở này được thể hiện đặc biệt nơi lòng hiếu khách[389], như Lời Chúa khơi gợi và
khích lệ: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã
được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13,2). Một khi gia đình rộng mở đón tiếp và đi đến gặp gỡ những
người khác, nhất là người nghèo và người bị bỏ rơi, thì đó là “biểu hiệu, chứng
từ và là sự tham dự vào thiên chức làm mẹ của Hội thánh”[390].
Bác ái xã hội, một phản ảnh về Thiên Chúa Ba Ngôi, trong thực tế là điều hiệp
nhất ý nghĩa thiêng liêng của gia đình và sứ mạng ra khỏi chính mình, vì nó làm
cho lời rao  giảng tiên khởi (kerygma) hiện diện với tất cả những đòi
hỏi mang tính cộng đồng. Gia đình sống linh đạo đặc thù của mình nhờ, cùng lúc,
vừa là một Hội thánh tại gia, vừa là một tế bào sống động để biến đổi thế giới[391].

* * *

325.  Không
phải tình cờ mà lời dạy của Tôn sư Giêsu (cf. Mt 22,30) và của Thánh Phaolô (cf. 1 Cr 7,29-31) về hôn nhân được đặt trong chiều kích tối hậu và dứt
khoát của cuộc sống con người chúng ta, ta cần khám phá lại chiều kích ấy. Với
cách ấy các đôi vợ chồng có thể nhận ra được ý nghĩa sâu xa của hành trình đời
sống đang diễn ra của mình. Quả thật, như chúng tôi đã đã nhiều lần nhắc đến
trong Tông Huấn này, trên thực tế không gia đình nào là hoàn hảo và được kiện
toàn một lần dứt khoát; nhưng đòi hỏi một sự phát triển tiệm tiến khả năng yêu
thương của mình. Có một tiếng gọi không dứt, phát xuất từ sự hiệp thông viên
mãn của Thiên Chúa Ba Ngôi, từ sự kết hợp kì diệu giữa Đức Kitô và Hội thánh của
Người, từ cộng đoàn kiều diễm là Gia đình Nadarét, và từ tình huynh đệ vô tì
tích giữa các thánh trên thiên quốc. Tuy nhiên, việc chiêm ngắm sự viên mãn mà
chúng ta chưa đạt tới cũng giúp chúng ta biết tương đối hóa trong khi nhìn lại
cuộc hành trình lịch sử mà chúng ta đang thực hiện trong tư cách là gia đình, để
rồi chúng ta không còn đòi hỏi các mối tương quan liên vị của chúng ta phải
hoàn hảo, phải tinh tuyền trong ý hướng, và phải nhất quán – điều mà chúng ta chỉ
có thể gặp thấy trong Nước Trời mai sau. Hơn nữa việc ấy cũng ngăn chúng ta
không xét đoán khắc nghiệt những ai sống trong các hoàn cảnh chênh vênh. Tất cả
chúng ta được mời gọi để tiếp tục phấn đấu hướng đến một cái gì đó lớn lao hơn
chính chúng ta và những giới hạn của chúng ta, và mỗi gia đình phải sống thường
xuyên sự thôi thúc này. Nào chúng ta cùng đi, hỡi các gia đình, chúng ta hãy tiếp
tục tiến bước! Điều chúng ta được hứa hẹn thì luôn cao trọng hơn. Đừng đánh mất
niềm hi vọng vì những giới hạn của mình, cũng đừng bao giờ ngừng tìm kiếm sự
viên mãn của tình yêu và hiệp thông mà Thiên Chúa đã hứa ban cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse,
nơi các Ngài chúng con chiêm ngắm
vẻ rạng ngời của tình yêu đích thực;
chúng con tin tưởng phó thác nơi các Ngài.

Lạy Thánh Gia Nadarét,
xin cũng làm cho các gia đình chúng con
trở thành nhà của hiệp thông và cầu nguyện,
trở thành trường học đích thực của Tin mừng
và những Hội thánh tại gia nhỏ bé.

Lạy Thánh Gia Nadarét,
xin đừng bao giờ để các gia đình chúng con
xảy ra bạo lực,
khép lòng và chia rẽ;
xin cho tất cả những ai bị tổn thương hay bị xúc phạm
mau tìm được sự an ủi và chữa lành.

Lạy Thánh Gia Nadarét,
xin làm cho mọi người chúng con
ý thức về tính thánh thiêng
sự bất khả xâm phạm,
và vẻ kiều diễm của gia đình
trong chương trình của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse,
xin đoái nghe và nhận lời chúng con cầu khẩn. Amen.

Tại Rôma, Đền thờ
Thánh Phêrô, trong Năm Thánh Lòng Thương Xót,

ngày 19 tháng 3, lễ trọng
Thánh Giuse, năm 2016,
năm thứ tư triều Giáo
Hoàng của tôi
.

PHANXICÔ

VĂN PHÒNG
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
TRI ÂN

Những anh chị em, linh mục, tu sĩ và giáo dân, thuộc Ủy Ban
Giáo Lí Đức Tin, Ủy Ban Mục Vụ Gia Đình, Ủy Ban Mục Vụ Di Dân trực thuộc Hội Đồng
Giám mục Việt Nam đã tích cực cộng tác vào việc cho ra đời văn bản tiếng Việt
này của Tông huấn Amoris Laetitia – Niềm
Vui của Tình Yêu.

Ngày 15 tháng 6 năm 2016

WHĐ (08.5.2021)

Relatio Synodi (RS) 2014, 2.

Relatio finalis (RF) 2015, 3.

Diễn từ kết thúc Đại
hội thường lệ lần XIV của THĐGM
(24.10.2015): L’Osservatore Romano, 26-27.10.2015,
tr. 13; Cf. Ủy Ban TT Về Kinh Thánh,
Fede e Cultura alla luce della Bibia.
Atti della Sessione plenaria 1979 della Pontificia Commissione Biblica
,
Torino 1981; CĐ Vatican II, HCh. Gaudium et Spes (GS), 44; Gioan Phaolô II, Thđ.
Redemptoris Missio (7.12.1990),
52: AAS 83 (1991), 300; Th. Evangelii Gaudium (EG) (24.11.2013), 69.117: AAS 105 (2013), 1049.1068-1069.

Phanxicô, Diễn từ tại cuộc gặp gỡ các gia đình tại Santiago, Cuba (22.9.2015): L’Osservatore Romano, 24.9.2015, tr. 7.

Jorge Luis Borges, “Calle desconocida”, in Fervor de Buenos Aires, Buenos Aires
2011, 23.

Gioan Phaolô
II, Familiaris Consortio (FC) (22.11.1981), 4: AAS 74
(1982), 84.

RS 2014, 5.

HĐGM TÂy Ban Nha, Matrimonio y familia (6.7.1979), 3.16.23.

RF 2015, 5.

RS 2014, 5.

RF 2015, 8.

RF 2015, 29.

RS 2014, 10.

RS 2014, 10.

RF 2015, 7.

HĐGM Hàn Quốc, Towards a culture of life! (15.3.2007).

RS 2014, 6.

HĐTT Về Gia Đình,
Hiến chương về quyền của gia đình (22.10.1983), 11.

Cf. RF 2015, 11-12.

HĐTT Về Gia Đình,
Hiến chương về quyền của gia đình (22.10.1983), Dẫn nhập.

RF 2015, 14.

RS 2014, 8.

Cf. RF 2015, 78.

Phanxicô, Diễn
từ kết thúc Đại hội thường lệ lần XIV của THĐGM
(24.10.2015): L’Osservatore Romano, 26-27.10.2015, tr.
13.

HĐGM Argentina, Navega mar adentro (31.5.2003), 42.

HĐGM Mexico, Que en Cristo Nuestra Paz México tenga vida digna (15.2.2009),
67.

Phanxicô, Huấn giáo
ngày thứ Tư (HG)
 (22.4.2015): L’Osservatore
Romano
, 23.4.2015, tr. 7.

RF 2015, 28.

RS 2014, 11.

HĐGM Colombia, A tiempos difíciles, colombianos nuevos (13.2.2003), 3.

EG, 35: AAS 105 (2013), 1034.

Ibid., 164: AAS 105 (2013), 1088.

Ibid., 165: AAS 105 (2013), 1089.

RS 2014, 12.

Ibid., 14

RF 2015, 41.

RS 2014, 17.

RF 2015, 43.

RS 2014, 18.

RF 2015, 38.

FC, 13: AAS 74 (1982), 94.

RS 2014, 21.

GLHTCG 1642.

HG (6.5.2015): L’Osservatore Romano (7.5.2015), tr. 8.

Leô CẢ, Epistola
Rustico narbonensi episcopo
, inquis. IV: PL 54,
1205A; Cf. Incmaro di Reims, Epist. 22: PL 126, 142.

Cf. GL, cc. 1116; 1161-1165;
GLĐP, 832; 848-852.

Cf. GL, c. 1055 §2.

RS 2014, 23.

FC, 9: AAS 74 (1982), 90.

Phanxicô, Bài giảng trong Thánh lễ bế mạc Đại hội Gia
đình lần thứ VIII
tại Philadelphia (27.9.2015): L’Osservatore Romano, 28-29.9.2015, tr. 7.

GS, 48.

Cf. GL, c. 1055 §1: «Ad bonum coniugum atque ad prolis
generationem et educationem ordinatum
».

GLHTCG, 2360.

GS, 48.

GLHTCG, 2366.

Cf. HV , 11-12: AAS 60
(1968), 488-489.

BỘ
GLĐT, Chỉ thị Donum vitae (22.2.1987),
II, 8: AAS 80 (1988), 97.

RS 2014, 60.

GL, c. 1136; Cf. GLĐP, 627.

Cf. FC, 38: AAS 74
(1982), 129.

RS 2014, 23.

RF 2015, 52.

GLHTCG,
1641.

Cf. DCE, 2: AAS 98
(2006), 218.

Inhaxiô
Loyola, Linh thao, Chiêm ngắm
để được tình yêu (Esercizi spirituali, Contemplazione per raggiungere
l’amore), 230.

Octavio Paz, La
llama doble
, Barcelona 1993, 35.

 ST II-II, q. 114, a. 2, ad 1.

ST II-II, q. 27, a. 1, ad 2.

ST II-II, q. 27, a. 1.

FC, 21: AAS 74 (1982), 106.

Martin
Luther King Jr., Bài giảng trong Nhà thờ Battista ở Dexter Avenue, Montgomery, Alabama, 17.11.1957.

Thánh Tôma hiểu tình yêu như “sự sống hợp nhất” «vis unitiva» (ST I, q. 20, a. 1, ad 3), theo lối diễn tả của Dionigi Ps.-Areopagita (De divinis nominibus, IV, 12: PG 3, 709).

ST II-II, q. 27, a. 2.

Piô
XI, Thđ. Casti connubii (31.12.1930): AAS 22 (1930), 547-548.

FC, 13: AAS 74 (1982), 94.

FC, 9: AAS 74 (1982), 90.

Tôma Aquinô, Summa
contra Gentiles
, III, 123; Cf. Aristotele, Etica Nic., 8, 12 (ed. Bywater, Oxford
1984, 174).

Robertô
Bellarminô, De sacramento matrimonii, I, 2: in Id. Disputationes, III, 5, 3 (ed. Giuliano,
Napoli 1858, 778).

GS,
50.

Cf. ST I-II, q. 31,
a. 3, ad 3.

GS,
48.

 ST I-II, q. 26, a. 3.

ST I-II, q. 110, a. 1.

Augustinô,
Confessioni,
VIII, 3, 7: PL 32, 752.

Phanxicô,
Buổi đọc Kinh Truyền Tin (29.12.2013): L’Osservatore Romano, 30-31.12.2013, tr.
7.

ST II-II, q. 24, a. 7.


GS
, 48.

HĐGM Chilê, La vida y la familia:
regalos de Dios para cada uno de nosotros
 (21.7.2014).

GS,
49.

A. Sertillanges, L’amour chrétien, Paris 1920, 174.

Cf. ST I-II, q. 24,
a. 1.

Cf. ST I-II, q. 59,
a. 5.

DCE, 3: AAS 98
(2006), 219-220.

DCE, 4 : AAS 98 (2006), 220.

Cf. ST I-II,
q. 32, a. 7.

Cf. ST, II-II,
q. 153, a. 2, ad 2: «Abundantia
delectationis quae est in actu venereo secundum rationem ordinato, non
contrariatur medio virtutis
».

Gioan Phaolô II, HG (22.10.1980), 5: Insegnamenti III, 2 (1980),
951.

 Ibid., 3: Insegnamenti III, 2 (1980), 951.

 Gioan Phaolô II, HG (24.12.1980), 4: Insegnamenti III, 2 (1980),
719.

Gioan Phaolô II, HG (12.11.1980), 2: Insegnamenti III, 2 (1980),
1133.

Gioan Phaolô II, HG (16.01.1980), 1: Insegnamenti III, 1 (1980),
151.

Josef Pieper, Über die Liebe, München 2014, 174.

Gioan Phaolô II, Thđ. Evangelium Vitae (25.3.1995),
23: AAS 87 (1995), 427.

HV, 13: AAS 60 (1968), 489.

GS,
49.

Gioan
Phaolô II, HG (18.6.1980),
5: Insegnamenti III, 1
(1980), 1778.

DCE, 5: AAS 98 (2006), 221.

Gioan
Phaolô II, HG (14.4.1982),
1: Insegnamenti V, 1 (1982),
1176.

Alessandro
di Hales, Glossa in quatuor libros sententiarum Petri Lombardi, IV, XXVI, 2 (Quaracchi 1957,
446).

Gioan
Phaolô II, HG (7.4.1982), 2: Insegnamenti V, 1 (1982),
1127.

Ibid., 3.

Gioan
Phaolô II, Thđ. Redemptor hominis (4.3.1979),
10: AAS 71 (1979), 274.

Cf. ST II-II, q. 27,
a. 1.

Gioan
Phaolô II, HG (31.10.1984), 6: Insegnamenti VII, 2 (1984),
1072.

DCE, 8: AAS 98 (2006), 224.

FC, 14: AAS 74 (1982), 96.

HG
(11.02.2015): L’Osservatore Romano,
12.02.2015, tr. 8.

HG (8.4.2015):
L’Osservatore Romano, 9.4.2015, tr. 8.

Cf. GS,
51: “Tất cả chúng ta hãy xác tín rằng sự sống con người và sự thông truyền sự sống
ấy là những thực tại mà ý nghĩa của chúng không chỉ bị giới hạn bởi những chân
trời của cuộc sống này: giá trị đích thực và ý nghĩa đầy đủ của chúng chỉ có thể
được hiểu trong qui chiếu đến vận mệnh vĩnh cửu của chúng ta mà thôi”.

Phanxicô,
Thư gửi Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc về Dân
Số và Phát Triển
(18.03.1994): Insegnamenti
XVII/1 (1994), 750-751.

Gioan
Phaolô II, HG (12.3.1980), 3: Insegnamenti III/1 (1980), 543.

Phanxicô, Diễn từ tại Cuộc Gặp Gỡ các Gia Đình ở
Manila
(16.01.2015): AAS 107
(2015), 176.

HG (11.02.2015):
L’Osservatore Romano, 12.02.2015, tr.
8.

HG (14.10.2015):
L’Osservatore Romano, 15.10.2015, tr.
8.

HĐGM Úc
Châu Thư mv. Don’t Mess with
Marriage
(24.11.2015), 11.

GS,
50.

Gioan
Phaolô II, HG (12.3.1980), 2: Insegnamenti III/1 (1980), 542.

 Cf. Id.,Tông thư Mulieris Dignitatem (15.8.1988), 30-31: AAS 80 (1988),
1727-1729.

HG (7.01.2015):
L’Osservatore Romano, 7-8.01.2015,
tr. 8.

HG (28.01.2015):
L’Osservatore Romano, 29.01.2015, tr.
8.

Cf. RF 2015, 28.

HG
(4.02.2015), L’Osservatore Romano,
5.02.2015, tr. 8.

GS,
50.

Hội Nghị Khoáng Đại lần thứ V HĐGM Châu Mỹ
Latinh và vùng Caribê, Documento di
Aparecida
(29.6.2007),
457.

RF
2015, 65.

Phanxicô,
Diễn từ tại cuộc Hội Ngộ các Gia đình ở
Manila
(16.01.2015): AAS 107
(2015), 178.

Mario
Benedetti, “Te quiero”, in Poemas
de otros
, Buenos Aires 1993, 316.

 Cf. HG
(16.9.2015): L’Osservatore Romano,
17.9.2015, tr. 8.

HG
(7.10.2015): L’Osservatore Romano,
9.10.2015, tr. 8.

DCE,
14: AAS 98 (2006), 228.

Cf. RF 2015, 11.

HG
(18.3.2015): L’Osservatore Romano,
19.3.2015, tr. 8.

HG
(11.01.2015): L’Osservatore Romano,
12.02.2015, tr. 8.

Cf. RF 2015, 17-18.

HG
(4.3.2015): L’Osservatore Romano,
5.3.2015, tr. 8.

HG
(11.3.2015): L’Osservatore Romano, 12
.3.2015, tr. 8.


FC
27: AAS 74 (1982), 113.

Gioan
Phaolô II, Diễn từ nói với các tham dự viên tại “Diễn
đàn quốc tế về sống tuổi già tích cực”
(5.9.1980), 5: Insegnamenti III/2 (1980), 539.

RF 2015,
18.

HG
(4.3.2015): L’Osservatore Romano,
5.3.2015, tr. 8.

Phanxicô,
Diễn từ tại cuộc Hội ngộ với người Cao tuổi
(28.9.2014): L’Osservatore Romano,
29-30.9.2014, tr. 7.

HG (18.02.2015):
L’Osservatore Romano, 19.01.2015, tr.
8.

HG (18.02.2015):
L’Osservatore Romano, 19.01.2015, tr.
8.

FC,
18: AAS 74 (1982), 101.

HG (7.10.2015):
L’Osservatore Romano, 8.10.2015, tr.
8.

RF
2015, 56.

RF
2015, 89.

RS
2014, 32.

RS
2014, 33.

RS
2014, 38.

RF
2015, 77.

RF
2015, 61.

RF
2015, 61.

RF
2015, 61.

RF
2015, 61..

Cf. RS 2014, 26.

Cf. RS 2014, 39.

HĐGM Ý, Ủy
Ban Giám mục về Gia Đình và SỰ SỐng, Orientamenti
pastorali sulla preparazione al matrimonio e alla famiglia
(Những định hướng mục vụ cho việc chuẩn bị
hôn nhân và đời sống gia đình)
(22.10.2012), 1.

Inhaxiô
Loyola, Linh Thao, Chú thích 2.

Ibid.,
Chú thích 5.

Gioan
Phaolô II, HG (27.6.1984), 4: Insegnamenti VII/1 (1984), 1941.

HG (21.10.2015):
L’Osservatore Romano, 22.10.2015, tr.
12.

HĐGM Kênya,
Sứ Điệp Mùa Chay (18.02.2015).

Cf. Piô
XI, Thđ. Casti Connubii (31.12.1930):
AAS 22 (1930), 583.

Gioan
Phaolô II, HG (4.7.1984), 3,
6: Insegnamenti VII/2 (1984), tr. 9,
10.

RF
2015, 59.

RF
2015, 63.

GS,
50.

RF
2015, 63.

RS 2014, 40.

RS 2014, 34.

Gioan
Thánh Giá, Cantico Spirituale
(Khúc Linh Ca)
B, XXV, 11.

RS
2014, 44.

RF
2015, 81.

RF
2015, 78.

HG (24.6.2015):
L’Osservatore Romano, 25.6.2015, tr.
8.

FC,
83: AAS 74 (1982), 184.

RS
2014, 47.

RS
2014, 50.

Cf. HG
(5.8.2015): L’Osservatore Romano,
6.8.2015, tr. 7.

RS
2014, 51; cf. RF 2015, 84.

RS
2014, 48.

Phanxicô,
Tự Sắc Mitis Iudex Dominus Iesus (15.8.2015): L’Osservatore Romano, 9.9.2015, tr. 3-4;
cf. Phanxicô, Tự Sắc Mitis et Misericors Iesus (15.8.2015): L’Osservatore Romano, 9.9.2015, tr. 5-6.

Phanxicô,
Tự Sắc Mitis Iudex Dominus Iesus
(15.8.2015), Lời nói đầu, III: L’Osservatore
Romano
, 9.9.2015, tr. 3.

RF
2015, 82.

RS
2014, 47.

HG (20.5.2015):
L‘Osservatore Romano, 21.5.2015, tr.
8.

HG (24.6.2015):
L’Osservatore Romano, 25.6.2015, tr.
8.

HG (5.8.2015):
L’Osservatore Romano, 6.8.2015, tr. 7.

RF
2015, 72.

RF
2015, 73.

RF
2015, 74.

RF
2015, 75.

Cf. MV,
12: AAS 107 (2015), 407.

GLHTCG,
2358; cf. RF 2015, 76.

Cf. GLHTCG, 2358; cf. RF 2015, 76.

RF
2015, 76; cf. BỘ GLĐT, Considerazioni
circa i progetti di riconoscimento legale delle unioni tra persone omosessuali
(3.6.2003), 4.

RF
2015, 80.

Cf. RF 2015, 20.

HG (17.6.2015):
L’Osservatore Romano, 18.6.2015, tr.
8.

RF
2015, 19.

HG (17.6.2015):
L’Osservatore Romano, 18.6.2015, tr.
8.

HG (17.6.2015):
L’Osservatore Romano, 18.6.2015, tr.
8.

Cf. GLHTCG, 958.

Cf.
Têrêsa Lisieux, Những cuộc nói
chuyện cuối cùng: Cuốn “sổ màu vàng” của Mẹ Agnès
, 17.7.1897, trong Opere complete, Città del Vaticano –
Roma 1997, 1028. Về việc này thật ý nghĩa đó là chứng từ của các chị em Cát
minh của Thánh nữ nói về một lời hứa của Têrêsa rằng sự kiện từ trần của ngài sẽ
“giống như cơn mưa hoa hồng” (ibid.,
9.6.1897, 991).

Cf. Giordano di Sassonia, Libellus de principiis Ordinis prædicatorum,
93: Monumenta Historica Sancti
Patris Nostri Dominici
, XVI, Roma 1935, 69.

Cf. GLHTCG, 957.

CĐ Vatican
II, HCh. tín lý về Hội thánh Lumen
Gentium
, 49.

EG,
222: AAS 105 (2013), 1111.

HG (20.5.2015):
L’Osservatore Romano, 21.5.2015, tr.
8.

GS,
17.

HG (30.9.2015):
L’Osservatore Romano, 1.10.2015, tr.
8.

HG (10.6.2015):
L’Osservatore Romano, 11.6.2015, tr.
8.

Cf. RF 2015, 67.

HG (20.5.2015):
L’Osservatore Romano, 21.5.2015, tr.
8.

HG (9.9.2015):
L’Osservatore Romano, 10.9.2015, tr.
8.

RF
2015, 68.

RF
2015, 58.


Vatican II, Tuyên Ngôn Gravissimum
Educationis
về Giáo Dục Công Giáo, 1.

RF 2015, 56.

Erich
Fromm, The Art of Loving, New
York, 1956, tr. 54.

Phanxicô,
Thđ. Laudato Si’ về Chăm sóc Ngôi Nhà
Chung (24.5.2015), 155.

HG (15.4.2015):
L’Osservatore Romano, 16.4.2015, tr.
8.

Cf. RF 2015, 13-14.

Augustino,
De sancta virginitate 7,7: PL 40, 400.

HG (26.8.2015):
L’Osservatore Romano, 27.8.2015, tr.
8.

RF 2015, 89.

RF 2015, 93.

RS 2014, 24.

RS 2014, 25.

RS 2014, 28.

Cf. RS 2014, 41.43; RF 2015, 70.

RS 2014, 27.

RS 2014, 26.

RS 2014, 41.

RS 2014, 41.

RF
2015, 71.

Cf. RF 2015, 71.

RS
2014, 42.

RS
2014, 43.

FC,
34: AAS 74 (1982), 123.

FC,
9: AAS 74 (1982), 90.

Cf. HG
(24.6.2015): L’Osservatore Romano,
25.6.2015, tr. 8.

Bài
giảng trong Thánh Lễ cử hành với các Hồng y mới
(15.2.2015): AAS 107 (2015), 257.

RF
2015, 51.

RS
2014, 25.

FC,
84: AAS 74 (1982), 186. Trong những trường hợp như thế, nhiều người, biết và chấp
nhận khả năng sống “như anh em” mà Hội thánh đề nghị, chỉ ra rằng nếu thiếu đi
một số sự diễn tả mật thiết, “thì sự trung thành thường bị lâm nguy và thiện
ích của con cái bị ảnh hưởng” (Gaudium et
Spes
, 51).

Ibid.

RS
2014, 26.

CF. RS
2014, 45.

BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ tại Đại hội Các Gia Đình Thế Giới Lần Thứ Bảy ở Milan
(2.6.2012), Câu trả lời số 5: Insegnamenti VIII/1 (2012), 691.

RF
2015, 84.

RF
2015, 51.

Đây cũng là trường hợp liên quan tới kỷ
luật bí tích, vì sự phân định có thể nhận ra rằng trong một hoàn cảnh riêng,
không có tồn tại lỗi phạm nặng nề nào. Trong những trường hợp như thế, sẽ áp dụng
điều được nói trong một văn kiện khác: cf. Evangelii
Gaudium
(24.11.2013), 44 và 47: AAS 105 (2013), 1038-1040.

RF
2015, 85.

RF
2015, 86.

FC,
33: AAS 74 (1982), 121.

RF
2015, 51.

Cf. ST I-II, q. 65,
a. 3, ad 2; De malo, q. 2, a. 2.

Ibid., ad 3.

GLHTCG 1735.

Cf. Ibid.
2352; BỘ GLĐT, Tuyên Ngôn Iura et bona
về Cái Chết Êm Dịu (5.5.1980), II: AAS
72 (1980), 546; Gioan Phaolô II, khi phê bình về phạm trù “sự chọn lựa nền tảng”,
đã nhìn nhận rằng “chắc chắn có thể xảy ra những hoàn cảnh rất phức tạp và mập
mờ từ một quan điểm tâm lí học, và những hoàn cảnh ấy có một ảnh hưởng đến việc
qui trách chủ quan của tội nhân” (Tông Huấn Reconciliatio
et Paenitentia
[2.12.1984], 17: AAS
77 [1985], 223).

Cf. HĐTT VỀ CÁC BẢN VĂN LUẬT, Tuyên bố về
việc Đón nhận các tín hữu li dị và tái hôn vào việc rước lễ (24.6.2000), 2.

RF
2015, 85.

ST I-II, q. 94, art. 4.

Khi qui chiếu đến sự hiểu biết tổng quát
về luật và sự hiểu biết đặc thù của sự phân định thực tế, Thánh Tôma đi đến khẳng
định rằng “nếu chỉ có một trong hai sự hiểu biết ấy, thì tốt hơn nếu đó là sự
hiểu biết về thực tế cụ thể, bởi lẽ nó gần với hành động hơn” (Sententia libri Ethicorum, VI, 6 [ed. Leonina,
t. XLVII, 354]).

Diễn
từ Bế mạc Đại hội thường kì lần XIV của THĐGM
(24.10.2015): L’Osservatore Romano, 26-27.10.2015, tr.
13.

Ủy
Ban Thần Học Quốc Tế, Tìm kiếm một
nền đạo đức phổ quát: một cái nhìn mới về Luật Tự Nhiên
(2009), 59.

Trong một số trường hợp, điều này có thể
bao gồm sự trợ giúp của các bí tích. Vì thế, “tôi muốn nhắc các linh mục rằng
tòa giải tội không phải là một buồng tra tấn, nhưng đúng hơn là một nơi gặp gỡ
lòng thương xót của Chúa” (Tông Huấn EG,
44: AAS 105 [2013], 1038). Tôi cũng
muốn lưu ý rằng Bí tích Thánh Thể không phải là một phần thưởng cho người hoàn hảo,
nhưng là phương dược đầy hiệu năng và là lương thực dưỡng nuôi cho người yếu đuối”
(ibid., 47: 1039).

EG,
44: AAS 105 (2013), 1038-1039.

De
Catechizandis Rudibus
, I, 14, 22: PL 40, 327; cf. EG, 194: AAS 105 (2013),
1101.

RS
2014, 26.

EG,
44: AAS 105 (2013), 1038.

Ibid.,
45: AAS 105 (2013), 1039.

Ibid.,
270: AAS 105 (2013).

Phanxicô,
Tông sắc Misericordiae Vultus
(11.4.2015), 12: AAS 107 (2015): 407.

Ibid.,
5: AAS 107 (2015): 402.

Ibid.,
9: AAS 107 (2015): 405.

Ibid.,
10: AAS 107 (2015): 406.

EG,
47: AAS 105 (2013), 1040.

Cf. Ibid.,
36-37: AAS 105 (2013), 1035.

Có lẽ do quá thận trọng chi li, ẩn sau một
ước muốn mạnh mẽ trung thành với sự thật, một số linh mục đòi hỏi các hối nhân
một quyết tâm sửa chữa rất thiếu tế nhị, đến nỗi làm cho lòng thương xót bị che
mờ bởi việc theo đuổi một công lí được coi là thuần túy. Vì thế, sẽ hữu ích việc
nhắc lại giáo huấn của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, khi ngài tuyên bố rằng
khả năng của một sự sa ngã mới “không nên làm người ta nghi ngờ sự chân thực của
lòng quyết tâm” (Thư gửi Hồng y William
W. Baum dịp tổ chức khóa về Tòa Trong
[22.3.1996], 5: Insegnamenti XIX/1 [1996], 589).

ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, La Speranza della salvezza per i bambini che
muoiono senza battesimo
(19.4.2007), 2.

Phanxicô,
Tông sắc Misericordiae Vultus
(11.4.2015), 15: AAS 107 (2015), 409.

CĐ Vatican
II, Sl. Về Tông đồ Giáo dân Apostolicam
Actuositatem
, 4.

GS,
49.

DCE, 16: AAS 98 (2006), 230.

Gioan
Phaolô II, Th. Christifideles
Laici
(30.12.1988), 40: AAS 81
(1989), 468.

RF
2015, 87.

Gioan
Phaolô II, Th. Vita Consecrata
(25.3.1996), 42: AAS 88 (1996), 416.

CF. RF
2015, 87.

FC,
57: AAS 74 (1982), 150.

Chúng ta cũng không được quên rằng giao ước
của Thiên Chúa với dân Ngài được diễn tả như một sự đính hôn (Cf. Ed 16,8. 60; Is 62,5; Hs 2,21-22), và
giao ước mới cũng được trình bày như một hôn ước (Cf. Kh 19,7; 21,2; Ep 5,25).

CĐ Vatican
II, HCh. Tín lí về Giáo hội Lumen
Gentium
, 11.

FC,
11: AAS 74 (1982), 93.

Gioan
Phaolô II, Bài giảng trong Thánh Lễ
với Các Gia Đình
, Cordoba, Argentina (8.4.1987), 4: Insegnamenti X/1
(1987), 1161-1162.

Cf. Dietrich
Bonhoeffer, Gemeinsames Leben,
Munich, 1973, tr. 18.

CĐ Vatican
II, Sl. Apostolicam Actuositatem
về Tông đồ Giáo dân, 11.

HG
(10.6.2015): L’Osservatore Romano,
11.6.2015, tr. 8.

FC,
12: AAS 74 (1982), 93.

Diễn
từ tại buổi Canh Thức Đại Hội Các Gia Đình
, Philadelphia (26.9.2015): L’Osservatore Romano, 28-29.9.2015, tr.
6.

Gabriel Marcel,
Homo Viator: prolégomènes à une métaphysique de l’espérance
, Paris, 1944,
tr. 66. Anh ngữ: Homo Viator. Dẫn nhập
vào một Siêu hình học về Hi Vọng
, London, 1951, tr. 49.

RF 2015,
88.

Cf. FC,
44: AAS 74 (1982), 136.

Cf. Ibid.,
49: AAS 74 (1982), 141.

Về những khía cạnh xã hội của gia đình,
Cf. HĐTT VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Tóm lược
Học Thuyết Xã hội của Giáo hội Công Giáo
, 248-254.