VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT – VĂN HÓA GIAO TIẾP VÀ NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ GS. Trần Ngọc Thêm Trích – Studocu

VĂN HÓA

GIAO TIẾP

VÀ NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ

GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm

Trích

từ:

Trần

Ngọc

Thêm. Tìm

về

bản

sắc

văn

hoá

V

t

Nam.

NXB

Tp.

HCM, 1996/2006

1. Các đặc trưng cơ bản trong văn hóa giao tiếp của người V

iệt Nam

Bản

chất

con

người

chỉ

bộc

lộ

ra

trong

giao

tiếp.

Người

Trung

Quốc

viết

chữ

“nhân”

với

nghĩa

“tính

người”

bằng

cách

ghép

chữ

“nhị”

với

bộ

“nhân

đứng”

tính

người

bộïc

lộ

trong

quan

hệ

giữa

hai

người.

Nhà

triết

học

người

Đức

L.

Pheurbach

từng

viết:

“Con

người

thể

không

chứa

bản

chất

con

người

trong

mình…

Bản

chất

con

người

chỉ

bộc

lộ

ra

trong

giao

tiếp,

trong

thể

thống

nhất

giữa

con

người

với

con

người.

Con

người

để

cho

mình

chỉ

con

người

theo

nghĩa thông

thường;

còn

con

người

trong

giao

tiếp

với

đồng

loại,

trong

sự

thống nhất giữa Tôi với

Anh mới chính là

Thượng đế” (dẫn theo Kagan [1988: 24]).

1.1.

T

rước

hết,

xét

về

THÁI

ĐỘ

của

người

Việt

Nam

đối

với

việc

giao

tiếp,

thể

thấy

đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp, lại vừa rụt rè.

Như đã

nói,

người

Việt

Nam

nông

nghiệp

sống

phụ

thuộc

lẫn

nhau

rất

coi

trọng

việc

giữ

gìn

các

mối

quan

hệ

tốt

với

mọi

thành

viên

trong

cộng

đồng,

chính

tính

cộng

đồng

này

nguyên

nhân

khiến

người

Việt

Nam

đặc

biệt

coi

trọng

việc

giao

tiếp

.

Sự

giao

tiếp

tạo

ra

mối

quan

hệ:

Dao

năng

liếc

năng

sắc,

người

năng

chào

năng

quen

(tục

ngữ).

Sự

giao

tiếp

củng

cố

tình

thân:

Áo

năng

may

năng

mới,

người

năng

tới

năng thân

(tục

ngữ).

Năng

lực

giao

tiếp

được người Việt Nam xem là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá con người, ca dao có câu:

– Vàng thì thử lửa, thử than,

Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời.

– Một thương tóc bỏ đuôi gà,

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên…

coi

trọng

giao

tiếp

cho

nên

người

Việt Nam rất

thích

giao

tiếp

.

Việc

thích

giao

tiếp

này thể hiện chủ yếu ở hai điểm:

Từ

góc

độ

của

mình,

chủ

thể

giao

tiếp,

thì

người

Việt Nam có

tính

thích

thăm

viếng

.

Phàm

đã

người

Việt Nam,

đã

thân

nhau,

thì

cho

hàng

ngày

gặp

nhau

đâu,

bao

nhiêu

lần

đi

nữa,

những

lúc

rảnh

rỗi,

họ

vẫn

tới

thăm

nhau.

Thăm

viếng

nhau

đây

không

còn

nhu

cầu

công

việc

biểu

hiện

của

tình

cảm,

tình

nghĩa,

tác

dụng

thắt

chặt

thêm

quan

hệ.

Đối

với

phương Tây,

người

ta

chỉ

đi

thăm

viếng

những

người

bình

thường

mình

ít có điều kiện gặp gỡ.

Với

đối

tượng

giao

tiếp

thì

người

Việt Nam có

tính

hiếu

khách

.

khách

đến

nhà,

quen

hay

lạ,

thân

hay

sơ,

người

Việt

nghèo

khó

đến

đâu,

cũng

cố

gắng

tiếp

đón

một

cách

chu

đáo

tiếp

đãi

một

cách

thịnh

tình,

dành

cho

khách

các

tiện

nghi

tốt

nhất,

các

đồ

ăn

ngon

nhất:

Khách

đến

nhà

chẳng

thì

gỏi

,

bởi

lẽ

Đói

năm,

không

ai

đói bữa

.

GS.

Phan

Ngọc

[1996:

38]

nhận

xét:

“Bạn

đi

công

tác,

đến

đâu

dân

đấy

sự

che

chở.

Người

ta

nhường

cho

bạn

nơi

nào?

Gian

thờ.

Gian

nhà

được

xem

trang

trọng

nhất.

bạn

nào

giúp

đỡ

cho

họ

đâu,

nào

con

với

họ

đâu?

Họ

nghèo

thì

chịu

nghèo,

đói

thì

chịu

đói

chứ

không

để

cho

bạn

đói.

Tôi

gặp

một

anh

bạn

người

Đức.

Anh

ta

không

sao

hiểu

được

chuyện

này.

Nếu

Đức,

vào

nhà

người

ta

rất

khó,

ngủ

lại

càng

khó,

đừng

nói

ngủ

nơi

trang trọng

nhất”.

Tính

hiếu

khách

này

càng

tăng

lên

khi

ta

về

những

miền

quê

hẻo

lánh,

những

miền

rừng

núi

xa

xôi.

“Người

đàn

A.

Pazzi

[i]

[1970:

47]

nhận

xét

dầu

nhan

sắc

đến

đâu,

tài

giỏi

đến

đâu

cũng

bị

người

Việt

Nam

coi

người

vợ

xấu

nết

nếu

làm

mất

lòng

khách

đến

thăm nhà,

tỏ

ra

thái

độ

không

mấy

lịch

thiệp,

hoặc

ích

kỷ,

khó

tính

đối

với

bà con, bạn hữu”.

Đồng

thời

với

việc

thích

giao

tiếp,

người

Việt Nam lại

một

đặc

tính

gần

như ngược

lại

rụt

điều

những

người

quan

sát

nước

ngoài

hay

nhắc

đến.

Sự

tồn

tại

đồng

thời

của