Về bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa | Tạp chí Quản lý nhà nước

Mục lục bài viết

(QLNN) – Bảo đảm quyền con người trở thành mối quan tâm chung của toàn cộng đồng quốc tế, trở thành những giá trị cơ bản mà mỗi nhà nước hướng tới nhằm thu hút đông đảo công dân tham gia sâu hơn vào đời sống chính trị của mỗi nước, từ đó góp phần thúc đẩy dân chủ và tiến bộ trên toàn thế giới. Trong đó, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa có vị trí quan trọng, là một bộ phận cơ bản, thiết yếu trong tổng thể quyền con người.

 

 Về bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa

Quyền con người (QCN) là sự kết tinh những giá trị cao quý nhất được thừa nhận chung bởi nền văn minh nhân loại, thể hiện ước mơ, khát vọng cháy bỏng và sự quyết tâm đấu tranh để giành, giữ lấy của con người xuyên suốt cả chiều dài lịch sử. Do đó, QCN luôn thu hút được sự quan tâm rộng rãi của các nhà nước, thiết chế, tổ chức và cộng đồng, ngày càng có vị trí nổi bật tại các diễn đàn quốc tế.

QCN thường được chia thành hai nhóm chính: nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (KTXHVH) và nhóm quyền dân sự, chính trị. Việc Liên hiệp quốc thông qua hai công ước nhân quyền chủ chốt vào năm 1966 là Công ước về các quyền KTXHVH (ICESCR) và Công ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) cũng là kết quả của quá trình vận động và thúc đẩy sự hình thành hai nhóm quyền này1. Có nhiều cách phân loại về QCN, như: (1) các quyền dân sự; (2) các quyền chính trị; (3) các quyền kinh tế; (4) các quyền văn hóa; (5) các quyền xã hội. Nhưng việc phân chia các quyền thành các nhóm nhỏ hơn cũng chỉ mang tính tương đối.

Trên thực tế, có quyền vừa có thể xếp vào nhóm quyền dân sự lại vừa có thể đưa vào nhóm quyền chính trị. Việc phân loại các QCN thành hai nhóm quyền dân sự, chính trị và KTXHVH xuất phát từ nhận thức cho rằng có sự khác nhau về đặc điểm và những yêu cầu trong bảo đảm hai nhóm quyền này 2. Do đó, các quyền KTXHVH có vị trí quan trọng, là một bộ phận cơ bản, thiết yếu trong tổng thể QCN.

Trong ICESCR năm 1966, nội dung các quyền KTXHVH được công ước bảo hộ quy định cụ thể tại phần III, từ Điều 6 – 15. Theo đó, các quyền KTXHVH, bao gồm quyền lao động, quyền sở hữu, quyền có việc làm, quyền được bảo trợ xã hội, quyền được chăm sóc y tế, quyền có nhà ở, quyền giáo dục, quyền được bảo đảm mức sống phù hợp, quyền nghiên cứu khoa học, phát minh, sáng chế…

Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Bảo đảm là làm cho chắc chắn, thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết, bảo đảm là cam đoan chịu trách nhiệm về việc gì đó”3; hay có thể hiểu “bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện được, hay nói chắc chắn và chịu trách nhiệm về lời nói của mình, nhận chịu trách nhiệm làm tốt”4. Cách hiểu này khá tương đồng với nguyên tắc bảo đảm pháp luật ở Việt Nam và trong Luật Nhân quyền quốc tế.

Bảo đảm bao gồm: 1) Bảo đảm chung: là những điều kiện, tiền đề về kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, xã hội, văn hóa để nhà nước và công dân thực hiện các quyền cũng như nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; 2) Bảo đảm riêng: là các biện pháp pháp lý cần thiết để Nhà nước và công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật5.

Bảo đảm quyền KTXHVH có thể hiểu là việc thực hiện trách nhiệm của Nhà nước, xã hội nhằm tạo ra các tiền đề, điều kiện cần thiết để mọi người thực hiện được các quyền KTXHVH của mình đã được pháp luật ghi nhận trên thực tế.

Như vậy, bảo đảm quyền KTXHVH bao hàm bảo đảm từ việc tiến hành xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật của Nhà nước đến cả việc bảo đảm thực hiện chính sách, pháp luật đó trên thực tế. Trong đó,  bảo đảm pháp lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng, góp phần thực hiện các quyền KTXHVH cũng như các quyền khác trên thực tế.

Các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền KTXHVH…, trước hết và chủ yếu là Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội, thực hiện các biện pháp về thể chế lập pháp, hành pháp, tư pháp và về quản lý chính trị, KTXHVH để hiện thực hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn về QCN trong hoạt động của Nhà nước và các hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp, đặc biệt trong các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, nhằm công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền dân sự, chính trị, KTXHVH. Việc bảo đảm tốt các quyền KTXHVH nói riêng, QCN nói chung sẽ giúp giảm thiểu, ngăn ngừa những mâu thuẫn trong xã hội, đồng thời củng cố tình đoàn kết, phát huy dân chủ và thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của đất nước.

Thực trạng bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa ở Việt Nam hiện nay

Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn coi con người vừa là mục tiêu, động lực của quá trình phát triển đất nước, vừa là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phấn đấu phục vụ cho con người, tất cả vì con người. Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ̣ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Việc nâng cao chất lượng thụ hưởng các QCN nói chung, quyền KTXHVH nói riêng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Để tránh tiềm ẩn nguy cơ QCN có thể bị thu hẹp, hạn chế bởi các văn bản dưới luật như: nghị định, thông tư…, tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Như vậy, việc hạn chế QCN, quyền công dân chỉ thuộc về Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, không thuộc về bất kỳ một chủ thể nào khác và không trong bất kỳ trường hợp nào khác.

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tinh gọn bộ máy, để bảo đảm các quyền KTXHVH ở nước ta, hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, cụ thể: Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Đầu tư năm 2018, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018… Gần đây, Chính phủ ban hành các văn bản như: Nghị định số 06/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 hướng dẫn thi hành Luật Người cao tuổi; Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật; Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng…

Điều này đã đem lại nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng giúp Nhà nước có điều kiện hơn để đầu tư, quan tâm đến các mục tiêu ưu tiên như: giáo dục, y tế, xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ các vùng kinh tế còn khó khăn… Cụ thể, trong giai đoạn 2011 – 2015, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 1,8 lần so với 5 năm trước, chiếm 31%; vốn ODA giải ngân đạt khoảng 24 tỷ USD, tăng 70,5%6. Năm 2019, kinh tế ở mức ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP ước đạt 6,8%, vượt toàn bộ 12/12 chỉ tiêu đề ra. Năng lực cạnh tranh tăng 10 bậc7.

Ở nước ta, quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh là quyền hiến định, được ghi nhận tại Điều 32 – 33 Hiến pháp năm 2013. Điểm đặc biệt đáng chú ý là việc Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng chủ thể thụ hưởng quyền sở hữu từ “công dân” sang “mọi người”. Điều này thể hiện sự tiến bộ trong tư duy của các nhà lập hiến Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập thế giới và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Quyền sở hữu và quyền tự do kinh doanh đã được cụ thể hóa trong hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật như: Luật Đầu tư năm 2014, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Doanh nghiệp năm 2014… Từ đó cho thấy, Nhà nước ta luôn ưu đãi, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho mọi người thực hiện quyền tự do kinh doanh. Thời gian qua, số lượng doanh nghiệp (DN) đã không ngừng tăng lên. Qua số liệu của Tổng cục Thống kê, trong 11 tháng năm 2019, cả nước có 126,7 nghìn DN đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.574,4 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 1.137,1 nghìn lao động, tăng 4,5% về số DN, tăng 27,5% về vốn đăng ký và tăng 11,8% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 36,9 nghìn DN quay trở lại hoạt động, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2018, nâng tổng số DN thành lập mới và DN quay trở lại hoạt động trong 11 tháng năm 2019 lên 163,6 nghìn DN8.

Đối với quyền được bảo đảm an sinh xã hội, Nhà nước Việt Nam luôn chủ trương đặt chính sách bảo đảm an sinh xã hội ngang tầm với chính sách kinh tế, phù hợp nguồn lực trong từng thời kỳ. Hệ thống chính sách an sinh xã hội được thực hiện theo 3 nhóm: nhóm chính sách phòng ngừa rủi ro, tập trung vào việc làm bền vững; nhóm chính sách giảm thiểu rủi ro; nhóm chính sách khắc phục rủi ro. Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc về xóa đói, giảm nghèo, phát triển con người cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống.

Với những chính sách và chương trình mục tiêu cụ thể, từ năm 1986 đến nay, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam liên tục giảm. Từ 70% số hộ nghèo (theo tiêu chuẩn Việt Nam) cuối thập niên 1980 xuống 58% năm 1992 – 1993, 37% năm 1997 – 1998, năm 2004 còn khoảng 8%. Riêng giai đoạn 2012 – 2018, đã có hơn 14.934 nghìn lượt hộ nghèo, cận nghèo và đối tượng chính sách khác được tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi. Tính theo chuẩn nghèo của quốc tế đã giảm 50% số người nghèo – đạt được một trong các mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc trước thời hạn năm 20159.

Đối với quyền có việc làm và phát triển thị trường lao động, chúng ta đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề này. Điển hình như: Luật Việc làm năm 2013, Luật An toàn vệ sinh lao động năm 2015, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 (sửa đổi năm 2018), Bộ luật Lao động năm 2019… cùng hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành khác. Đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn 20 Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Gần đây, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước số 22 về chính sách việc làm, Công ước số 186 về Lao động hàng hải (ngày 08/5/2013) và Công ước số 187 về Khung chính sách thúc đẩy an toàn vệ sinh lao động (ngày 23/01/2014).

Công tác tư vấn, giới thiệu việc làm được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Nếu năm 2010 có 125.562 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm thì đến năm 2015 là 463.859 lượt người; đến năm 2018 con số này là trên 1,39 triệu lượt người10. Số người được tư vấn, giới thiệu việc làm tính đến năm 2018 là 1.390.429 lượt người, tăng hơn 10 lần so với số người được tư vấn, giới thiệu việc làm năm 2010. Trong 7 tháng năm 2019 có 936.595 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm, trong đó số người được giới thiệu việc làm là: 110.297 người11. Nhiều người thất nghiệp sau khi tham gia các khóa học nghề đã có việc làm ổn định. Một số địa phương như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương… số lượng người được hỗ trợ học nghề cao.

Đối với các quyền về văn hóa, đặc biệt đã chú trọng việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, khuyến khích, cổ vũ tự do trong sáng tạo nghệ thuật. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và chính sách về văn hóa từng bước được hoàn thiện, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, điển hình như: Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi năm 2009), Luật Quảng cáo năm 2012, Luật Xuất bản năm 2012, Luật Thư viện năm 2019…

Nhiều di sản văn hóa đã trở thành những sản phẩm văn hóa – du lịch hoàn chỉnh, vừa là động lực, vừa là mục tiêu cho sự phát triển ngành kinh tế mũi nhọn du lịch. Công tác sưu tầm, bảo trì và tôn tạo di tích luôn được các cơ quan chức năng quan tâm và đạt được nhiều kết quả thiết thực.

Hiện nay, cả nước có trên 4 vạn di tích được kiểm kê, trong đó có gần 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố, 3.486 di tích quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di sản thế giới (2 di sản thiên nhiên, 5 di sản văn hóa, 1 di sản hỗn hợp). Theo thống kê, cả nước hiện có 61.669 di sản văn hóa phi vật thể của 63 tỉnh, thành phố được kiểm kê, trong đó, có 249 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và 12 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh12. Ngoài ra, theo Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO, đến nay, Việt Nam đã có 7 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh (gồm 3 di sản tư liệu thế giới và 4 di sản tư liệu khu vực châu Á – Thái Bình Dương)13.

Như vậy, với hệ thống pháp luật đã được ban hành và thực tiễn quá trình triển khai thực hiện, có thể thấy rằng về cơ bản, các quyền KTXHVH ở nước ta được bảo đảm thực hiện ngày một tốt hơn. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của 7/9 công ước quốc tế chủ chốt về QCN, trong đó có Công ước quốc tế về các quyền KTXHVH năm 1966 (Việt Nam tham gia ngày 24/9/1982).

Tuy nhiên, ngoài những kết quả đã đạt được, việc bảo đảm quyền KTXHVH của công dân nước ta cũng bộc lộ những hạn chế, vướng mắc nhất định. Một trong các nguyên nhân chính là do việc dạy nghề còn chưa sát thực, phù hợp với đời sống thực tế, đôi lúc mang nặng tính hình thức, lãng phí. Ngoài ra, chính sách bảo hiểm thất nghiệp cũng chưa thực sự gắn với thị trường lao động, chưa có nhiều biện pháp hỗ trợ để duy trì việc làm cho người lao động để tránh sa thải lao động. Bên cạnh đó, đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp chưa được mở rộng đến người lao động có hợp đồng lao động từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng, trong khi đây là đối tượng có nguy cơ mất việc làm cao.

Một số giải pháp tăng cường bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa

Để bảo đảm tốt hơn, có hiệu quả các quyền KTXHVH ở nước ta trong thời gian tới, cần tập trung vào các giải pháp sau đây:

Một là, nên nghiên cứu thành lập cơ quan độc lập tương đối với bộ máy nhà nước với chức năng, nhiệm vụ chính là giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và tòa án trong việc tuân thủ hiến pháp, pháp luật, tăng cường tính khách quan, công bằng, bảo đảm quyền của công dân không bị xâm phạm bởi hoạt động của cơ quan nhà nước. Cơ quan này sẽ do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập với các cơ quan nhà nước, chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

Hiện nay, đã có nhiều quốc gia hình thành các cơ quan độc lập tương đối với bộ máy nhà nước nhằm tăng cường hiệu quả bảo vệ và thúc đẩy QCN được gọi chung là thể chế hoặc cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy QCN, như: Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Thụy Điển… đã thành lập thanh tra Quốc hội (Ombudsman) để bảo vệ QCN được tốt hơn. Trên cơ sở đó, Việt Nam có thể tham khảo, học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia trên để vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp vào bối cảnh của đất nước.

Hai là, đẩy mạnh cải cách chương trình giáo dục, dạy nghề, đào tạo nghề. Đối với các chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn, dạy nghề cho thanh niên cần tiếp tục được quan tâm, đầu tư, trong đó lưu ý sự phù hợp với đời sống thực tế, xác định mức độ đầu tư phù hợp với từng ngành nghề, tránh hình thức, dàn trải, lãng phí. Ngoài ra, đối với chính sách bảo hiểm, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cần được lưu ý hơn để gắn với thị trường lao động.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần có nhiều biện pháp hỗ trợ để duy trì việc làm cho người lao động tránh trường hợp người lao động bị sa thải đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp.

Ba là, tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể; bảo tồn giữ gìn giá trị văn hóa đặc biệt giá trị văn hóa dân tộc thiểu số, xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới. Bên cạnh đó, Nhà nước cần quan tâm hơn đến đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục bổ sung nguồn vốn hỗ trợ để duy trì, và phát huy các nghi lễ đặc sắc, các trò chơi dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số. Ngoài ra, đối với các hành vi vi phạm quyền văn hóa Nhà nước cần có chế tài xử lý một cách nghiêm minh.

Bốn là, tăng cường đối thoại nhằm mục tiêu tăng cường hiểu biết lẫn nhau, góp phần thúc đẩy quan hệ nhiều mặt giữa Việt Nam với các nước trên thế giới. Đồng thời, xác định rõ đối thoại là một trong những phương án hữu ích, có hiệu quả cao được lựa chọn, sử dụng để bác bỏ những thông tin, quan điểm sai trái, thậm chí xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật về dân chủ, nhân quyền ở nước ta mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tạo ra nhằm mục đích chống phá Đảng và Nhà nước.

Năm là, nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà nước, các cấp các ngành, các tổ chức, đoàn thể trong việc bảo đảm các quyền KTXHVH. Đây là công việc không chỉ của các tổ chức trong hệ thống chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội mà còn là nhiệm vụ của các tổ chức xã hội, các hiệp hội nghề nghiệp, DN thuộc mọi thành phần kinh tế của toàn cộng đồng xã hội. Vì vậy, để bảo đảm QCN, quyền công dân trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là quyền dân sự, chính trị, cần có sự chủ động phối hợp giữa các cơ quan chức năng, huy động sự tham gia của mọi lực lượng xã hội.

Chú thích:
1. Đối thoại của Việt Nam với các nước về dân chủ, nhân quyền. http://tapchicongsan.org.vn, ngày 14/8/2010.
2. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị. H. NXB Hồng Đức, 2012, tr. 28.
3. Đại từ điển Tiếng Việt. Hồ Chí Minh. NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2010, tr. 79.
4. Hoàng Phê (chủ biên). Từ điển Tiếng Việt. H. NXB Khoa học xã hội, 1998, tr. 54.
5. Hoàng Thị Kim Quế. Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật. H. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, tr. 252.
6. Bộ Ngoại Giao. Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam. H, 2017, tr. 32.
7. Những thành tựu kinh tế – xã hội đạt được là tích cực, toàn diện. http://baochinhphu.vn, ngày 30/10/2019.
8. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới tại Việt Nam không ngừng tăng cao. http://www.vnmedia.vn, ngày 02/12/2019.
9. Cuốn sách thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người. http://www.mofahcm.gov.vn.
10. Sau 10 năm, đã có 13 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. http://laodongxahoi.net, ngày 12/7/2019.
11. Tổng kết 10 năm thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp và những định hướng trong thời gian tới. https://tapchigiaoduc, ngày 20/9/2019.
12. Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam vì sự phát triển bền vững. http://dangcongsan.vn, ngày 27/7/2018.
13. Xem bốn Di sản Tư liệu Thế giới ở Việt Nam. https://dantri.com.vn, ngày 17/5/2016.

     ThS. Nguyễn Thị Thanh Nga
   Học viện Chính trị công an nhân dân