Xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay

Xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay

1. Văn hóa lãnh đạo, quản lý là một bộ phận quan trọng của văn hóa, là hệ thống những giá trị, chuẩn mực với những đặc trưng khác nhau của một con người, một tổ chức tạo nên phong cách lãnh đạo, quản lý khoa học, có ảnh hưởng ở phạm vi rộng lớn đến cách thức hành động của mọi người và tổ chức nhằm đạt được đồng thuận thực hiện các mục tiêu đã đặt ra của hệ thống.

 

 

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”, “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Tư tưởng của Người về văn hoá lãnh đạo, quản lý là một hệ thống quan điểm sâu sắc của Người về những giá trị trong lãnh đạo, quản lý của Đảng cầm quyền, Nhà nước của dân, do dân, vì dân, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị và của người lãnh đạo, quản lý.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng đồng thời là bộ phận trong hệ thống chính trị. “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”[1].

Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Mỗi đảng viên và tổ chức của Đảng vừa là người lãnh đạo, đồng thời cũng là người quản lý. Cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị là Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Hiện nay một bộ phận cán bộ chủ chốt đồng thời vừa là đứng đầu Đảng, Đảng, chính quyền hoặc Mặt trận và các đoàn thể chính trị các cấp… Họ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đứng đầu chính quyền, tức là người quản lý.

Văn hoá lãnh đạo của Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền nằm ở trí tuệ bản lĩnh, phẩm chất của Đảng. Đảng cầm quyền đòi hỏi sự gắn bó mật thiết giữa văn hoá với chính trị, văn hoá đứng trong chính trị. Đó là sự thấu hiểu dân, nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý; thực hiện dân quyền, dân chủ, dân sinh, nâng cao dân trí vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 

Đại hội XII của Đảng nêu lên hàng đầu vấn đề xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, “tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị”[2]. Vì vậy xây dựng văn hoá chính trị trong điều kiện Đảng cầm quyền, cụ thể là xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là vấn đề quan trọng vừa có ý nghĩa cấp thiết, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng.

2. Thời gian qua, ở nước ta, văn hóa lãnh đạo quản lý đã được xây dựng trong hệ thống chính trị. Văn hóa Đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, văn hóa nơi công sở từng bước được triển khai thực hiện, góp phần quan trọng vào việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ và đồng thuận xã hội, tạo nên thắng lợi của công cuộc đổi mới 30 năm qua.

Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế, Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ có phần lúng túng, có mặt còn chậm, thiếu đồng bộ, còn nhiều chồng chéo và bất cập,vẫn còn tình trạng “hành chính hóa”, “công chức hoá”, “viên chức hoá”. “Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu chưa rõ”[3].

Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kết quả còn thấp. Số lượng cán bộ, công chức không những không giảm mà lại tăng, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập và công chức, cán bộ chuyên trách, không chuyên trách xã, phường, thị trấn. Việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,… chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.

Những hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ là một trong những điểm yếu, cản trở sự phát triển. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ có mặt còn hạn chế. Chưa nắm và giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện nay, trong khi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội. Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ chức đảng và đảng viên vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ Đảng. Nhiều khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng, đảng viên chậm được phát hiện, kiểm tra, xử lý, hoặc xử lý kéo dài, nên kỷ cương, kỷ luật ở một số nơi chưa nghiêm; chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát.

Công tác dân vận còn nhiều mặt hạn chế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền các cấp chưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, quản lý, thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển kinh tế – xã hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội còn chậm; phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có những nội dung còn lúng túng. Chưa xác định rõ nội dung và phương thức cầm quyền. Chưa thật sự phát huy vai trò của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội. Còn có biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thật sự sâu sát thực tế, cơ sở. Tình trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít chậm được khắc phục.

Những hạn chế, khuyết điểm trên đây làm cho Đảng ta chưa thật sự trong sạch, vững mạnh, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý là đòi hỏi khách quan của xu thế thời đại và là đòi hỏi bức thiết của tình hình hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.

3. Một số giải pháp xây dựng văn hoá lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay:

–  Về nhận thức, xây dựng văn hóa lãnh đạo của Đảng cầm quyền là vấn đề cốt lõi của văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay. Khi nói tới văn hóa cầm quyền của Đảng tức là nói đến sự thẩm thấu của văn hóa vào trong hoạt động cầm quyền của Đảng. Do vậy, văn hóa cầm quyền của Đảng cũng có nghĩa là nói đến văn hóa lãnh đạo, quản lý của đội ngũ đảng viên trong bộ máy nhà nước. Mọi đảng viên có chức trách trong bộ máy nhà nước đều có hai hoạt động: hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý. Hoạt động lãnh đạo là các hoạt động không gắn với việc sử dụng quyền lực, như: Thảo luận, xây dựng cương lĩnh, đường lối, các hoạt động mang tính động viên thuyết phục, chia sẻ, khích lệ… các đối tượng lãnh đạo để thực hiện các mục tiêu, quyết định của chủ thể lãnh đạo. Những người lãnh đạo được trao quyền hạn nhất định; sử dụng các công cụ luật pháp, các quy định, quy chế, các chỉ thị, mệnh lệnh… nhằm thực hiện việc quản lý nhà nước và xã hội.

– Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm.

Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi; dân chủ trong Đảng là cơ sở dân chủ ngoài xã hội. Cần thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương.

– Quan tâm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện đảng cầm quyền, người cán bộ lãnh đạo, quản lý có văn hoá là không dùng quyền lực, mà bằng thuyết phục, cảm hoá thông qua trí tuệ và cái tâm, cái đức. “không phải cứ viết lên trán chữ “cộng sản” là được quần chúng yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức”.  Tăng cường dân chủ là phải tẩy sạch bệnh quan liêu trong hệ thống chính trị. Những hành vi nắm quyền cậy quyền, lợi dụng, lạm dụng, say mê quyền lực, tranh giành quyền lực, tham quyền cố vị, quan liêu mệnh lệnh là hành vi lãnh đạo, quản lý phản văn hoá, là kẻ thù của văn hoá.

– Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

– Nâng cao nhận thức của lãnh đạo, quản lý các cấp về xây dựng văn hóa kiểm tra, giám sát. Tổ chức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tập trung chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

– Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, coi đây là yếu tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể cho phù hợp với nền kinh thế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quan tâm đến lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tầng lớp nhân dân, triển khai thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước… Cần đổi mới phương thức phối hợp hoạt động giữa cơ quan Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trên cơ sở mối quan hệ: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

– Tăng cường và thường xuyên giáo dục đạo đức, lối sống, bản lĩnh chính trị, tính tiền phong gương mẫu, ý thức trách nhiệm, sự liêm sỉ, tính trung thực của mỗi cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải được xác định rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mình; phải thật sự là những người gương mẫu về đạo đức và lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác; phải thường xuyên rèn luyện toàn diện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, nhân cách, về chuyên môn, về phong cách lãnh đạo, quản lý, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, thương yêu nhân dân trong mọi hoàn cảnh. Có lối sống cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư với người, với việc. Luôn đi sâu nghiên cứu khoa học, không ngừng học tập, phấn đấu quyết liệt để nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ chuyên môn; nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý, biết vạch phương hướng, chiến lược, dự báo khoa học để giúp cho Đảng và Nhà nước đề ra được những chính sách tốt. Họ phải là người có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật để làm tròn trách nhiệm của mình với tư cách là những “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Văn hoá lãnh đạo, quản lý thể hiện rõ sự ứng xử văn hoá trong các mối quan hệ với người, với việc, với mình; ứng xử có lý có tình, hài hoà nhuần nhị, không nịnh hót cấp trên, không coi thưởng và dùng mệnh lệnh với cấp dưới, không trù dập người có tài. Phải biết điều tra, nghiên cứu, đôn đốc, giúp đỡ, khuyến khích kiểm tra, làm đến nơi đến chốn, nói đi đôi với làm, công khai, minh bạch.

Rèn luyện đạo đức lối sống, tác phong của cán bộ, đảng viên sao cho “Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục”.Là người lãnh đạo, cán bộ phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Cán bộ, nhân viên nhà nước cần có cả đức và tài, phải vừa hiền lại vừa minh, vừa gương mẫu chấp hành pháp luật, am hiểu pháp luật và nắm vững chuyên môn.

Là người đày tớ trung thành, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải làm việc tận tụy, có lối sống cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, vừa nêu gương, vừa tôn kính dân, thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân; bằng hành động thực tế làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Muốn vậy họ phải rèn luyện tác phong làm việc dân chủ, sâu sát, biết làm sao cho quần chúng biết hưởng quyền dân chủ của mình, biết giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng và khiếu nại, tố cáo của công dân.

– Xây dựng văn hóa trong công tác cán bộ của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Cần đổi mới công tác đánh giá cán bộ, xác định thẩm quyền, trách nhiệm của cấp ủy Đảng các cấp, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ và trong quy hoạch, luân chuyển cán bộ, đồng thời tiến hành xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cán bộ theo tiêu chuẩn chức danh, theo hiệu quả công việc và sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, đội ngũ làm công tác tổ chức cán bộ vững mạnh. Quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong tất cả các tổ chức, ở tất cả các ngành, các lĩnh vực, ở các cấp độ khác nhau theo tinh thần văn hóa lãnh đạo, quản lý chuyên nghiệp. Tổ chức tốt việc luân chuyển cán bộ. Cần đề cao ý thức trách nhiệm và kỷ luật trong việc luân chuyển cán bộ. Cần phải giám sát, kiểm tra và khen thưởng thường xuyên cán bộ về tư tưởng, công tác, quan hệ và sinh hoạt để xem xét công tác, học tập, giúp đỡ người tiến bộ ít, phát huy mặt tích cực, khắc phục, sửa chữa những sai lầm, thiếu sót. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn ngay từ khi cán bộ có dấu hiệu sai lầm.  Cần thực hiện tốt phương pháp thi tuyển và thử việc trong sử dụng cán bộ. Việc thi tuyển phải đúng mục tiêu, quan điểm và tiêu chuẩn đánh giá, sử dụng cán bộ.

Xây dựng văn hóa trong công tác cán bộ sẽ góp phần xây dựng thành công đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, đủ đức, đủ tài, đồng bộ về cơ cấu, có tầm nhìn chiến lược cho cả trước mắt và lâu dài,đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.

 

PGS,TS. Phạm Xuân Mỹ

Nguyên Trưởng Khoa Lịch sử Đảng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

 


 


[1] Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, HN , 2011, tr.89

[2] Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, HN , 2016, tr.203

[3] Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, HN , 2016, tr.193