Xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế và quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ​

Xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế và quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ​

 

1. Sự phát triển lý luận của Đảng về xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế

Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Ngay từ khi chưa giành chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức được sự cần thiết phải gắn kết phát triển văn hóa với xây dựng, phát triển kinh tế xã hội; phải xây dựng văn hóa trong Đảng, trong hệ thống chính trị, trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức lối sống và đời sống văn hóa trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã khẳng định: “Quan hệ giữa vǎn hoá và kinh tế, chính trị…vǎn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, vǎn hoá) ở đó người cộng sản phải hoạt động”[1]. Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”[2].

Kế thừa những quan điểm đó, từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, tư duy lý luận của Đảng về xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đánh dấu sự đổi mới toàn diện tư duy lý luận của Đảng, trong đó có vấn đề phát triển văn hóa, xây dựng con người. Vấn đề văn hóa biểu hiện cụ thể, gồm: sự nghiệp giáo dục, hoạt động văn hóa, văn nghệ. Mặc dù chưa thể hiện rõ quan điểm xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, nhưng Đại hội đã đặt vấn đề hiệu quả của hoạt động văn hóa trong mọi hoạt động xã hội, trong đó có chính trị và kinh tế. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội chỉ rõ: “Mỗi hoạt động văn hoá, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân”[3].

Tư tưởng đổi mới tư duy lý luận về phát triển văn hóa của Đảng đề ra đúng vào lúc UNESCO phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1988 – 1997) với định hướng lớn là văn hóa vì sự phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa và đa dạng văn hóa. Sự thay đổi cách nhìn về vai trò của văn hóa là cực kỳ quan trọng, thể hiện tầm nhìn, tầm tư duy bắt nhịp với xu thế thời. Tại Hội Trung ương 4 khóa VII (năm 1993), Đảng đã nhìn nhận vai trò quan trọng của văn hóa, coi “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”[4]. 

Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đã đánh dấu một bước ngoặt đưa nước ta sang giai đoạn phát triển mới. Đại hội đã quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vấn đề văn hóa gắn với phát triển được nhận thức ở những chiều cạnh mới. Văn hóa không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu của phát triển. Đó là hai mặt thống nhất trong mục tiêu phát triển văn hóa. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Tư duy mới về phát triển văn hóa đã góp phần phát huy giá trị nền tảng, cốt lõi của dân tộc, đồng thời ngăn cản, hạn chế những tác động tiêu cực khi mở cửa, hội nhập quốc tế.  Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Văn hóa… vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Mọi hoạt động văn hóa,văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống,…”[5].

Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII ra đời trong bối cảnh Đảng ta chủ động đổi mới tư duy, lãnh đạo toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có văn hóa. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII thể hiện bước chuyển quan trọng về tư duy lý luận, năng lực đúc kết thực tiễn những năm đầu đổi mới. Nghị quyết chứa đựng nhiều giá trị tư tưởng, nhân văn và khoa học. Các quan điểm chỉ đạo nêu trong Nghị quyết thực sự đổi mới, có giá trị về cả lý luận và thực tiễn. Trong đó, quan điểm văn hóa là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ, khẳng định mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế. Nghị quyết khẳng định: “Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương…”[6]. Có thể khẳng định rằng, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển, hoàn thiện lý luận về văn hóa của Đảng, định hướng phát triển văn hóa trong trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với tinh thần đổi mới tư duy lý luận, Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,..”[7] và “…văn hóa… vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”[8]. Hội nghị lần Trung ương 10 khóa IX (năm 2004) đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống lành mạnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam. Nghị quyết đã chỉ ra điều kiện tiên quyết bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước là dựa trên cơ sở phát triển đồng bộ cả ba lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Kết luận của Hội nghị chỉ rõ: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”[9].

Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Đại hội X của Đảng (tháng 4 năm 2006) tiếp tục nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế với văn hóa. Nghị quyết Đại hội chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam…, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế”[10]. Với tinh thần đó, để chính trị và kinh tế gắn kết chặt chẽ hơn với văn hóa, Nghị quyết đã đặt ra yêu cầu: “Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân… Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh…”[11].

Như vậy, tiến trình phát triển lý luận của Đảng về văn hóa nói chung và văn hóa trong chính trị và kinh tế nói riêng ngày càng hoàn thiện. Trước đây,  Đảng đặt vấn đề gắn kết phát triển văn hóa với kinh tế – xã hội, hiện nay Đảng ta khẳng định, văn hóa không chỉ là mục tiêu, động lực mà nằm ngay trong quá trình phát triển kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế phải tạo ra bước phát triển mới về văn hóa; văn hóa phát triển thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với tinh thần đó, tại Đại hội XI của Đảng đã đề cập đến vấn đề văn hóa và phát triển với những nhận thức sâu sắc hơn, ngày càng đề cao vị trí, vai trò của văn hóa, tiếp cận với bản chất đích thực, vốn có của văn hóa là từ con người, vì con người. Đại hội cũng đã đánh giá thực trạng quan hệ giữa văn hóa và tăng trưởng kinh tế trên hai phương diện: mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế và văn hóa trong kinh tế. Về mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, Đảng ta đánh giá “Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế”[12]. Về văn hóa trong kinh tế, yếu tố văn hóa còn mờ nhạt, vắng bóng trong tăng trưởng kinh tế. Biểu hiện rõ nét nhất là mô hình tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm qua chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, vốn đầu tư của nước ngoài và nguồn nhân công chất lượng thấp. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng không chỉ nhấn mạnh “tính văn hóa” trong mọi hoạt động của đời sống xã hội mà đã đặt vấn đề đưa văn hóa đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả trong mọi hoạt động cả chính trị và kinh tế. Nghị quyết chỉ rõ: “Đưa phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp,…”[13]..

Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI có sự phát triển mạnh mẽ lý luận về văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nhiều phương diện, trong đó có quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế. Nghị quyết đề xuất sáu nhiệm vụ nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách, lối sống tốt đẹp của con người Việt Nam. Với cách tiếp cận đặt văn hóa trong mối quan hệ với chính trị và kinh tế, Nghị quyết đề ra hai nhiệm vụ mới mà các văn kiện, nghị quyết trước đây chưa đề cập hoặc đề cập nhưng chưa thành nhiệm vụ, là “Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế” và “Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa”[14].

Có thể khẳng định rằng, vấn đề xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế đã được Đảng ta đề cập từ lâu, nhưng đây là lần đầu tiên lý luận về văn hóa của Đảng đề cập đến vấn đề xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế một cách rõ nét nhất và được tách thành một nhiệm vụ cụ thể. Đảng ta cũng chỉ rõ về những dấu hiệu nội hàm cần phải đạt được trong việc xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI chỉ rõ: “Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh… Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế… Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc”[15]. Điều đó có nghĩa là, cần phải làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống, trong phát triển kinh tế – xã hội, trong tổ chức và hoạt động chính trị và trong sản xuất, kinh doanh của các cá nhân và tổ chức.

Theo đó, xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, trước hết phải chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể chính trị, coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong đó, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể. Đồng thời, tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.

Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cùng với sự đổi mới trong tư duy kinh tế và chính trị, Đảng ta cũng đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy lý luận về vai trò của văn hóa trong chính trị và kinh tế. Đây là sự nhận thức sâu sắc của Đảng về mối quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong chính trị và kinh tế. Từ chỗ nhấn mạnh xây dựng văn hóa trong cộng đồng, Đảng ta nhấn mạnh đến phát huy vai trò của văn hóa với nhiệm vụ phát triển kinh tế và công tác xây dựng Đảng, đặc biệt chú trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong ứng xử của thanh niên, thiếu niên, chống những hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa. Đây là những thành tựu lý luận có ý nghĩa to lớn trong chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.

2. Sự phát triển lý luận của Đảng về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Vấn đề nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằn xã hội đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra ngay từ những ngày đầu khi mới giành được độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm yêu cầu phải gắn kết phát triển kinh tế và phát triển văn hóa với bảo đảm công bằng xã hội, xem đó không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Người chỉ rõ: “Trong công tác lưu thông phân phối, có hai điều quan trọng phải luôn nhớ: Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”[16].

Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh dạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn coi trọng gắn kết phát triển kinh tế với xây dựng văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đại hội VI của Đảng đã nhấn mạnh: “Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”[17].

Bổ sung và phát triển quan điểm Đại hội VI của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII đã khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”[18]. Đồng thời, Cương lĩnh cũng nêu rõ: “Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”[19].

Như vậy, nếu Đại hội VI của Đảng đặt ra những vấn đề cơ bản về phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, thì Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đã bổ sung, phát triển và cụ thể hóa hơn mối quan hệ này. Để bảo đảm tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã nhấn mạnh đến các chính sách bình đẳng nam nữ; chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc; thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân; phát huy vai trò văn hóa nghệ thuật trong nuôi dưỡng, nâng cao tâm hồn Việt Nam; bảo đảm quyền được thông tin, quyền được tự do sáng tạo của công dân.

Quá trình thực hiện Cương lĩnh (năm 1991) là quá trình tiếp tục phát triển tư duy lý luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Hội nghị Trung ương 4 khóa VII đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình,… Đây là những nghị quyết tập trung vào chiến lược xây dựng con người, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định tư tưởng chỉ đạo quan trọng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”[20]. Một trong những tư tưởng chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch 5 năm 1986 – 2000 là “Kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhằm tạo được chuyển biến rõ nét về thực hiên công bằng và tiến bộ xã hội”[21]. Điểm mới trong tư duy lý luận của Đảng tại Đại hội VIII là Đảng ta đã xây dựng Chương trình giải quyết các vấn đề văn hóa – xã hội và nêu rõ mục tiêu: “Giải quyết việc làm, phát triển toàn diện các mặt hoạt động về văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình và các mặt xã hội khác nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần và thể lực của dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội”[22]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII tiếp tục khẳng định: “Chǎm lo vǎn hóa là chǎm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu vǎn hóa, vì xã hội công bằng, vǎn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố vǎn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương,… biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”[23].

Đại hội IX của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm trước đó và khẳng định: “Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tao động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khách nhân dân làm giàu hợp pháp”[24] và “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”[25].

Đại hội X của Đảng đã thể hiện sâu sắc hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, coi đây là một trong những nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội X chỉ rõ: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, ý tế, giáo dục,… giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”[26]. Đặc biệt, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại X đã dành riêng một phần để nói rõ những nội dung cơ bản của nhiệm vụ: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”. Đại hội nhấn mạnh: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế – xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc”[27]. Điều này thể hiện tư duy lý luận của Đảng ta về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngày càng đầy đủ và cụ thể hơn.

Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đt nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán: “… phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[28]. Đặc biệt, Đại hội đã thông qua một số nội dung về tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa như những chỉ tiêu chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020: “…chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới;… tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi;… lao động qua đào tạo đạt trên 70%;… tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5 – 2%/năm… Đến năm 2020, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ tiên tiến, hiện đại”[29].

Như vậy, có thể thấy, quan điểm nhất quán của Đảng trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của quá trình phát triển kinh tế, xã hội và cũng là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật,… và văn hóa trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế – xã hội và con người. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI tiếp tục chỉ rõ: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc trưng cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”[30]. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước vừa thể hiện sự nối tiếp mục tiêu về văn hóa đã được đặt ra ở các nhiệm kỳ đại hội trước đây, vừa là sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp và bền vững trong xây dựng nhân cách của con người Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo hướng phát triển nhanh và bền vững.

Có thể khẳng định, Đảng ta luôn luôn chú ý đến mối quan hệ này và nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ. Trên cơ sở nhận thức rõ tính mâu thuẫn và thống nhất trong quá trình tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Đảng ta đã từng bước đề ra những quan điểm, chủ trương và giải pháp kịp thời, đúng đắn để xử lý mối quan hệ này một cách hợp lý. Từ sự quan tâm đến bề rộng của mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Đảng ta đã dần dần tập trung vào chiều sâu, vào chất lượng của mối quan hệ này. Từ sự quan tâm ở cấp vĩ mô, Đảng ta đã nhấn mạnh tới sự chuyển động ở cấp vi mô, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ngay trong từng lĩnh vực, từng địa phương, thực hiện tiến bộ ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển./.

PGS, TS Phan Trọng Hào

Thư ký khoa học chuyên trách – Hội đồng Lý luận Trung ương

 

 

 


[1]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr, tr. 316.

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 246.

[3]Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, tr. 91.

[4]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 513.

[5]Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 110 – 111.

[6]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 55.

[7]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 88.

[8]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 144.

[9]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VII,IX) Về văn hóa, xã hội, khoa học – kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 283.

[10]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 106.

[11]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 213.

[12]Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 169

[13]Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 223.

[14]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 53.

[15]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 53.

[16]Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 244.,

[17]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 86.

[18]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.  139.

[19]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 139.

[20]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 85.

[21]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 204 – 205.

[22]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 203

[23]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 55.

[24]Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 104.

[25]Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 162.

[26]Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 77 -78.

[27]Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 101.

[28]Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 316.

[29]Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 104 – 105.

[30]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 48 – 49.