Nhân khẩu Trung Quốc – Wikipedia tiếng Việt
Nhân khẩu Trung Quốc | |
---|---|
Dân số Trung Quốc từ 1960 | |
Dân số | (2018 dữ liệu) (hạng 1) |
Tỷ lệ sinh trưởng | 0.59% (2016) (hạng 159) |
Tỷ lệ sinh | 12.95 sinh mỗi 1,000 (2016) |
Tỷ lệ tăng | 7.06 tử mỗi 1,000 (2016) |
Tuổi thọ | 76.34 năm (2015) |
• Nam giới | 73.64 năm (2015) |
• Phụ nữ | 79.43 năm (2015) |
Tỷ lệ sinh sản | 1.60 trẻ em trên mỗi phụ nữ (2017) |
Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh | 12.2 tử vong trên 1000 ca sinh sống (2015) |
Tuổi tác | |
0–14 tuổi | 17.15% (2015) |
15–64 tuổi | 72.04% (2015) |
65 trở lên | 10.81% (2015) |
Giới tính | |
Lúc sinh | 1.14 nam thành nữ (2016) |
Dưới 15 tuổi | 1.14 nam thành nữ (2015) |
15–64 tuổi | 1.05 nam thành nữ (2015) |
65 trở lên | 0,90 nam thành nữ (2015) |
Quốc tịch | |
Quốc tịch | Danh từ: Trung Quốc tính từ: Trung Quốc |
Sắc tộc chính | Người Hán |
Sắc tộc thiểu số | Tráng, Mãn, Hồi, Miêu, Duy Ngô Nhĩ, Lô Lô, Thổ Gia, Nội Mông, Tạng, Bố Y, Động, Dao, Triều Tiên, Bạch, Hà Nhì, Lê, Kazakh, Thái, She, Lisu, Gelao, Lahu, Dongxiang, Va, Sui, Nakhi, Qiang, Tu, Xibe, Mulao, Kyrgyz, Daur, Jingpo, Salar, Blang, Maonan, Tajik, Pumi, Achang, Nu, Ewenki, Kinh, Jino, Đức Ngang, Uzbek, Nga, Yugur, Bonan, Monba, Oroqen, Derung, Tatar, Hezhen, Lhoba |
Ngôn ngữ | |
Chính thức | Quan thoại |
Ngôn ngữ | Tiếng Ngô (Thượng Hải), Việt (Quảng Đông), Mân (Mân Nam, Mân Đông, khác), Tương, Cám, Khách Gia, nhiều phương ngữ tiếng Quan thoại và Patuá |
Nhân khẩu Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đặc trưng bởi một dân số lớn với độ tuổi thanh niên khá nhỏ, một phần là kết quả của “chính sách một con” của đất nước. Các chính sách nhân khẩu học được thực hiện tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 1979 đã giúp tránh được 400 triệu ca sinh thêm, điều này sẽ đưa dân số hiện tại lên khoảng 1,7 tỷ. Một số học giả nghĩ rằng những dữ liệu này được phóng đại và tác động tránh được là khoảng 50-60 triệu ca sinh. Trung Quốc là quốc gia có dân số lớn nhất thế giới trong một thời gian dài. Vào thời điểm điều tra dân số đầu tiên, vào năm 1953, con số này đã tiết lộ 582 triệu dân; cuộc điều tra dân số thứ năm, năm 2000, gần gấp đôi, với 1,2 tỷ dân. Bắt đầu từ giữa những năm 1950, chính phủ Trung Quốc đã thông qua, với mức độ thành công, các biện pháp và chương trình kế hoạch hóa gia đình và kiểm soát dân số khác nhau. Sự gia tăng dân số nhanh chóng của Trung Quốc đã khiến chính phủ thực hiện chính sách một con nghiêm ngặt cho mỗi gia đình, được công bố vào năm 1979, rằng các cặp vợ chồng chỉ có thể có một con. Với biện pháp này, Trung Quốc sớm ổn định và giảm tỷ lệ sinh. Năm 1971, phụ nữ có trung bình 5,4 trẻ em, so với ước tính 1,7 trẻ em năm 2004. Việc giám sát chương trình, tuy nhiên, thay đổi đáng kể tùy thuộc vào vị trí. Ngày nay, dân số tiếp tục tăng. Ngoài ra còn có sự mất cân bằng giới tính nghiêm trọng. Dữ liệu từ cuộc điều tra dân số năm 2000 tiết lộ rằng có 100 bé trai được sinh ra trên 100 bé gái, vào tháng 7 năm 2004 đã khiến chính phủ cấm phá thai có chọn lọc đối với thai nhi nữ. Người ta ước tính rằng sự mất cân bằng này sẽ tiếp tục phát triển cho đến năm 2025 – năm 2030, lên đến 20%, và sau đó sẽ giảm dần. Dân số Trung Quốc đã già đi đáng kể; Ước tính đến năm 2020, 11,8% người dân Trung Quốc sẽ từ 65 tuổi trở lên, chủ yếu là kết quả của sự tăng trưởng kinh tế to lớn mà Trung Quốc đã trải qua trong những năm gần đây, do đó làm tăng điều kiện sống của đất nước vẫn chậm), như ở Brasil.
Mục lục bài viết
Dân số lịch sử dân tộc[sửa|sửa mã nguồn]
[1]Dân số lịch sử dân tộc ở Trung Quốc từ năm 2 SCN
Dân số Trung Quốc dao động trong khoảng từ 30 triệu đến 86 triệu trong thời nhà Hán. Sau sự sụp đổ của nhà Hán. dân số ở lại khoảng 50 triệu cho đến khi nhà Đường ra đời. Dưới thời nhà Đường. dân số tăng từ 45 triệu lên 80 triệu trong suốt 200 năm. Vào đầu triều đại nhà Tống. dân số đứng ở mức hơn 100 triệu. Sau khi nhà Minh và thời kỳ đầu của nhà Thanh thành lập. dân số đã di chuyển khoảng 100 triệu đến 150 triệu cho đến những năm 1700. Trong giai đoạn giữa năm 1749 và 1851. dân số tăng gấp đôi trong một thế kỷ. Trong thời gian 1960-2015. dân số tăng lên gần 1.4 tỷ. Dưới thời Mao Trạch Đông. Trung Quốc đã tăng gần gấp đôi dân số từ 540 triệu vào năm 1949 lên 969 triệu vào năm 1979. Sự tăng trưởng này chậm lại do chính sách một con được ban hành vào năm 1979.
Bạn đang đọc: Nhân khẩu Trung Quốc – Wikipedia tiếng Việt
Triều đại | Năm | Các hộ gia đình | Dân số | Ước tính hiện tại | Tỷ lệ dân số thế giới |
---|---|---|---|---|---|
Chiến Quốc | -400 | 43,740,000 | 27% | ||
Tần | -200 | 42,000,000 | 28% | ||
Tây Hán | 1 | 12,366,470 | 59,594,979 | 65,000,000 | 30% |
Đông Hán | 156 | 16,070,906 | 50,068,856 | 65,000,000 | 31% |
Đông Hán – Tam Quốc | 200 | 60,800,000 | 32% | ||
Tam Quốc | 280 | 6,801,000 | 8,200,000 | 37,986,000 | 20% |
Tây Tấn | 300 | 35,000,000 | 18% | ||
Nam-Bắc triều | 400 | 51,300,000 | 27% | ||
Nam-Bắc triều | 500 | 51,300,000 | 27% | ||
Tùy | 600 | 8,700,000 | 44,500,000 | 46,000,000 | 23% |
Đường | 700 | 6,156,141 | 37,140,000 | 48,300,000 | 23% |
Đường | 755 | 8,914,709 | 52,919,309 | 90,000,000 | 32% |
Đường | 800 | 50,600,000 | 23% | ||
Ngũ Đại Thập Quốc | 900 | 39,000,000 | 16% | ||
Tống | 1000 | 60,950,000 | 23% | ||
Tống (Bắc) | 1100 | 110,750,000 | 35% | ||
Tống (Nam) | 1200 | 140,000,000 | 39% | ||
Nguyên | 1290 | 13,196,206 | 58,834,711 | 75,306,000 | 21% |
Nguyên | 1351 | 27,650,000 | 87,587,000 | 120,359,000 | 34% |
Minh | 1393 | 10,699,399 | 58,323,934 | 65,000,000 | 19% |
Minh | 1400 | 11,415,829 | 66,598,339 | 81,000,000 | 23% |
Minh | 1500 | 10,508,935 | 60,105,835 | 110,000,000 | 26% |
Minh | 1550 | 10,621,436 | 60,692,856 | 145,000,000 | 30% |
Minh | 1600 | 197,000,000 | 36% | ||
Thanh | 1650 | 123,000,000 | 140,000,000 | 26% | |
Thanh | 1700 | 126,110,000 | 160,000,000 | 26% | |
Thanh | 1750 | 181,810,000 | 225,000,000 | 37% | |
Thanh | 1800 | 332,181,400 | 330,000,000 | 37% | |
Thanh | 1850 | 430,000,000 | 436,100,000 | 36% | |
Trung Hoa Dân quốc | 1928 | 474,780,000 | 474,780,000 | 24% | |
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | 1950 | 546,815,000 | 552,000,000 | 22% | |
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | 1975 | 916,395,000 | 920,940,000 | 23% | |
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | 1982 | 1,008,180,000 | 1,022,250,000 | 22% | |
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | 2000 | 1,262,645,000 | 1,283,190,000 | 21% | |
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | 2005 | 1,303,720,000 | 1,321,620,000 | 20% | |
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | 2010 | 1,337,825,000 | 1,359,760,000 | 20% | |
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | 2015 | 1,374,620,000 | 1,397,030,000 | 19% |
Dân số hiện tại[sửa|sửa mã nguồn]
Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đã triển khai các cuộc tìm hiểu vào năm 1953, 1964, 1982, 1990, 2000 và 2010. Năm 1987, cơ quan chính phủ công bố rằng cuộc tìm hiểu dân số vương quốc lần thứ tư sẽ diễn ra vào năm 1990 và cứ sau mười năm sẽ có một cuộc tìm hiểu. Điều tra dân số năm 1982 ( báo cáo giải trình tổng dân số là 1.008.180.738 ) thường được gật đầu là đáng an toàn và đáng tin cậy, đúng chuẩn và kỹ lưỡng hơn đáng kể so với hai lần trước. Các tổ chức triển khai quốc tế khác nhau háo hức tương hỗ người Trung Quốc thực thi cuộc tìm hiểu dân số năm 1982, gồm có cả Quỹ hoạt động giải trí dân số của Liên hợp quốc, đã quyên góp 15,6 triệu đô la Mỹ cho việc chuẩn bị sẵn sàng và thực thi tìm hiểu dân số. Trung Quốc là vương quốc đông dân nhất quốc tế trong nhiều thế kỷ. Khi Trung Quốc thực thi cuộc tìm hiểu dân số sau năm 1949 tiên phong vào năm 1953, dân số đứng ở mức 583 triệu người ; theo tìm hiểu dân số lần thứ năm năm 2000, dân số đã tăng hơn gấp đôi, đạt 1,2 tỷ .Đến cuộc tìm hiểu dân số lần thứ sáu năm 2010, tổng dân số đã lên tới 1.370.536.875, trong đó đại lục có 1.339.724.852, Hồng Kông có 7.097.600 và Ma Cao có 552.300 .
Dân số Trung Quốc theo độ tuổi và giới tính[sửa|sửa mã nguồn]
- Kim tự tháp dân số Trung Quốc kể từ ngày Tổng tìm hiểu vương quốc tiên phong vào ngày 30 tháng 6 năm 1953
- Kim tự tháp dân số Trung Quốc kể từ ngày Tổng tìm hiểu vương quốc lần thứ 2 vào ngày 1 tháng 7 năm 1964
- Kim tự tháp dân số Trung Quốc kể từ ngày Tổng tìm hiểu vương quốc lần thứ 3 vào ngày 1 tháng 7 năm 1982
- Kim tự tháp dân số Trung Quốc kể từ ngày Tổng tìm hiểu vương quốc lần thứ 4 vào ngày 1 tháng 7 năm 1990
- Kim tự tháp dân số Trung Quốc kể từ ngày Tổng tìm hiểu vương quốc lần thứ 5 vào ngày 1 tháng 7 năm 2000
- Kim tự tháp dân số Trung Quốc kể từ ngày Tổng tìm hiểu vương quốc lần thứ 6 vào ngày 1 tháng 7 năm 2010
- Kim tự tháp dân số Trung Quốc tính đến năm năm nay
Mật độ dân số và phân phối[sửa|sửa mã nguồn]
Trung Quốc là vương quốc đông dân nhất trên quốc tế và tỷ lệ dân số vương quốc ( 137 / km² ) cũng tựa như như những người của Thụy Sĩ và Cộng hòa Séc. Mật độ dân số chung của Trung Quốc che giấu các biến thể lớn của khu vực, phần phía tây và phía bắc có vài triệu người, trong khi nửa phía đông có khoảng chừng 1,3 tỷ. Phần lớn dân số Trung Quốc sống gần phía đông tại các thành phố lớn .
Bờ biển và miền Đông Trung Quốc[sửa|sửa mã nguồn]
Trong 11 tỉnh, thành phố đặc biệt, và vùng lãnh thổ tự trị dọc theo bờ biển phía đông nam, mật độ dân số là 320,6 người mỗi km².
Nói rộng ra, dân số tập trung chuyên sâu ở phía đông của dãy núi và phía nam thảo nguyên phía bắc. Các khu vực đông dân nhất gồm có Thung lũng sông Dương Tử ( trong đó khu vực đồng bằng là nơi đông dân nhất ), Lưu vực Tứ Xuyên, Đồng bằng Bắc Trung Quốc, Châu thổ sông Châu Giang và khu công nghiệp quanh thành phố Thẩm Dương ở phía đông bắc .
Khu vực phía Tây[sửa|sửa mã nguồn]
Bản đồ tỷ lệ dân số năm 2010 của các vùng chủ quyền lãnh thổ do PRC và Trung Quốc Dân Quốc quản trị. Phía đông, các tỉnh ven biển có tỷ lệ dân cư đông hơn nhiều so với trong nước phía tây vì sự tiếp cận lịch sử dân tộc với nước . |
|
Dân số thưa thớt nhất ở vùng núi, sa mạc và đồng cỏ ở phía tây-bắc và tây-nam. Trong Nội Mông khu tự trị, phần là trọn vẹn không có người ở, và chỉ có một vài bộ phận có dân số sum sê hơn so với mười người mỗi Di cư nội bộ ở Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc là một trong những vương quốc to lớn nhất trên quốc tế theo Tổ chức Lao động Quốc tế. [ 49 ] Trên trong thực tiễn, điều tra và nghiên cứu được thực thi bởi Kam Wing Chan của Đại học Washington cho thấy rằng ” Trong 30 năm kể từ năm 1979, dân số đô thị của Trung Quốc đã tăng khoảng chừng 440 triệu lên tới 62 triệu vào năm 2009. Trong số 440 triệu người tăng, khoảng chừng 340 triệu triệu là do di cư ròng và phân loại lại đô thị. Ngay cả khi chỉ 50% sự ngày càng tăng đó là di cư, thì khối lượng di cư nông thôn – thành thị trong một thời hạn ngắn như vậy hoàn toàn có thể là lớn nhất trong lịch sử dân tộc loài người. ” [ 50 ] Người di cư ở Trung Quốc thường là thành viên của một dân số nổi, đa phần đề cập đến người di cư ở Trung Quốc mà không có thực trạng ĐK hộ khẩu địa phương trải qua mạng lưới hệ thống Hộ khẩu của Trung Quốc. [ 51 ] Nói chung, người lao động nhập cư ở nông thôn – thành thị bị loại trừ nhiều nhất khỏi các nguồn lực giáo dục địa phương, các chương trình phúc lợi xã hội toàn thành phố và nhiều việc làm vì không có thực trạng hộ khẩu. [ 52 ]Năm 2011, tổng số có 252,78 triệu lao động nhập cư ( tăng 4,4 % so với năm 2010 ) sống sót ở Trung Quốc. Trong số này, lao động nhập cư rời quê nhà và thao tác ở các tỉnh khác chiếm 158,63 triệu ( tăng 3,4 % so với năm 2010 ) và lao động nhập cư thao tác trong tỉnh nhà của họ đạt 94,15 triệu ( tăng 5,9 % so với năm 2010 ). [ 53 ] Ước tính rằng các thành phố của Trung Quốc sẽ phải đương đầu với dòng người 243 triệu người di cư khác vào năm 2025, đưa dân số đô thị lên tới gần 1 tỷ người. [ 54 ] Dân số người di cư này sẽ chiếm ” gần 40 % tổng dân số đô thị “, một số lượng gần gấp ba lần mức hiện tại. [ 54 ] [ 55 ] Mặc dù thường rất khó để thu thập dữ liệu thống kê đúng mực về dân số di cư, nhưng số lượng người di cư chắc như đinh là khá lớn. “ Tại các thành phố lớn nhất của Trung Quốc, ví dụ, nó thường được trích dẫn rằng tối thiểu một trong mỗi năm người là một động nhập cư. ” [ 56 ] nhà nước Trung Quốc ảnh hưởng tác động đến các quy mô đô thị hóa trải qua hộ khẩu mạng lưới hệ thống ĐK hộ khẩu thường trú, chủ trương đất bán, góp vốn đầu tư hạ tầng và các khuyễn mãi thêm được phân phối cho các quan chức chính quyền sở tại địa phương. Các yếu tố khác tác động ảnh hưởng đến việc di cư của người dân từ các vùng nông thôn đến các thành phố lớn là việc làm, giáo dục, thời cơ kinh doanh thương mại và mức sống cao hơn. [ 57 ]Sự di cư hàng loạt được gọi là người di cư của Trung Quốc, xảy ra từ thế kỷ 19 đến 1949, đa phần là do cuộc chiến tranh và nạn đói ở Trung Quốc đại lục, xâm lược từ nhiều vương quốc quốc tế, cũng như các yếu tố do tham nhũng chính trị. Hầu hết những người nhập cư là nông dân mù chữ và lao động chân tay, được gọi là ” ngầu ” tựa như như quy mô nhập cư từ Ấn Độ, những người di cư đến thao tác ở các nước như Châu Mỹ, Úc, Nam Phi và Đông Nam Á .. Các khu tự trị Nội Mông, Tân Cương và Tây Tạng và Thanh Hải và Cam Túc chiếm 55 % diện tích quy hoạnh quốc gia nhưng năm 1985 chỉ chiếm 5,7 % dân số .
Quan tâm chênh lệch giới tính[sửa|sửa mã nguồn]
Những thử thách trong tương lai so với Trung Quốc sẽ là sự chênh lệch giới tính. Theo tìm hiểu dân số năm 2010, phái mạnh chiếm 51,27 % trong tổng số 1,34 tỷ người của Trung Quốc, trong khi phái đẹp chiếm 48,73 % tổng số. Tỷ số giới tính ( số nam của mỗi nữ trong dân số ) khi sinh là 118,06 bé trai trên 100 bé gái ( 54,14 % ) trong năm 2010, cao hơn so với số lượng 116,86 ( 53,89 % ) năm 2000, nhưng thấp hơn 0,53 điểm so với tỷ suất 118,59 ( 54,25 % ) vào năm 2005. Ở hầu hết các nước phương tây, tỷ số giới tính khi sinh là khoảng chừng 105 bé trai đến 100 bé gái ( 51,22 % ). Hiện tại có khoảng chừng 9 triệu bé trai hơn bé gái ở Trung Quốc .
Tôn giáo ở đây từ lâu đã là một cái nôi và chủ nhà của một loạt các tôn giáo truyền kiếp nhất – truyền thống lịch sử triết học của quốc tế. Nho giáo và Đạo giáo, sau đó được Phật giáo gia nhập, tạo thành ” ba giáo lý ” đã định hình văn hóa truyền thống Trung Quốc. Không có ranh giới rõ ràng giữa các mạng lưới hệ thống tôn giáo xen kẽ này, chúng không công bố là độc quyền, và các yếu tố của mỗi tôn giáo phổ cập hoặc tôn giáo dân gian. Các nhà vua của Trung Quốc đã công bố Thiên mệnh và tham gia các hoạt động giải trí tôn giáo của Trung Quốc. Đầu thế kỷ 20, các quan chức và tri thức có đầu óc cải cách đã tiến công toàn bộ các tôn giáo là ” mê tín dị đoan “, và kể từ năm 1949, Trung Quốc đã bị Đảng Cộng sản Trung Quốc quản lý, một tổ chức triển khai vô thần cấm các đảng viên thực hành thực tế tôn giáo khi còn đương chức. Trong đỉnh điểm của một loạt các chiến dịch chống lại các tôn giáo đã được thực thi từ cuối thế kỷ 19, Cách mạng Văn hóa chống lại các thói quen, tư tưởng, phong tục và văn hóa truyền thống cũ, lê dài từ năm 1966 đến 1967, đã tàn phá hoặc buộc chúng ở dưới lòng đất : 138 Dưới các nhà chỉ huy, các tổ chức triển khai tôn giáo đã được trao quyền tự chủ nhiều hơn. nhà nước chính thức công nhận năm tôn giáo : Phật giáo, Đạo giáo, Hồi giáo, Tin lành và Công giáo ( mặc dầu Giáo hội Công giáo Trung Quốc độc lập với Giáo hội Công giáo ở Roma ). Vào đầu thế kỷ hai mươi mốt, ngày càng có sự công nhận chính thức của Nho giáo và tôn giáo dân gian Trung Quốc như là một phần của sự thừa kế văn hóa truyền thống của Trung Quốc .Dân gian hay tôn giáo phổ cập, mạng lưới hệ thống tín ngưỡng và thực hành thực tế phổ cập nhất, đã tăng trưởng và thích nghi kể từ tối thiểu là các triều đại nhà Thương và Chu trong thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. Các yếu tố cơ bản của một lý giải thần học và tâm linh cho thực chất của thiên hà đã trở lại thời kỳ này và được kiến thiết xây dựng thêm trong Thời đại Axial. Về cơ bản, tôn giáo Trung Quốc tương quan đến lòng trung thành với chủ với shen, thường được dịch là ” linh hồn “, định nghĩa một loạt các vị thần và bất tử. Đây hoàn toàn có thể là những vị thần của thiên nhiên và môi trường tự nhiên hoặc nguyên tắc tổ tiên của các nhóm người, khái niệm về văn minh, anh hùng văn hóa, nhiều người trong số họ đặc trưng trong thần thoại cổ xưa và lịch sử dân tộc Trung Quốc. Triết học Nho giáo và thực hành thực tế tôn giáo mở màn sự tiến hóa lâu bền hơn của họ trong thời Chu sau này ; Đạo giáo thể chế hóa tôn giáo do nhà Hán tăng trưởng ; Phật giáo Trung Quốc trở nên phổ cập thoáng rộng bởi triều đại nhà Đường, và để đáp lại các nhà tư tưởng Nho giáo đã tăng trưởng các triết lý Nho giáo ; và các trào lưu phổ cập của sự cứu rỗi và các giáo phái địa phương tăng trưởng mạnh .Kitô giáo và Hồi giáo đến Trung Quốc vào thế kỷ thứ 7. Kitô giáo đã không bén rễ cho đến khi nó được ra mắt lại vào thế kỷ 16 bởi các nhà truyền giáo Dòng Tên. Vào đầu thế kỷ 20, các hội đồng Kitô giáo đã tăng trưởng, nhưng sau năm 1949, các nhà truyền giáo quốc tế đã bị trục xuất, và các nhà thời thánh được đưa vào dưới các thể chế do chính phủ nước nhà trấn áp. Sau cuối những năm 1970, các quyền tự do tôn giáo cho các Kitô hữu được cải tổ và các nhóm người Trung Quốc mới Open : 508, 532 Trung Quốc cũng thường được coi là ngôi nhà của chủ nghĩa nhân văn và thế tục, tư tưởng quốc tế này mở màn từ thời Khổng Tử .Bởi vì nhiều người, có lẽ rằng hầu hết, người Hán không coi niềm tin và thực hành thực tế tâm linh của họ là một ” tôn giáo ” và trong mọi trường hợp không cảm thấy rằng họ phải thực hành thực tế bất kể một trong số họ, rất khó để tích lũy số liệu thống kê rõ ràng và đáng đáng tin cậy. Theo quan điểm học thuật, ” đại đa số dân số hơn 1,4 tỷ người Trung Quốc ” tham gia vào tôn giáo thiên hà học Trung Quốc, các nghi lễ và tiệc tùng của lịch âm, không thuộc bất kể giáo lý thể chế nào. Các cuộc tìm hiểu vương quốc được thực thi vào đầu thế kỷ 21 ước tính rằng khoảng chừng 80 % dân số Trung Quốc, hơn một tỷ người, thực hành thực tế một số ít loại tôn giáo dân gian hoặc Đạo giáo của Trung Quốc : 10 người ; 16 % là Phật tử ; 2 người 3 % là Kitô hữu ; và 1 người ; 2 % là người Hồi giáo. Các trào lưu tôn giáo dân gian của sự cứu rỗi tạo thành 2 Từ 3 % đến 13 % dân số, trong khi nhiều người trong những tầng lớp tri thức tuân thủ Nho giáo như một truyền thống tôn giáo. Ngoài ra, các nhóm dân tộc thiểu số thực hành thực tế các tôn giáo đặc biệt quan trọng, gồm có Phật giáo Tây Tạng và Hồi giáo giữa các dân tộc bản địa Hồi và Duy Ngô Nhĩ .
Di cư nội bộ ở Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc là một trong những vương quốc to lớn nhất trên quốc tế theo Tổ chức Lao động Quốc tế. Trên thực tiễn, nghiên cứu và điều tra được triển khai bởi Kam Wing Chan của Đại học Washington cho thấy rằng ” Trong 30 năm kể từ năm 1979, dân số đô thị của Trung Quốc đã tăng khoảng chừng 440 triệu lên tới 62 triệu vào năm 2009. Trong số 440 triệu người tăng, khoảng chừng 340 triệu triệu là do di cư ròng và phân loại lại đô thị. Ngay cả khi chỉ 50% sự ngày càng tăng đó là di cư, thì khối lượng di cư nông thôn – thành thị trong một thời hạn ngắn như vậy hoàn toàn có thể là lớn nhất trong lịch sử vẻ vang loài người. ” Người di cư ở Trung Quốc thường là thành viên của một dân số nổi, đa phần đề cập đến người di cư ở Trung Quốc mà không có thực trạng ĐK hộ khẩu địa phương trải qua mạng lưới hệ thống hộ khẩu của Trung Quốc. Nói chung, người lao động nhập cư ở nông thôn – thành thị bị loại trừ nhiều nhất khỏi các nguồn lực giáo dục địa phương, các chương trình phúc lợi xã hội toàn thành phố và nhiều việc làm vì không có thực trạng hộ khẩu .
Năm 2011, tổng cộng có 252,78 triệu lao động nhập cư (tăng 4,4% so với năm 2010) tồn tại ở Trung Quốc. Trong số này, lao động nhập cư rời quê hương và làm việc ở các tỉnh khác chiếm 158,63 triệu (tăng 3,4% so với năm 2010) và lao động nhập cư làm việc trong tỉnh nhà của họ đạt 94,15 triệu (tăng 5,9% so với năm 2010). Ước tính rằng các thành phố của Trung Quốc sẽ phải đối mặt với dòng người 243 triệu người di cư khác vào năm 2025, đưa dân số đô thị lên tới gần 1 tỷ người. Dân số người di cư này sẽ chiếm “gần 40% tổng dân số đô thị”, một con số gần gấp ba lần mức hiện tại. Mặc dù thường rất khó để thu thập dữ liệu thống kê chính xác về dân số di cư, nhưng số lượng người di cư chắc chắn là khá lớn. “Tại các thành phố lớn nhất của Trung Quốc, ví dụ, nó thường được trích dẫn rằng ít nhất một trong mỗi năm người là một động nhập cư.” Chính phủ Trung Quốc ảnh hưởng đến các mô hình đô thị hóa thông qua hộ khẩu hệ thống đăng ký hộ khẩu thường trú, chính sách đất bán, đầu tư cơ sở hạ tầng và các ưu đãi được cung cấp cho các quan chức chính quyền địa phương. Các yếu tố khác ảnh hưởng đến việc di cư của người dân từ các vùng nông thôn đến các thành phố lớn là việc làm, giáo dục, cơ hội kinh doanh và mức sống cao hơn.
Sự di cư hàng loạt được gọi là người di cư của Trung Quốc, xảy ra từ thế kỷ 19 đến 1949, đa phần là do cuộc chiến tranh và nạn đói ở Trung Quốc đại lục, xâm lược từ nhiều vương quốc quốc tế, cũng như các yếu tố do tham nhũng chính trị. Hầu hết những người nhập cư là nông dân mù chữ và lao động chân tay, được gọi là ” ngầu ” tương tự như như quy mô nhập cư từ Ấn Độ, những người di cư đến thao tác ở các nước như Châu Mỹ, Úc, Nam Phi và Khu vực Đông Nam Á .
- ^
Lỗi chú thích: Thẻ
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên
Banister
- ^ “中华人民共和国国家统计局 >> 人口普查公报”. Stats.gov.cn. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2013 .
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://mix166.vn
Category: Cộng Đồng