Lịch sử việt nam bằng tranh (tập 7) khởi nghĩa lam sơn
Mục lục bài viết
Lịch sử việt nam bằng tranh (tập 7) khởi nghĩa lam sơn
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.5 MB, 314 trang )
Bạn đang đọc: Lịch sử việt nam bằng tranh (tập 7) khởi nghĩa lam sơn
Hình vẽ do phòng vẽ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” thực hiện
Họa sĩ thể hiện: Tô Hoài Đạt, Lâm Chí Trung
LỜI GIỚI THIỆU
Công trình Lịch sử Việt Nam bằng tranh ra đời nhằm mục đích
giới thiệu lịch sử nước nhà một cách ngắn gọn, sinh động, có hệ
thống, qua cách kể chuyện súc tích và tranh minh họa.
Bộ sách tranh nhiều tập này cố gắng phản ánh con người và đất
nước Việt Nam theo đúng tiến trình lịch sử với không gian, văn hóa,
y phục, tính cách phù hợp với từng thời kỳ, từng triều đại cụ thể.
Bộ Lịch sử Việt Nam bằng tranh dự kiến thực hiện xuyên suốt từ
thời cổ của các thời đại đồ đá, đồ đồng đến thời Hùng Vương dựng
nước; trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc đến thời kỳ tự chủ của các
triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn và cuối cùng là hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước vừa qua.
Bộ sách được chia làm nhiều tập, mỗi tập viết về một thời kỳ hay
một nhân vật, một vấn đề tiêu biểu của thời kỳ đó. Mỗi tập có cấu
trúc độc lập riêng nhưng hài hòa trong một tổng thể chung là Lịch
sử Việt Nam. Trong quá trình biện soạn, các tác giả còn chú ý thể
hiện các đặc điểm văn hóa, lễ hội, phong tục tập quán tiêu biểu của
từng thời kỳ lịch sử.
Công trình là nỗ lực chung của các họa sĩ, các cán bộ nghiên cứu
của Viện Khoa học Xã hội tại TP Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Trẻ.
Đây là bộ lịch sử bằng tranh đầu tiên của nước ta được thực hiện
với mục đích và yêu cầu như trên, nên trong quá trình biên soạn và
thể hiện không tránh khỏi những sơ xuất. Ban biên soạn, họa sĩ và
Nhà xuất bản Trẻ rất mong được sự góp ý của bạn đọc gần xa.
Thành phố Hồ Chí Minh
TRẦN BẠCH ĐẰNG
4
Thôn Như Áng, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hoa có cụ Lê Hối
nổi tiếng là người nhân từ, bác ái, đức độ. Cụ làm nghề thầy cúng nên
thường có dịp đi khắp đó đây.
Một hôm, trên đường qua vùng Lam Sơn(*), nhận thấy đất đai nơi
đây màu mỡ, cụ quyết định ở lại và khai phá ruộng vườn. Chỉ ba năm
sau, gia đình cụ đã có một sản nghiệp vững vàng, cơ ngơi bề thế.
* Tên Nôm lúc ấy là làng Cham thuộc huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa, nay là huyện
Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
5
Con trai cụ là Lê Đinh (có sách ghi là Lê Thính) nối nghiệp cha,
cần cù làm ăn cơ nghiệp phát triển. Ông cưới bà Nguyễn Thị Quách,
một phụ nữ hiền lành, tốt bụng. Hai ông bà thường giúp đỡ người
nghèo kẻ khó, vì thế xa gần ai ai cũng quý trọng.
6
Ông bà Lê Đinh có hai người con là Lê Tùng và Lê Khoáng, đều
là người hiền lành, đức độ. Ông Lê Khoáng cưới với bà Trịnh Thị
Ngọc Thương, sinh hạ được ba người con trai. Người con đầu là Lê
Xem thêm: Samsung Galaxy A72
Học chẳng may mất sớm, con thứ là Lê Trừ sau này ra ở riêng. Người
con út nối giữ nghiệp nhà là Lê Lợi.
7
Lê Lợi sinh vào giờ Thìn (khoảng 7 đến 9 giờ sáng), ngày 6 tháng
8 năm Ất Sửu (1385). Người xưa truyền tụng rằng, khi Lê Lợi chưa ra
đời, ở núi Du phía sau thôn Nguyệt Áng, có con cọp đen thường xuất
hiện mà không hề hại ai. Khi Lê Lợi được sinh ra, cọp cũng tự đi đâu
mất. Lại có chuyện kể rằng, khi Lê Lợi sinh ra, nhà ông Lê Khoáng
bỗng tràn ngập ánh sáng đỏ, hương thơm tỏa khắp xóm.
8
Sử cũ viết rằng: Lê Lợi là người miệng rộng, mũi cao, đi như rồng
lượn, oai phong như hổ, nói vang như chuông, vai trái có tới bảy nốt
ruồi. Càng lớn lên, Lê Lợi càng thông minh, trí dũng toàn vẹn, khó
ai sánh kịp.
9
Tương truyền, có lần người nhà của Lê Lợi đang cày ruộng ở Phật
Hoàng, động Chiêu Nghi (cũng thuộc Lam Sơn), chợt trông thấy một
vị sư ông áo trắng đi từ trong làng Đức Trai ra, vừa đi vừa than rằng:
“Đất này đẹp quá, vậy mà ta chẳng có ai để trao cả”. Nghe vậy, họ
vội chạy về báo tin cho Lê Lợi. Cả mừng, Lê Lợi vội vàng đuổi theo.
10
Chẳng mấy chốc, Lê Lợi đã giáp mặt sư ông. Ngắm nhìn hồi lâu,
sư ông bảo: “Ta là Bạch Thạch Sơn Tăng, từ Ai Lao đến, thấy ngươi
có khí tượng khác thường, hẳn là người có thể đảm đương việc lớn”.
Sau đó, ông lấy gậy vẽ lên nền đất mà giảng giải cho Lê Lợi:
– Xứ Phật Hoàng của ngươi có một mảnh đất, thoáng trông như
hình cái ấn, bên trái có núi Chí Linh như một tòa Thái Thất, trong đó
có gò Tiên Bạn. Đất ấy lấy Chiêu Sơn ở xã An Khoái làm án. Trước
án có mạch Long Sơn, trong án có mạch Long Hồ, thế đất xoáy như
ruột ốc. Đó là một khu đất phát tích, có thể làm nên sự nghiệp…
Mải mê suy nghĩ lời vị sư già, sơn tăng bỏ đi từ bao giờ, Lê Lợi
cũng không hay biết.
11
Trở về, Lê Lợi đem hài cốt của thân phụ đến táng tại nơi vị sư đã
chỉ, gọi là mộ Phật Hoàng và cho xây am thờ ở động Chiêu Nghi.
Lê Lợi còn xây điện Tiên Du thờ vị sư áo trắng để nhớ ơn người đã
chỉ vẽ cho mình. Người xưa thường gắn những huyền thoại như vậy
cho các vị anh hùng dân tộc nhằm ca ngợi con người tài trí được khí
thiêng sông núi hun đúc và được mệnh trời giao phó việc lớn.
12
Năm Lê Lợi tròn 22 tuổi, cũng là năm
quân Minh đặt ách đô hộ lên nước ta, trăm
họ lầm than, đói khổ. Không cam chịu bị áp
bức, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Lê Lợi
rất kính trọng những người dám xả thân vì
nước nhưng cũng thấy rõ nguy cơ thất bại của
họ. Bởi vậy, ông nhóm họp bè bạn, âm thầm
chuẩn bị khởi nghĩa.
13
Lê Lợi có người bạn thân là Lê Thận, người sách Mục Sơn, huyện
Cổ Lôi (cũng thuộc Thanh Hóa), sinh sống bằng nghề chài lưới. Tương
truyền, một hôm Lê Thận ra sông quăng lưới chỉ có một thanh sắt dài
mắc vào. Ông quẳng đi, chèo thuyền
ra nơi khác thả lưới nhưng lần nào
kéo lên cũng chỉ là thanh sắt đó. Thấy
lạ, ông đem về cất trong góc nhà.
14
Một hôm, Lê Lợi đến nhà Lê Thận, chợt trông thấy ở góc nhà có
một quầng sáng kỳ lạ tỏa ra từ một thanh sắt dài. Ngạc nhiên vì từ
lúc Lê Lợi đến, thanh sắt tự nhiên tỏa sáng
như vậy, Lê Thận kể lại lần buông lưới trước
và tặng thanh sắt cho bạn.
15
Thanh sắt càng mài, ánh sáng phát ra càng rực rỡ, một bên thanh sắt
có hai chữ Thuận Thiên, còn một bên là chữ Lợi. Ông tự nhủ: “Thuận
Thiên là thuận theo ý trời, còn Lợi chính là tên ta. Hay đây chính là
thanh gươm mà trời ban cho ta để dẹp giặc cứu đời chăng?”. Nghĩ
vậy, Lê Lợi bèn rèn thành một thanh gươm. Nhưng lưỡi gươm đã rèn
xong mà chẳng có chuôi gươm nào vừa với lưỡi gươm cả.
16
Sau một đêm mưa to gió lớn, người nhà vào báo có ánh sáng lạ ở
gốc cây sau nhà. Lê Lợi ra xem thì thấy ở đó có một chuôi gươm đã
để sẵn. Lê Lợi liền kính cẩn khấn: “Nếu quả trời đã ban cho kiếm
báu thì xin cho kiếm ấy vừa với chuôi này”. Lạ thay, khi đem gươm
lắp thử thì hoàn toàn vừa vặn. Lê Lợi rất quý thanh gươm, luôn đeo
bên người, không lúc nào rời.
17
Từ ngày có gươm báu, Lê Lợi đóng cửa ngày đêm đọc sách. Binh
thư của các bậc danh tướng, sử sách của các đời trước, ông đều xem xét
đến nơi đến chốn. Ông lấy đất đắp thành mô hình, lấy sỏi giả bày thế
trận, miệt mài suy ngẫm, quên
ăn quên ngủ.
18
Để có lực lượng mưu việc lớn
sau này, ông cho người tỏa đi khắp
nơi liên lạc với những người đồng
chí hướng. Nhiều người đã tìm đến
Lam Sơn với Lê Lợi.
19
Bấy giờ ở thôn Hào Lương bên cạnh có tên Đỗ Phú, nhà giàu nhưng
rất tham lam và độc ác. Muốn cướp đất của Lê Lợi hắn dựng chuyện
kiện cáo khiến ông phải ra hầu quan. Nhưng khi ra trước công đường,
hắn đuối lý nên thua kiện. Trở về, hắn ngầm theo dõi mọi động tĩnh
của Lê Lợi rồi lẻn đi mật báo với quân Minh rằng Lê Lợi đang tụ họp
người và tích trữ lương thực để nổi loạn.
20
Nhận được tin mật báo của Đỗ Phú, quân Minh lập tức cho lính đến
vây bắt. Trong lúc cấp bách, Lê Lợi chỉ kịp nói: “Khi sức ta chưa đủ
thì tạm lánh, đó chính là kế sách vẹn toàn” rồi cho mọi người nhanh
chóng tản đi các nơi quanh vùng để trốn. Ông và Lê Liễu bỏ chạy
theo hướng khác để thu hút quân Minh.
21
Tương truyền hai người chạy đến bờ sông Khả Lam (cũng thuộc
Thanh Hóa) thì trông thấy xác của một người đàn bà mặc áo trắng.
Dẫu đang vội lánh nạn, không đành lòng để xác bà giữa trời nên dù
tiếng chó sủa ầm ĩ và tiếng quân giặc đuổi theo mỗi lúc một gần, Lê
Lợi cùng Lê Liễu vẫn đào huyệt chôn cất bà cẩn thận. Vừa chôn cất
người xấu số xong thì giặc đuổi tới nơi, hai ông chỉ kịp nhảy vào một
bụi rậm dưới gốc đa gần đó mà trốn.
22
Thấy chó cứ hướng vào bụi rậm
sủa mãi, giặc sinh nghi lấy giáo đâm
vào bụi. Một tên đâm trúng đùi của Lê
Liễu, ông nhanh trí lấy cát vuốt máu
trên mũi giáo. Nhưng bụi cây thì nhỏ,
nếu chúng tiếp tục đâm nữa thì khó bề
tránh khỏi. Đúng lúc đó, chợt có con
chồn trắng từ trong bụi lao vụt ra. Bầy
chó ngao cứ thế đuổi theo làm giặc
tưởng chó sủa chồn mà tức tối bỏ đi.
23
Thành phố Hồ Chí MinhTRẦN BẠCH ĐẰNGThôn Như Áng, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hoa có cụ Lê Hốinổi tiếng là người nhân hậu, bác ái, đức độ. Cụ làm nghề thầy cúng nênthường có dịp đi khắp đó đây. Một hôm, trên đường qua vùng Lam Sơn ( * ), nhận thấy đất đai nơiđây phì nhiêu, cụ quyết định hành động ở lại và khám phá ruộng vườn. Chỉ ba nămsau, mái ấm gia đình cụ đã có một sản nghiệp vững vàng, cơ ngơi bề thế. * Tên Nôm lúc ấy là làng Cham thuộc huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa, nay là huyệnThọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Con trai cụ là Lê Đinh ( có sách ghi là Lê Thính ) nối nghiệp cha, siêng năng làm ăn cơ nghiệp tăng trưởng. Ông cưới bà Nguyễn Thị Quách, một phụ nữ hiền lành, tốt bụng. Hai ông bà thường giúp sức ngườinghèo kẻ khó, vì vậy xa gần ai ai cũng quý trọng. Ông bà Lê Đinh có hai người con là Lê Tùng và Lê Khoáng, đềulà người hiền lành, đức độ. Ông Lê Khoáng cưới với bà Trịnh ThịNgọc Thương, sinh hạ được ba người con trai. Người con đầu là LêHọc chẳng may mất sớm, con thứ là Lê Trừ sau này ra ở riêng. Ngườicon út nối giữ nghiệp nhà là Lê Lợi. Lê Lợi sinh vào giờ Thìn ( khoảng chừng 7 đến 9 giờ sáng ), ngày 6 tháng8 năm Ất Sửu ( 1385 ). Người xưa truyền tụng rằng, khi Lê Lợi chưa rađời, ở núi Du phía sau thôn Nguyệt Áng, có con cọp đen thường xuấthiện mà không hề hại ai. Khi Lê Lợi được sinh ra, cọp cũng tự đi đâumất. Lại có chuyện kể rằng, khi Lê Lợi sinh ra, nhà ông Lê Khoángbỗng tràn ngập ánh sáng đỏ, hương thơm tỏa khắp xóm. Sử cũ viết rằng : Lê Lợi là người miệng rộng, mũi cao, đi như rồnglượn, oai phong như hổ, nói vang như chuông, vai trái có tới bảy nốtruồi. Càng lớn lên, Lê Lợi càng mưu trí, trí dũng toàn vẹn, khóai sánh kịp. Tương truyền, có lần người nhà của Lê Lợi đang cày ruộng ở PhậtHoàng, động Chiêu Nghi ( cũng thuộc Lam Sơn ), chợt trông thấy mộtvị sư ông áo trắng đi từ trong làng Đức Trai ra, vừa đi vừa than rằng : “ Đất này đẹp quá, vậy mà ta chẳng có ai để trao cả ”. Nghe vậy, họvội chạy về báo tin cho Lê Lợi. Cả mừng, Lê Lợi hấp tấp vội vàng đuổi theo. 10C hẳng mấy chốc, Lê Lợi đã giáp mặt sư ông. Ngắm nhìn hồi lâu, sư ông bảo : “ Ta là Bạch Thạch Sơn Tăng, từ Ai Lao đến, thấy ngươicó khí tượng khác thường, hẳn là người hoàn toàn có thể đảm đương việc lớn ”. Sau đó, ông lấy gậy vẽ lên nền đất mà giảng giải cho Lê Lợi : – Xứ Phật Hoàng của ngươi có một mảnh đất, thoáng trông nhưhình cái ấn, bên trái có núi Chí Linh như một tòa Thái Thất, trong đócó gò Tiên Bạn. Đất ấy lấy Chiêu Sơn ở xã An Khoái làm án. Trướcán có mạch Long Sơn, trong án có mạch Long Hồ, thế đất xoáy nhưruột ốc. Đó là một khu đất phát tích, hoàn toàn có thể tạo ra sự sự nghiệp … Mải mê tâm lý lời vị sư già, sơn tăng bỏ đi từ khi nào, Lê Lợicũng không hay biết. 11T rở về, Lê Lợi đem tro cốt của phụ vương đến táng tại nơi vị sư đãchỉ, gọi là mộ Phật Hoàng và cho xây am thờ ở động Chiêu Nghi. Lê Lợi còn xây điện Tiên Du thờ vị sư áo trắng để nhớ ơn người đãchỉ vẽ cho mình. Người xưa thường gắn những lịch sử một thời như vậycho những vị anh hùng dân tộc bản địa nhằm mục đích ca tụng con người tài trí được khíthiêng sông núi hun đúc và được mệnh trời phó thác việc lớn. 12N ăm Lê Lợi tròn 22 tuổi, cũng là nămquân Minh đặt ách đô hộ lên nước ta, trămhọ lầm than, đói khổ. Không cam chịu bị ápbức, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Lê Lợirất kính trọng những người dám lao vào vìnước nhưng cũng thấy rõ rủi ro tiềm ẩn thất bại củahọ. Bởi vậy, ông nhóm họp bè bạn, âm thầmchuẩn bị khởi nghĩa. 13L ê Lợi có người bạn thân là Lê Thận, người sách Mục Sơn, huyệnCổ Lôi ( cũng thuộc Thanh Hóa ), sinh sống bằng nghề chài lưới. Tươngtruyền, một hôm Lê Thận ra sông quăng lưới chỉ có một thanh sắt dàimắc vào. Ông quẳng đi, chèo thuyềnra nơi khác thả lưới nhưng lần nàokéo lên cũng chỉ là thanh sắt đó. Thấylạ, ông đem về cất trong góc nhà. 14M ột hôm, Lê Lợi đến nhà Lê Thận, chợt trông thấy ở góc nhà cómột quầng sáng kỳ lạ tỏa ra từ một thanh sắt dài. Ngạc nhiên vì từlúc Lê Lợi đến, thanh sắt tự nhiên tỏa sángnhư vậy, Lê Thận kể lại lần buông lưới trướcvà khuyến mãi thanh sắt cho bạn. 15T hanh hao sắt càng mài, ánh sáng phát ra càng tỏa nắng rực rỡ, một bên thanh sắtcó hai chữ Thuận Thiên, còn một bên là chữ Lợi. Ông tự nhủ : “ ThuậnThiên là thuận theo ý trời, còn Lợi chính là tên ta. Hay đây chính làthanh gươm mà trời ban cho ta để dẹp giặc cứu đời chăng ? ”. Nghĩvậy, Lê Lợi bèn rèn thành một thanh gươm. Nhưng lưỡi gươm đã rènxong mà chẳng có chuôi gươm nào vừa với lưỡi gươm cả. 16S au một đêm mưa to gió lớn, người nhà vào báo có ánh sáng lạ ởgốc cây sau nhà. Lê Lợi ra xem thì thấy ở đó có một chuôi gươm đãđể sẵn. Lê Lợi liền kính cẩn khấn : “ Nếu quả trời đã ban cho kiếmbáu thì xin cho kiếm ấy vừa với chuôi này ”. Lạ thay, khi đem gươmlắp thử thì trọn vẹn vừa khít. Lê Lợi rất quý thanh gươm, luôn đeobên người, không lúc nào rời. 17T ừ ngày có gươm báu, Lê Lợi đóng cửa ngày đêm đọc sách. Binhthư của những bậc danh tướng, sử sách của những đời trước, ông đều xem xétđến nơi đến chốn. Ông lấy đất đắp thành quy mô, lấy sỏi giả bày thếtrận, miệt mài suy ngẫm, quênăn quên ngủ. 18 Để có lực lượng mưu việc lớnsau này, ông cho người tỏa đi khắpnơi liên lạc với những người đồngchí hướng. Nhiều người đã tìm đếnLam Sơn với Lê Lợi. 19B ấy giờ ở thôn Hào Lương bên cạnh có tên Đỗ Phú, nhà giàu nhưngrất tham lam và gian ác. Muốn cướp đất của Lê Lợi hắn dựng chuyệnkiện cáo khiến ông phải ra hầu quan. Nhưng khi ra trước công đường, hắn đuối lý nên thua kiện. Trở về, hắn ngầm theo dõi mọi động tĩnhcủa Lê Lợi rồi lẻn đi mật báo với quân Minh rằng Lê Lợi đang tụ họpngười và tích trữ lương thực để làm mưa làm gió. 20N hận được tin mật báo của Đỗ Phú, quân Minh lập tức cho lính đếnvây bắt. Trong lúc cấp bách, Lê Lợi chỉ kịp nói : “ Khi sức ta chưa đủthì tạm lánh, đó chính là kế sách vẹn toàn ” rồi cho mọi người nhanhchóng tản đi những nơi quanh vùng để trốn. Ông và Lê Liễu bỏ chạytheo hướng khác để lôi cuốn quân Minh. 21T ương truyền hai người chạy đến bờ sông Khả Lam ( cũng thuộcThanh Hóa ) thì trông thấy xác của một người đàn bà mặc áo trắng. Dẫu đang vội lánh nạn, không đành lòng để xác bà giữa trời nên dùtiếng chó sủa ầm ĩ và tiếng quân giặc đuổi theo mỗi lúc một gần, LêLợi cùng Lê Liễu vẫn đào huyệt chôn cất bà cẩn trọng. Vừa chôn cấtngười xấu số xong thì giặc đuổi tới nơi, hai ông chỉ kịp nhảy vào mộtbụi rậm dưới gốc đa gần đó mà trốn. 22T hấy chó cứ hướng vào bụi rậmsủa mãi, giặc sinh nghi lấy giáo đâmvào bụi. Một tên đâm trúng đùi của LêLiễu, ông nhanh trí lấy cát vuốt máutrên mũi giáo. Nhưng bụi cây thì nhỏ, nếu chúng liên tục đâm nữa thì khó bềtránh khỏi. Đúng lúc đó, chợt có conchồn trắng từ trong bụi lao vụt ra. Bầychó ngao cứ thế đuổi theo làm giặctưởng chó sủa chồn mà tức tối bỏ đi. 23
Source: https://mix166.vn
Category: Bản Tin TA