Aztec – Wikipedia tiếng Việt

Aztec ([1]) là một nền văn hóa Trung Bộ châu Mỹ phát triển mạnh ở miền trung Mexico trong thời kỳ hậu cổ điển từ năm 1300 đến năm 1521. Dân tộc Aztec bao gồm nhiều nhóm sắc tộc ở miền trung Mexico, đặc biệt là những nhóm nói tiếng Nahuatl và thống trị đại bộ phận Trung Bộ Mỹ từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI. Chính trị Aztec được tổ chức thành các thành bang (altepetl), thường liên minh với nhau dưới hình thức đế quốc. Đế quốc Aztec là một liên minh của ba thành bang được thành lập vào năm 1427: Tenochtitlan, thành bang của dân Mexica hoặc Tenochca; Texcoco; và Tlacopan, trước đây là một phần của đế quốc Tepanec dưới triều đại Azcapotzalco. Mặc dù thuật ngữ Aztec thường bị giới hạn trong phạm vi dân tộc Mexica của Tenochtitlan, nó cũng thường được sử dụng để chỉ các chính thể Nahua hoặc các dân tộc ở miền trung Mexico trong thời kỳ tiền Tây Ban Nha hóa,[2] và thời kỳ thuộc địa (1521–1821).[3] Kể từ khi nhà khoa học người Đức Alexander von Humboldt lần đầu thiết lập cách sử dụng thuật ngữ “Aztec” vào đầu thế kỷ XIX, định nghĩa chính xác của danh từ trên vẫn còn bị tranh cãi.[4]

Hầu hết các sắc tộc ở miền trung Mexico thời kỳ hậu cổ điển sở hữu những Trung Bộ, và rất nhiều đặc điểm đặc trưng không thể được coi là của riêng văn hóa Aztec. Vì lý do tương tự, khái niệm “nền văn minh Aztec” sẽ được hiểu khi nhìn tổng quát văn minh Trung Bộ châu Mỹ.[5] Các đặc điểm của văn hóa miền trung Mexico bao gồm canh tác ngô, phân tầng xã hội giữa giới quý tộc (pipiltin) và thường dân (macehualtin), đa thần giáo (gồm các vị thần Tezcatlipoca, Tlaloc và Quetzalcoatl), và hệ thống lịch xiuhpohualli 365 ngày xen kẽ tonalpohualli 260 ngày. Đặc thù của văn hóa Mexica tại Tenochtitlan là thần bảo trợ Huitzilopochtli, kim tự tháp đôi và đồ gốm Aztec I đến IV.

Từ thế kỷ XIII trở đi, vùng Thung lũng Mexico trở thành tâm điểm của sự đô thị hóa. Dân Mexica là những người di cư đến nơi đây muộn nhất và thành lập thành bang Tenochtitlan trên vài đảo nhỏ trong Hồ Texcoco, sau này vùng lên và trở thành kẻ thống trị Liên minh Aztec hoặc Đế chế Aztec. Đế chế của họ đã mở rộng quyền bá chủ vượt xa Thung lũng Mexico, chinh phục các thành bang khác trên khắp Trung Bộ châu Mỹ trong giai đoạn hậu cổ điển. Đế quốc ban đầu là một liên minh giữa các quốc gia của ba thành bang Tenochtitlan, Texcoco và Tlacopan; họ cùng nhau lật đổ triều Tepanec của Azcapotzalco, đế quốc trước đây thống trị Lưu vực Mexico. Chẳng mấy chốc, Texcoco và Tlacopan bị lép vế so với thành Tenochtitlan quyền lực. Đế quốc bành trướng thông qua các làn sóng chinh phạt. Nó chưa bao giờ là một đế quốc thực sự, mà chủ yếu thống trị các thành bang chư hầu thông qua các vua nhỏ bù nhìn, thân đế quốc, hoặc kiến thiết liên minh hôn nhân giữa các triều đại cầm quyền, hoặc bằng cách lan tỏa hệ tư tưởng Liên minh đến các thành bang đó.[7] Các thành bang chư hầu phải cống nạp cho hoàng đế Aztec (Huey Tlatoani) và đổi lại họ sẽ được phép tự do giao thương trong mạng lưới kinh tế của nhà nước..[8] Đế quốc đã tiến xa tận về phía nam như Chiapas và Guatemala và kéo dài từ Thái Bình Dương đến Đại Tây Dương.

Đế chế đạt cực thịnh vào năm 1519, ngay trước khi có một nhóm nhỏ những conquistador Tây Ban Nha do Hernán Cortés chỉ huy cập bến. Cortés liên minh với các thành bang kình địch của Mexica, đa phần là dân Tlaxcalteca nói tiếng Nahuatl cũng như các chính thể khác của Mexico, gồm có thành Texcoco, liên minh cũ trong Tam Đồng Minh. Sau khi Tenochtitlan thất thủ vào ngày 13 tháng 8 năm 1521 và nhà vua Cuauhtemoc bị bắt, người Tây Ban Nha cho dựng thành phố Mexico trên đống tro tàn của thành Tenochtitlan. Từ đây, họ triển khai các cuộc chinh phục tiếp theo và sáp nhập các dân tộc bản địa Trung Bộ khác vào Đế quốc Tây Ban Nha. Theo sau sự sụp đổ của chính thể và chính trị Aztec năm 1521, người Tây Ban Nha phải chịu ràng buộc vào các quý tộc địa phương để bình định chủ quyền lãnh thổ mới. Các quý tộc thề trung thành với chủ với vương miện Tây Ban Nha và cải đạo, trên danh nghĩa, sang Kitô giáo, và đổi lại được công nhận là quý tộc bởi vương miện Tây Ban Nha. Quý tộc đóng vai trò trung gian trong việc chuyển giao cống phẩm và kêu gọi lao động cho gia chủ mới của Trung Bộ, tạo điều kiện kèm theo cho sự thống trị của thực dân Tây Ban Nha tại nơi đây. [ 9 ]Văn hóa và lịch sử vẻ vang Aztec được nghiên cứu và điều tra từ các chứng cứ khảo cổ tìm thấy ở những điểm khai thác như Templo Mayor tại Thành phố Mexico ; từ những quyển bản thảo Aztec ; từ sự tận mắt chứng kiến tận mắt của những conquistador như Hernán Cortés và Bernal Díaz del Castillo ; đặc biệt quan trọng từ những diễn đạt về văn hoá và lịch sử dân tộc Aztec của thế kỷ 16 và thế kỷ 17 được các nhà truyền giáo Tây Ban Nha hoặc người Nahuatl viết bằng tiếng Tây Ban Nha hoặc tiếng Nahuatl, ví dụ điển hình như quy tắc Florentine nổi tiếng do linh mục dòng Phan Sinh Bernardino de Sahagún biên soạn với sự trợ giúp của người Aztec. Ở thời gian cực thịnh của nó, nền văn hoá Aztec có truyền thống lịch sử thần thoại cổ xưa và tôn giáo nhiều mẫu mã, phức tạp, cũng như đạt được những thành tựu kiến trúc và thẩm mỹ và nghệ thuật đáng chú ý quan tâm .
Tượng chiến binh đại bàng bằng gốm

Danh từ Nahuatl aztecatl (Phát âm Nahuatl: [asˈtekat͡ɬ], số ít)[10] và aztecah (Phát âm Nahuatl: [asˈtekaʔ], số nhiều)[10] có nghĩa là “người xứ Aztlan”,[11] một địa điểm trong thần thoại của nhiều dân tộc miền trung Mexico. Danh từ này không phải là danh xưng bản địa của người Aztec nhưng thường được dùng trong các văn liệu kể về cuộc di cư của người Mexica ra khỏi Aztlan. Trong một dị bản của huyền sử đó, thần bảo trợ Mexica là Huitzilopochtli đã nói với bầy lưu dân Azteca rằng “bây giờ, tên của các ngươi không còn là Azteca nữa, các ngươi giờ là Mexitin [Mexica].”

Hiện nay, danh xưng “Aztec” được dùng để chỉ người Mexica của Tenochtitlan (nay là thành phố Mexico) nằm trên hòn đảo giữa hồ Texcoco. Những người mà tự xưng là Mēxihcah (Phát âm Nahuatl: [meːˈʃiʔkaʔ], một tộc danh bao gồm cả dân Tlatelolco), Tenochcah (Phát âm Nahuatl: [teˈnot͡ʃkaʔ], danh xưng Mexica không bao gồm Tlatelolco) hoặc Cōlhuah (Phát âm Nahuatl: [ˈkoːlwaʔ], dân Mexica tự coi mình là hậu duệ của Culhuacan).[nb 1][nb 2]

Đôi khi danh xưng Aztec cũng bao gồm cư dân của hai thành bang đồng minh chủ chốt: tộc Acolhua của Texcoco và tộc Tepanec của Tlacopan. Việc sử dụng danh xưng trên để chỉ đế quốc tập quyền của Tenochtitlan đã bị chỉ trích bởi sử gia Robert H. Barlow (ông đề xuất thay thế nó bằng thuật ngữ “Culhua-Mexica” ) và sử gia Pedro Carrasco (ông đề xuất thay tên đó bằng “đế quốc Tenochca” ). Carrasco cho rằng danh từ Aztec “không giúp ích gì để giải thích độ phức tạp về sắc tộc Mexico cổ đại và để xác định yếu tố chi phối trong thực thể chính trị mà chúng ta đang nghiên cứu.”

Trong nhiều văn cảnh khác, Aztec có thể dùng để chỉ tất cả các thành bang và dân tộc sở hữu nhưng điểm tương đồng về mặt lịch sử, văn hóa hoặc ngôn ngữ mẹ đẻ Nahuatl, như của người Mexica, Acolhua và Tepanec.[17] Theo định nghĩa này, ta có thể coi “nền văn minh Aztec” bao gồm tất cả các khuôn mẫu văn hóa phổ quát chung ở hầu hết các dân tộc sinh sống tại miền trung Mexico vào cuối hậu kỳ cổ điển. Cách sử dụng này mở rộng thuật ngữ “Aztec” để chỉ tất cả các nhóm ở Trung Mexico đã hòa nhập văn hóa hoặc chính trị dưới sự thống trị của đế quốc Aztec.[nb 3]

Thuật ngữ “Aztec” có thể dùng để chỉ các sắc tộc nói tiếng Nahuatl ở miền trung Mexico trong hậu kỳ cổ điển của phân kỳ niên đại Trung Bộ châu Mỹ, nhất là người Mexica, sắc tộc mà đã thành lập đế chế tập quyền với trái tim là Tenochtitlan. Thuật ngữ này được mở rộng để bao hàm các sắc tộc có liên quan đến đế quốc Aztec chẳng hạn như Acolhua, Tepanec v.v. Sử gia Charles Gibson liệt kê một số nhóm thuộc Aztec ở miền trung Mexico mà ông nghiên cứu trong cuốn The Aztecs Under Spanish Rule (1964) sau đây: Culhuaque, Cuitlahuaque, Mixquica, Xochimilca, Chalca, Tepaneca, Acolhuaque, và Mexica.[20]

Ngày xưa, Aztec thường được dùng để chỉ dân số nói tiếng Nahuatl hiện đại, vì tiếng Nahuatl trước đây từng được gọi là “tiếng Aztec”. Gần đây, sắc tộc này được gọi là Nahua. Về mặt ngôn ngữ, thuật ngữ “Aztecan” vẫn được sử dụng để chỉ một nhánh của ngữ hệ Ute-Aztec (có tên gọi khác là yuto-nahuan) bao gồm ngôn ngữ Nahuatl và các họ hàng gần nhất của nó đó là tiếng Pochutec và tiếng Pipil.

Chú ý rằng từ “aztec” không phải là nội danh hay danh xưng của “người Aztec”. Nó là một danh từ chung để chỉ các nhóm dân tộc nói tiếng Nahuatl và tự xưng là có nguồn gốc từ xứ Aztlan. Alexander von Humboldt là người khởi nguồn cách gọi “Aztec” vào năm 1810, một danh từ chung áp dụng cho tất cả dân tộc liên kết với nhau bởi thương mại, phong tục, tôn giáo và ngôn ngữ của nhà nước tập quyền Mexica, tức là Liên minh tam quốc. Năm 1843, sau khi William H. Prescott xuất bản cuốn The History of the Conquest of Mexico, danh từ Aztec mới bắt đầu phổ biến trên toàn thế giới và nó được các học giả Mexico thế kỷ 19 sử dụng nhằm phân biệt giữa người Mexico hiện đại và người Mexico thời kỳ tiền-Columbus. Gần đây, danh từ “Aztec” lại đang bị lôi ra và tranh cãi bởi giới học thuật.

Trung Mexico trong thời kỳ cổ xưa và hậu cổ điển[sửa|sửa mã nguồn]

Thung lũng Mexico với địa điểm của các thành bang chính năm 1519 .Các nhà nghiên cứu đang còn tranh cãi liệu Teotihuacan đã được người Nahuatl tới sinh sống từ trước, hay là họ đã tới sau thời kỳ cổ xưa. Nhưng giới khảo cổ đều đồng ý chấp thuận rằng dân Nahua không phải là thổ dân vùng cao Mexico, mà họ từ từ di cư vào khu vực này từ nơi nào đó ở tây-bắc Mexico. Khi Teotihuacan sụp đổ vào thế kỷ thứ VI, 1 số ít thành bang củng cố quyền lực tối cao ở miền trung Mexico, gồm có thành Cholula và Xochicalco, hoàn toàn có thể là của người Nahuatl. Một điều tra và nghiên cứu chỉ ra rằng người Nahua khởi đầu sống ở vùng Bajío quanh Guanajuato, đạt cực thịnh vào cuối thế kỷ thứ XI, sau đó nhanh gọn sụt giảm dân số trong một thời kỳ hạn hán khắc nghiệt. Sự suy giảm dân số tại Bajío xảy ra cùng thời gian với sự xâm nhập của dân di cư mới vào thung lũng Mêhicô, cho thấy rằng đây là khởi điểm của dòng chảy người Nahuatl đến khu vực này. Dân di cư vào Trung Mexico thay thế sửa chữa giống người nói ngôn từ Oto-Manguean khi họ Viral tác động ảnh hưởng chính trị của họ về phía nam. Nền tảng của văn hóa truyền thống Aztec sau này đã hình thành khi những người thợ săn hái lượm quen du canh du cư trước đây hòa trộn vào nền văn minh phức tạp của Trung Bộ châu Mỹ, tiếp thu các hoạt động giải trí tôn giáo và văn hoá của nhau. Sau năm 900, trong giai đoạn Hậu cổ điển, 1 số ít khu vực gần như chắc như đinh có người Nahuatl đã trở nên hùng cường. Trong số đó có các thành bang như Tula, Hidalgo, và các thành bang như Tenayuca, và Colhuacan ở thung lũng Mexico và Cuauhnahuac ở Morelos .

Giai đoạn di dân và sự hình thành Tenochtitlan[sửa|sửa mã nguồn]

Trong các nguồn văn học dân gian từ thời thực dân thuộc địa, những người Aztecs đã mô tả việc họ đến Thung lũng Mexico. Tên Aztec (Nahuatl ”Aztecah”) có nghĩa là “người đến từ Aztlan”, Aztlan là một địa điểm thần thoại về phía bắc. Do đó thuật ngữ áp dụng cho tất cả những người tuyên bố đã mang các di sản đến từ nơi huyền thoại này. Những câu chuyện di dân của bộ lạc Mexica cho biết họ đã đi du lịch với các bộ tộc khác bao gồm Tlaxcalteca, Tepaneca và Acolhua, nhưng cuối cùng thần Huitzilopochtli của họ lại cho họ tách khỏi các bộ tộc Aztec khác và lấy tên là “Mexica”. Vào thời điểm họ đến, có rất nhiều thành bang Aztec trong khu vực. Thành có quyền lực nhất là Colhuacan ở phía nam và Azcapotzalco về phía tây. thành Tepanec của Azcapotzalco trục xuất người Mexica khỏi Chapultepec. Năm 1299, vua Cocoxtli của Colhuacan cho phép họ định cư tại những rặng núi trống trải ở Tizapan, tại đây họ đã bị đồng hóa vào nền văn hoá Culhuacan. Dòng tộc của Colhuacan có nguồn gốc từ thành Tula huyền thoại và với việc cưới công chúa của Colhuacan, dân Mexica bây giờ cũng đã tiếp thu di sản này. Sau khi sống một thời gian với thành Colhuacan, người Mexica lại bị trục xuất và tiếp tục di cư. Theo truyền thuyết, vào năm 1323, dân Mexica được các vị thần báo mộng về một con đại bàng đậu trên một cây xương rồng lấp lánh, bèn cho xây thành Tenochtitlan tại nơi đó. Năm 1376, triều đại hoàng gia Mexica được thành lập khi Acamapichtli, có cha là Mexica và mẹ là Colhua, được tôn làm Huey Tlatoani đầu tiên của thành Tenochtitlan.

Các vị vua tiên phong[sửa|sửa mã nguồn]

Trong 50 năm đầu sau khi xây dựng triều đại Mexica, Mexica là một chư hầu của Azcapotzalco, vốn đã trở thành một cường quốc trong khu vực dưới quyền của vua Tezozomoc. Mexica cung ứng cho Tepaneca các chiến binh cho các chiến dịch chinh phục thành công xuất sắc của Tepaneca trong khu vực và nhận được một phần của cống phẩm từ các thành phố bị chinh phục. Bằng cách này, uy tín và nền kinh tế tài chính của Tenochtitlan từ từ tăng lên .Năm 1396, tại cái chết của Acamapichtli, con trai ông Huitzilihhuitl ( tiếng Nahuatl : ” lông vũ của chim ruồi ” ) trở thành người quản lý ; đính hôn với con gái của Tezozomoc, và mối quan hệ với Azcapotzalco vẫn thân thiện. Chimaldopoca ( tiếng Nahuatl : ” Bà ấy hút thuốc lá như một cái khiên ” ), con của Huitzilihhuitl, trở thành vua của Tenochtitlan năm 1417. Năm 1418, Azcapotzalco khởi đầu một đại chiến chống lại Acolhua của Texcoco và giết lãnh tụ Ixtlilxochitl của họ. Mặc dù Ixtlilxochitl kết hôn với con gái của Chimalpopoca, chỉ huy Mexica liên tục ủng hộ Tezozomoc. Tezozomoc qua đời vào năm 1426, và các con trai của ông mở màn một cuộc đấu tranh giành quyền quản lý Azcapotzalco. Trong cuộc đấu tranh giành quyền lực tối cao này, Chimalpopoca qua đời, có lẽ rằng con của Tezozomoc, Maxtla, đã giết ông vì thấy đây là một đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu .Itzcoatl, anh trai của Huitzilihhuitl và chú của Chimalpopoca, được bầu làm tlatoani tiếp theo của Mexica. Mexica lúc đó đang có cuộc cuộc chiến tranh mở với Azcapotzalco và Itzcoatl đã đề xuất kiến nghị liên minh với Nezahualcoyotl, con trai của lãnh tụ Ixtlilxochitl bị giết để chống lại Maxtla. Itzcoatl cũng liên minh với anh trai của Maxtla, Totoquihuaztli, người quản lý thành phố Tepanec của Tlacopan. Liên minh 3 bên của Tenochtitlan, Texcoco và Tlacopan đã vây hãm Azcapotzalco, và vào năm 1428 họ tàn phá thành phố và giết chết Maxtla. Qua thắng lợi này, Tenochtitlan đã trở thành thành-bang thống trị trong Thung lũng Mêhicô, và liên minh giữa ba thành phố tạo ra tiền đề để thiết kế xây dựng Đế quốc Aztec .

Các nhà vua tiên phong[sửa|sửa mã nguồn]

Motecuzoma I Ilhuicamina[sửa|sửa mã nguồn]

Motecuzuma I đăng quang, Thủ bản Tovar

Năm 1440, Motecuzoma I Ilhuicamina [nb 4] (nghĩa là, “Ông cau mày như một lãnh chúa, ông bắn bầu trời” [nb 5]) được tôn làm tlatoani; ông là con trai của Huitzilihhuitl, anh trai của Chimalpopoca và từng là phục vụ dưới người chú Itzcoatl trong cuộc chiến chống lại Tepanec. Khi một hoàng đế mới đăng quang, các thành bang bất trị thường nhân cơ hội mà nổi dậy. Điều này có nghĩa là những hoàng đế mới phải đi chiến dịch để dập tắt nổi dậy, nhưng đôi khi cũng phô trương sức mạnh quân sự của họ bằng cách thực hiện các cuộc chinh phạt mới. Motecuzoma thử lòng trung thành của các thành bang xung quanh thung lũng với yêu cầu lao động cho việc tu sửa và tái thiết Đại Điện tại Tenochtitlan. Chỉ có thành Chalco khước từ lời đề nghị, và căng thẳng giữa Chalco và Tenochtitlan tồn tại cho đến những năm 1450. Motecuzoma sau đó đánh chiếm các thành bang trong thung lũng Morelos và Guerrero, rồi chinh phạt vùng Huaxtec ở phía bắc Veracruz, và vùng Mixtec của Coixtmusuaca và phần lớn Oaxaca, và sau đó lại ở miền trung và miền nam Veracruz. Cosamalopan, Ahuilizapan và Cuetlaxtlan. Trong thời kỳ này, các thành bang Tlaxcalan, Cholula và Huexotzinco nổi lên như những chướng ngại cho sự bành trướng của đế quốc. Do đó, Motecuzoma đã khởi xướng một kiểu chiến tranh đặc biệt chống lại ba thành bang này, gọi là “Chiến tranh Hoa” (tiếng Nahuatl: xochiyaoyotl), một kiểu chiến tranh tiêu hao đội lốt chiến tranh nghi lễ.

Motecuzoma thưc hiện nhiều cải cách so với Tam Đồng Minh và nội bộ tại Tenochtitlan. Anh trai của ông, Tlacaelel là cố vấn chính của ông ( tiếng Nahuatl : Cihuacoatl ) và ông được coi là kiến ​ ​ trúc sư của những cải cách chính trị sâu rộng trong thời kỳ này, củng cố quyền lực tối cao của những tầng lớp quý tộc ( tiếng Nahuatl : pipiltin ) và cho soạn một bộ luật, và sửa chữa thay thế quý tộc địa phương bằng những kẻ quản lý bị ràng buộc bởi lòng nhiệt thành với tlatoani của Mexica .

Axayacatl và Tizoc[sửa|sửa mã nguồn]

Tizoc trong Thủ bản Telleriano-RemensisNăm 1469, Axayacatl ( nghĩa là, ” Mặt nạ nước ” ), con trai của con trai Itzcoatl là Tezozomoc với con gái của Motecuzoma I là Atotoztli, lên ngôi. [ nb 6 ] Ông đã thực thi một chiến dịch đăng quang thành công xuất sắc ở phía nam Tenochtitlan chống lại văn minh Zapotec. Axayacatl cũng đã chinh phục thành phố Tlatelolco độc lập của Mexica, nằm ở phía bắc của hòn hòn đảo nơi Tenochtitlan tọa lạc. Vua Tlatelolco là Moquihuix đã kết hôn với chị gái của Axayacatl, và lời đồn thổi ông ta ngược đại vợ đã được sử dụng như một cái cớ để sáp nhập trọn vẹn Tlatelolco vào Tenochtitlan .Axayacatl sau đó đi chinh phục các khu vực ở Trung Guerrero, Thung lũng Puebla, trên bờ vịnh và cuộc chiến tranh với Otomi và Matlatzinca trong thung lũng Toluca. Thung lũng Toluca là vùng đệm của đế quốc với nhà nước Tarascan hùng mạnh ở Michoacan. Trong chiến dịch xâm lăng Tarasca ( tiếng Nahuatl : Michhuahqueh ) năm 1478 – 79, lực lượng Aztec không tài nào phá thủng phòng tuyến ghê gớm của quân Tarasca. Axayacatl thảm bại trọn vẹn tại trận Tlaximaloyan ( thời nay là Tajimaroa ), mất gần hết đội quân 32.000 người và như mong muốn chạy về Tenochtitlan với tàn quân rất ít .

Năm 1481, Axayacatl qua đời, anh trai Tizoc lên ngôi. Chiến dịch đăng quang của Tizoc chống lại tộc Otomi thành Metztitlan kết thúc trong thảm họa và quân của ông chỉ bắt được 40 tù binh để hiến tế trong buổi đăng quang. Để lộ sự bất tài, nhiều thị trấn chư hầu khởi nghĩa và do đó, phần lớn triều đại ngắn ngủi của Tizoc được dành để dập tắt các cuộc nổi loạn và bình định các địa phương đã bị chinh phục bởi các vị vua trước. Tizoc đột ngột qua đời vào năm 1485, có ý kiến ​​cho rằng ông đã bị anh trai và tể tướng là Ahuitzotl đầu độc và soán ngôi tlatoani. Phiến đá Tizoc, một tác phẩm điêu khắc mỹ nghệ (tiếng Nahuatl: temalacatl), có chạm trổ với cuộc chinh phạt của vua Tizoc.

Ahuitzotl trong Thủ bản MendozaAhuitzotl ( nghĩa là, ” Thủy quái ” ), anh trai của Axayacatl và Tizoc và là tể tướng đời Tizoc. Chiến dịch đăng quang của ông tại thung lũng Toluca, Jilotepec và bắc Thung lũng Mexico thành công xuất sắc tỏa nắng rực rỡ. Chiến dịch thứ hai năm 1521 của ông tại bờ vịnh cũng rất thành công xuất sắc. Ông cho trùng tu Đại Điện Tenochtitlan, khánh thành ngôi đền mới vào năm 1487. Ông cho mời thủ lĩnh của tổng thể các thành bang chư hầu đến Tenochtitlan để tận mắt chứng kiến lễ hiến tế tù binh lớn chưa từng có tiền lệ – một số ít nguồn đưa ra số lượng 80.400 tù binh bị quyết tử trong vòng 4 ngày. Con số thực có lẽ rằng nhỏ hơn, nhưng vẫn ở mức hàng ngàn người. Ahuitzotl cũng cho xây nhiều khu công trình lớn tại Calixtlahuaca, Malinalco và Tepoztlan. Sau khi đàn áp cuộc binh biến tại Alahuiztlan và Oztoticpac ở Bắc Guerrero, ông hạ lệnh tàn sát hàng loạt dân cư tại đó, và cho dân tại thung lũng Mexico tới đó định cư. Ông cũng cho dựng một tiền đồn quân sự chiến lược tại Oztuma, giáp ranh với đế quốc Tarascan .

Các nhà vua ở đầu cuối và cuộc chinh phạt của Tây Ban Nha[sửa|sửa mã nguồn]

Moctezuma II Xocoyotzin là nhà vua quản lý đế quốc Aztec trong quá trình đầu của cuộc chinh phạt của Tây Ban Nha. Ông lên ngôi sau khi Ahuitzotl qua đời. Moctezuma Xocoyotzin là con trai của Axayacatl, và từng là tướng quân. Trong chiến dịch đăng quang, ông cầm quân đánh thành Nopallan ở Oaxaca và sáp nhập khu vực lân cận vào đế quốc. Là một chiến binh giỏi, Moctezuma nhanh gọn đánh chiếm các vùng Guerrero, Oaxaca, Puebla và thậm chí còn xa về phía nam dọc theo bờ biển Thái Bình Dương và vùng Vịnh, chinh phục tỉnh Xoconochco ở Chiapas. Ông cũng tăng cường các đại chiến hoa chống lại Tlaxcala và Huexotzinco, và thiết kế liên minh với Cholula. Ông cũng củng cố cấu trúc giai cấp của xã hội Aztec, lam khó cho tầm trung thăng quan tiến chức lên giai cấp quý tộc dựa trên công đức cuộc chiến tranh. Ông cũng thiết lập bộ luật khắt khe hạn chế tầm trung dùng các loại sản phẩm & hàng hóa xa xỉ .
” The Martyrdom of Cuauhtémoc “, bức tranh thế kỷ 19 vẽ bởi Leandro IzaguirreVào năm 1517, Moctezuma hay tin những chiến binh Open trên bờ Cempoallan. Ông phái các sứ giả đến để thám thính những vị khách lạ lẫm này. Năm 1519, ông được bẩm báo về đoàn viễn chinh của Hernán Cortes, hành quân về phía Tlaxcala, quân địch không đội trời chung của người Aztec. Vào mùng 8 tháng 11 năm 1519, Moctezuma II gặp mặt Cortés và quân đội của ông ta cùng với liên minh Tlaxcala, trên bờ đường phía nam Tenochtitlan, và vị hoàng đế mời người Tây Ban Nha ở lại làm khách. Khi quân đội Aztec hủy hoại một trại Tây Ban Nha trên bờ biển vịnh, Cortés muốn Moctezuma xử tử các chỉ huy chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về vụ tiến công, và Moctezuma phải nghe theo. Tại thời gian này, quyền lực tối cao đang nằm trong tay Tây Ban Nha hiện đang giữ Motecuzoma làm tù nhân trong hoàng cung. Vào tháng 6 năm 1520, thù địch leo thang, lên đến đỉnh điểm trong vụ thảm sát ở Đền Lớn, theo sau là cuộc nổi dậy của người Mexica chống lại Tây Ban Nha. Trong trận chiến, Moctezuma bị giết. Có nguồn nói ông bị giết do bị quân Mexica bắn vào đầu, có nguồn lại nói ông bị giết bởi quân tây Ban Nha trên đường họ tháo chạy .Cuitláhuac, người họ hàng và cố vấn cho Moctezuma, kế vị ông và chỉ huy đại chiến chống quân xâm lược Tây Ban Nha và các liên minh địa phương. Ông chỉ quản lý 80 ngày, có lẽ rằng thiệt mạng trong trận dịch đậu mùa, mặc dầu các sử liệu không đưa ra nguyên do. Cuauhtémoc kế vị ông và là nhà vua ở đầu cuối, chỉ huy cuộc tử trận thành Tenochtitlan. Người Aztec bị suy yếu do bệnh tật và người Tây Ban Nha chiêu mộ hàng ngàn liên minh địa phương, hầu hết là thành bang Tlaxcala, để tiến công Tenochtitlan. Sau khi vây hãm và tàn phá trọn vẹn Thành Phố Hà Nội Aztec, Cuahtémoc bị bắt vào ngày 13 tháng 8 năm 1521, ghi lại sự khởi đầu của chính sách thực dân Tây Ban Nha ở miền trung Mexico. Người Tây Ban Nha giam giữ Cuauhtémoc và sau này bị đem ra xử tử theo lệnh của Cortés trong cuộc viễn chinh bất thành tới Honduras năm 1525, bị gán tội phản quốc. Cái chết của vị hoàng đế đặt dấu chấm hết cho lịch sử dân tộc của đế quốc Aztec .

Tổ chức xã hội và chính trị[sửa|sửa mã nguồn]

Thủ bản Mendoza minh họa một thường dân thăng tiến địa vị bằng cách bắt giữ tù binh. Mỗi bộ quân phục sẽ được ban phát dựa trên số tù binh mà chiến binh đó bắt được trong chiến tranh.

Một trang từminh họa một thường dân thăng tiến địa vị bằng cách bắt giữ tù binh. Mỗi bộ quân phục sẽ được ban phát dựa trên số tù binh mà chiến binh đó bắt được trong chiến tranh.

Quý tộc và thường dân[sửa|sửa mã nguồn]

Giai cấp cao quý nhất là các pilli[nb 7] hoặc giới quý tộc. Địa vị pilli dựa trên dòng tộc và họ có một số đặc quyền nhất định, chẳng hạn như quyền được mặc trang phục hoa mỹ, tiêu thụ hàng hóa xa xỉ, sở hữu đất đai và sử dụng sưu dịch từ giới bần nông. Các quý tộc quyền lực nhất được gọi là lãnh chúa (tiếng Nahuatl: teuctin). Họ sở hữu và kiểm soát các điền trang hoặc đất quý tộc, và có thể phục vụ tại các vị trí cao nhất trong bộ máy nhà nước hoặc thủ lĩnh quân sự. Giới quý tộc chiếm khoảng 5% dân số đế quốc.

Giai cấp thứ hai là mācehualtin, ban đầu là bần nông, nhưng rồi được lên tầng lớp lao động thấp hơn nói chung. Eduardo Noguera ước tính rằng trong các giai đoạn sau, chỉ có 20% dân số sản xuất nông nghiệp và thực phẩm. 80% còn lại là các chiến binh, nghệ nhân và thương nhân. Hầu hết các mācehuallis sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ. Các tác phẩm của họ là một nguồn thu nhập quan trọng cho thành bang. Macehualtin có thể trở thành nô lệ, (tiếng Nahuatl: tlacotin) nếu họ phải bán thân để phụng sự một quý tộc do nợ nần hoặc nghèo đói, nhưng nô lệ không phải là tầng lớp theo dòng tộc. Một số macehualtin không có đất và làm việc trực tiếp cho một lãnh chúa (tiếng Nahuatl: mayehqueh), trong khi phần lớn thường dân được tổ chức thành cáccalpolli cho phép họ tiếp cận đất đai và tài sản.

Thường dân hoàn toàn có thể thăng quan tiến chức lên quý tộc bằng cách chứng tỏ năng lượng trong cuộc chiến tranh. Khi một chiến binh bắt được tù binh, anh ta sẽ được mặc phục trang, được trang bị vũ khí và được mang theo huy hiệu nhất định để biểu lộ vị thế của anh ta, và khi anh ta bắt giữ được nhiều tù binh hơn, cấp bậc và uy tín của anh cũng tăng lên theo .

Gia đình và giới tính[sửa|sửa mã nguồn]

Gia đình Aztec là song phương, coi họ hàng hai bên cha và mẹ là như nhau, và quyền thừa kế được truyền lại cho cả con trai và con gái. Điều này có nghĩa là phụ nữ có quyền sở hữu tài sản giống như đàn ông và do đó phụ nữ có độc lập hơn về kinh tế tài chính. Tuy nhiên, xã hội Aztec vẫn phân định vai trò của nam và nữ. Đàn ông sẽ thường thao tác ngoài quyền lực, như làm nông, làm thương nhân, thợ thủ công và chiến binh, trong khi phụ nữ thường ​ ​ sẽ tiếp đón việc nội trợ. Ngoài ra, phụ nữ cũng hoàn toàn có thể chọn trở thành tiểu thương nhân, y tá, linh mục hoặc nữ hộ sinh. Chiến tranh rất được coi trọng trong xã hội Aztec. Việc sinh đẻ của phụ nữ cũng được coi trọng chẳng kém cuộc chiến tranh, và được họ côi là thiết yếu để duy trì trạng thái cân đối của quốc tế và làm hài lòng các vị thần .Các quý tộc thấp hơn thường gả con gái mình cho những quý tộc cao hơn để sau này con cháu của họ sẽ được thừa kế gia tài và uy tín của họ. Các quý tộc Aztec cũng có truyền thống cuội nguồn đa thê, cưới nhiều vợ. Chế độ đa thê không phổ cập trong giới tầm trung và một số ít nguồn khẳng định chắc chắn nó bị cấm .Nahuas thuộc về văn hóa truyền thống Aztec và Toltec. Người Nahuas có liên kết với Xochiquetzal, nữ thần của ham muốn tình dục và hay điệu đàng đàn ông. Tóc rối, và sự trộn lẫn ở phụ nữ được so sánh với ham muốn tình dục và mại dâm, điều này là do Xochiquetzal trông giống như vậy khi bà ngồi trên ngai vàng .

Altepetl và calpolli[sửa|sửa mã nguồn]

Đơn vị hành chính chính của đế quốc Aztec là các thành bang, trong tiếng Nahuatl được gọi là các altepetl, dịch nghĩa đen là “sơn thủy”. Mỗi altepetl được lãnh đạo bởi một tlatoani, đứng trên quý tộc và thường dân. Mỗi altepetl sẽ có một thủ đô bao gồm trung tâm tôn giáo, trung tâm phân phối và cộng đồng dân địa phương sống rải rác tại các khu định cư nhỏ xung quanh thủ đô đó. Altepetl là nguồn văn hóa chính cho cư dân quanh đó, mặc dù nó thường được cấu thành từ các nhóm sắc tộc khác nhau. Mỗi altepetl sẽ có chính trị độc lập với các altepetl khác, và chiến tranh thường nổ ra giữa các altepetl. Do vậy, người Aztec nói tiếng Nahuatl của một altepetl sẽ đoàn kết với dân nói ngôn ngữ khác thuộc cùng một altepetl, nhưng kẻ thù của người nói tiếng Nahuatl lại thuộc các altepetl cạnh tranh khác. Trong lưu vực Mexico, altepetl bao gồm các phân khu nhỏ hơn được gọi là calpolli, đóng vai trò là đơn vị sắp xếp thường dân. Ở Tlaxcala và thung lũng Puebla, altepetl được chia thành các đơn vị teccalli do một lãnh chúa (tiếng Nahuatl: tecutli) đứng đầu, người có quyền phân chia đất cho người dân. Một calpolli là một đơn vị lãnh thổ nơi người dân được quyền tổ chức lao động và sử dụng đất, vì đất đai tại đây không phải là tài sản tư, và cũng thường là thuộc về các thân tộc thông giao với nhau. Các nhà lãnh đạo calpolli có thể trở thành thành viên của giới quý tộc; trong trường hợp đó, họ sẽ đại diện cho lợi ích của calpolli đó trong chính quyền altepetl.

Nhà khảo cổ học Michael E. Smith ước tính rằng một altepetl nổi bật có từ 10.000 đến 15.000 dân cư, và thường rộng từ 70 đến 100 km vuông. Trong thung lũng Morelos, size của altepetl có phần nhỏ hơn. Smith lập luận rằng altepetl hầu hết là một đơn vị chức năng hành chính, tạo nên từ nhân dân trung thành với chủ với một lãnh chúa, chứ không phải là một đơn vị chức năng chủ quyền lãnh thổ. Ông đề xuất kiến nghị sự độc lạ này chính do ở 1 số ít khu định cư có liên minh altepetl xen kẽ nhau .

Nông nghiệp và hoạt động và sinh hoạt[sửa|sửa mã nguồn]

Như toàn bộ các dân tộc bản địa tại Trung Bộ, người Aztec đa phần trồng ngô. Môi trường khí ẩm ở Thung lũng Mexico với nhiều hồ và đầm lầy được cho phép nông nghiệp thâm canh. Các loại cây xanh chính ngoài ngô là đậu, bí, ớt và rau dền. Đặc biệt quan trọng so với sản xuất nông nghiệp tại thung lũng là việc thiết kế xây dựng các chinampa trên hồ, các hòn đảo tự tạo được cho phép quy đổi vùng nước nông thành những khu vườn phì nhiêu hoàn toàn có thể được trồng quanh năm. Các chinampa là phần lan rộng ra tự tạo của đất nông nghiệp, được tạo ra từ các lớp bùn xen kẽ từ đáy hồ, và các chất hữu cơ và thực vật khác. Những dãy thềm được nâng lên này được ngăn cách bởi các kênh hẹp, được cho phép nông dân vận động và di chuyển giữa chúng bằng xuồng. Các chinampa là những mảnh đất cực kỳ phì nhiêu, và cho ra trung bình bảy vụ mùa hàng năm. Trên cơ sở hiệu suất chinampa hiện tại, người ta ước tính rằng 1 héc-ta chinampa sẽ nuôi sống 20 người 9,000 hécta ( 22,24 mẫu Anh ) và 9.000 héc-ta chinampa hoàn toàn có thể nuôi 180.000 người .Người Aztec tối ưu sản xuất nông nghiệp với mạng lưới hệ thống tưới tiêu tự tạo. Hầu hết các nông trang được đặt ở ngoại ô và một giải pháp canh tác ( quy mô nhỏ ) khác được sử dụng trong thành phố. Mỗi mái ấm gia đình có một mảnh vườn riêng, nơi họ trồng ngô, trái cây, thảo mộc, thuốc các loại. Khi Thành Tenochtitlan trở thành TT đô thị, nhiều cầu máng được thiết kế xây dựng để dẫn nước từ sông hồ suối vào thành phố và một mạng lưới hệ thống thu gom chất thải được tạo ra để làm phân bón. Thông qua nông nghiệp thâm canh, người Aztec đã hoàn toàn có thể duy trì được dân số lớn. Ao hồ cũng là nguồn thức ăn phong phú và đa dạng dưới dạng động vật hoang dã thủy sinh như cá, động vật hoang dã lưỡng cư, tôm, côn trùng nhỏ và trứng côn trùng nhỏ, và chim nước. Sự hiện hữu của nguồn thức ăn dồi dào như vậy đồng nghĩa tương quan với việc người Aztec ít nuôi gà hoặc chó, và các học giả đã thống kê giám sát rằng không có sự thiếu vắng dinh dưỡng tại Thung lũng Mexico .

Thủ công mỹ nghệ[sửa|sửa mã nguồn]

Đồ gốm Aztec màu cam và đenNguồn lương thực thực phẩm dồi dào như vậy được cho phép một phần đáng kể dân số Aztec tập trung chuyên sâu vào nghề khác ngoài sản xuất thực phẩm. Phụ nữ ngoài việc bếp núc còn dệt vải thùa hoặc sợi bông. Đàn ông cũng thao tác bằng tay thủ công mỹ nghệ như sản xuất gốm sứ, các công cụ bằng đá vỏ chai và đá đánh lửa, kết cườm, làm lông và sản xuất các công cụ và nhạc cụ .Người Aztec không sản xuất nhiều sắt kẽm kim loại, nhưng có kiến ​ ​ thức cơ bản về luyện kim như vàng và họ có phối hợp vàng với các loại đá quý như ngọc bích và ngọc lam. Các mẫu sản phẩm từ đồng thường được nhập khẩu từ đế quốc Tarascan và tộc Michoacan .

Thương mại và phân phối[sửa|sửa mã nguồn]

Sản phẩm được phân phối trải qua một mạng lưới các chợ ; một số ít chợ chỉ có một mẫu sản phẩm duy nhất ( ví dụ chợ chó tại Acolman ) và các chợ có nhiều sản phẩm & hàng hóa khác nhau. Mỗi khu chợ sẽ có một người quản lí bảo vệ rằng chỉ dân có ủy quyền mới được phép bày bán đồ, trừng phạt thương nhân lừa dối khách mua hàng hoặc kinh doanh hàng giả, kém chất lượng. Một thị xã nhỏ sẽ có chợ phiên ( cứ năm ngày một lần ), trong khi các thành phố lớn hơn họp chợ hằng ngày. Cortés có chép rằng chợ TT tại Tlatelolco, thành bang chị em của Tenochtitlan, có sức chứa 60.000 người hàng ngày .

Các vị thần[sửa|sửa mã nguồn]

Các vị thần chính được người Aztec thờ phụng là Tlaloc, thần của mưa bão; Huitzilopochtli, thần của mặt trời, võ thuật và vệ thần của bộ lạc Mexica; Quetzalcoatl, thần của gió, bầu trời và các ngôi sao; Tezcatlipoca, thần của màn đêm, ma thuật, tiên tri và số phận. Đền Lớn ở Tenochtitlan có hai đền trên đỉnh, một ngôi dành riêng cho Tlaloc, ngôi còn lại dành cho Huitzilopochtli. Quetzalcoatl và Tezcatlipoca đều có đền riêng trong khu vực tôn giáo gần Đền Lớn, và các linh mục của Đền Lớn được đặt tên là “Quetzalcoatl Tlamacazqueh“. Các vị thần lớn khác bao gồm Tlaltecutli hoặc Coatlicue, nữ thần của đất; cặp thần Tonacatecuhtli và Tonacacihuatl bảo hộ sự sống và sự nuôi dưỡng; Mictlantecutli và Mictlancihuatl, cặp thần của thế giới ngầm và cái chết; Chalchiutlicue, nữ thần của hồ và suối; Xipe Totec, thần của sự bội thu và chu kỳ tự nhiên; Huehueteotl hoặc Xiuhtecuhtli, thần lửa; Tlazolteotl, nữ thần của việc sinh sản và tình dục; Xochipilli và Xochiquetzal, các vị thần của ca hát, khiêu vũ và trò chơi. Ở một số vùng, đặc biệt là Tlaxcala, thần Mixcoatl hoặc Camaxtli mới là thần bảo hộ. Ngoài các vị thần lớn, còn có hàng chục các vị thần nhỏ, mỗi vị thần liên quan đến một yếu tố hoặc khái niệm, và khi đế chế Aztec phát triển, số các vị thần càng tăng lên do sáp nhập thêm các vị thần địa phương bị chinh phục. Ngoài ra, các vị thần lớn có nhiều khía cạnh khác nhau, tạo ra nhiều gia đình thần nhỏ bộc lộ các khía cạnh liên quan.

Văn hóa và nghệ thuật và thẩm mỹ[sửa|sửa mã nguồn]

Chữ viết và hình tượng[sửa|sửa mã nguồn]

Ví dụ về chữ viết Nahuatl của ba tên địa điểm

Người Aztec không có một hệ thống chữ viết phát triển đầy đủ như người Maya, nhưng cũng như người Maya và Zapotec, họ sử dụng một hệ thống chữ viết kết hợp tượng hình với kí âm tiết. Ví dụ, chữ tượng hình sẽ sử dụng biểu tượng của một ngọn núi để biểu thị từ tepetl, “ngọn núi”, trong khi một kí âm tượng hình sẽ sử dụng hình ảnh của một cái răng tlantli để biểu thị âm tiết tla trong các từ không liên quan đến răng. Sự kết hợp của các nguyên tắc này cho phép người Aztec kí âm tên người và địa danh. Một bài tường thuật được thể hiện thông qua các chuỗi hình ảnh, sử dụng các quy ước biểu tượng khác nhau như dấu chân để chỉ cái đường, đền thờ bị đốt để chỉ một cuộc chinh phạt, v.v

Nhà kim thạch học Alfonso Lacadena đã chứng tỏ rằng các tín hiệu âm tiết khác nhau được sử dụng bởi người Aztec đại diện thay mặt cho toàn bộ các âm tiết thường gặp nhất của ngôn từ Nahuatl ( với một số ít trường hợp ngoại lệ đáng quan tâm ), nhưng 1 số ít học giả đã cho rằng mức độ ngữ âm cao như vậy chỉ đạt được sau cuộc chinh phạt khi người Aztec đã tiếp xúc về các nguyên tắc ngữ âm của tiếng Tây Ban Nha. Các học giả khác, đặc biệt quan trọng là Gordon Whittaker, đã lập luận rằng các góc nhìn âm tiết và ngữ âm của văn bản Aztec ít mạng lưới hệ thống và phát minh sáng tạo hơn đáng kể so với yêu cầu của Lacadena, cho rằng văn bản Aztec chưa khi nào phối hợp thành một mạng lưới hệ thống âm tiết khắt khe như văn bản Maya, mà sử dụng một loạt các loại tín hiệu ngữ âm khác nhau .

Hình ảnh bên phải thể hiện việc sử dụng các dấu hiệu ngữ âm để viết tên địa danh trong bộ luật Aztec Thủ bản Mendoza thời thuộc địa. Trên cùng là Mapachtepec, nghĩa đen là “Trên ngọn đồi của gấu mèo”, nhưng ký tự còn bao gồm dấu hiệu ngữ âm “MA” (tay) và “PACH” (rêu) trên một ngọn núi “TEPETL” đánh vần từ “mapach” (“Gấu mèo”) theo ngữ âm thay vì theo tượng hình. Hai tên địa danh dưới, Mazatlan (“Nơi có nhiều nai”) và Huitztlan (“Nơi có nhiều gai”), sử dụng yếu tố ngữ âm “TLAN” được đại diện bởi một chiếc răng (tlantli) kết hợp với cái đầu hươu để đánh vần “MAZA” (mazatl = hươu) và một cái gai (huitztli) để đánh vần “HUITZ”.

Âm nhạc và thơ ca[sửa|sửa mã nguồn]

teponaztli (phía trước) và huehuetl (phía sau). Hai người đánh trống trong liên hoan ” Một đóa hoa “, nhạc cụ ở đây gọi là ( phía trước ) và ( phía sau ). Thủ bản Florentine

Thơ ca được đánh giá cao trong văn hóa Aztec. Họ thường tổ chức các cuộc thi thơ ca trong mỗi dịp lễ hội. Ngoài ra còn có các màn kịch ấn tượng bao gồm người chơi, nhạc sĩ và diễn viên nhào lộn. Có nhiều thể loại cuicatl (bài hát) khác nhau: Yaocuicatl tôn vinh chiến tranh và (các) vị thần của chiến tranh, teocuicatl tôn vinh các vị thần và thần thoại sáng tạo, xochicuicatl tôn vinh loài hoa (biểu tượng của thơ ca và ẩn dụ để truyền đạt nhiều tầng nghĩa). “Văn xuôi” là tlahtolli, cũng có các thể loại khác nhau.

Một khía cạnh quan trọng của thi pháp học Aztec là việc sử dụng cấu trúc song song để thể hiện các quan điểm khác nhau về cùng một yếu tố. Một số cấu trúc như vậy là lưỡng cực, theo đó một khái niệm trừu tượng được thể hiện một cách ẩn dụ bằng cách sử dụng hai khái niệm cụ thể hơn. Ví dụ, cụm từ Nahuatl cho “thơ” là in xochitl in cuicatl một cấu trúc song song có nghĩa là “bông hoa, bài hát”.

Một số lượng đáng kể thơ Aztec còn tồn tại, được thu thập trong cuộc chinh phục. Trong một số trường hợp, thơ được cho là sáng tác bởi các tác giả duy nhất, chẳng hạn như Nezahualcoyotl, tlatoani của thành Texcoco, và Cuacuauhtzin, Lãnh chúa thành Tepechpan, nhưng liệu họ có phải là tác giả thực không vẫn bị tranh cãi. Một số bộ sưu tập thơ quý phải kể đến đó là cuốn Romances de los señores de la Nueva España, được thu thập, có lẽ bởi Juan Bautista de Pomar,[nb 8] và cuốn Cantares Mexicanos.

Họa phẩm và sách vẽ[sửa|sửa mã nguồn]

Một trang từ Thủ bản Borgia một cuốn bản thảo vẽ trên da nai với gesso

Mỹ thuật Aztec được vẽ trên da động vật (chủ yếu là hươu), trên các lienzo bằng bông và trên giấy amate làm từ vỏ cây (từ loài Trema micrantha hoặc Ficus aurea), chúng cũng được sản xuất trên gốm và chạm khắc trên gỗ hoặc đá. Bề mặt của vật liệu thường được xử lý đầu tiên bằng gesso để làm cho hình ảnh nổi bật rõ hơn. Nghệ thuật hội họa và vẽ trong tiếng Nahuatl có phép ẩn dụ là in tlilli in tlapalli – nghĩa là “mực đen, sắc đỏ”.

Một vài cuốn sách vẽ Aztec còn sống sót. Trong số này không có cái nào được xác nhận là được tạo ra trước cuộc chinh phạt, nhưng một số ít thủ bản chắc như đinh đã được vẽ ngay trước cuộc chinh phạt hoặc ngay sau đó – chính do sau này trong thời thuộc địa, truyền thống lịch sử vẽ sách đã bị mai một đi nhiều. Ngay cả khi một số ít thủ bản hoàn toàn có thể được xuất bản sau cuộc chinh phục, vẫn có nguyên do chính đáng cho rằng chúng được sao chép từ bản gốc thời tiền Columbus bởi các kinh sư. Thủ bản Borbonicus được một số ít người coi là thủ bản Aztec duy nhất còn sống sót được vẽ trước cuộc chinh phạt. Nhiều người khác tuy nhiên phản đối quan điểm này do phong thái vẽ chỉ ra đây là loại sản phẩm hậu chinh phạt .

Một số thủ được sản xuất hậu chinh phạt, đôi khi được tài trợ bởi chính quyền thực dân, ví dụ Thủ bản Mendoza, được vẽ bởi tlacuilos của Aztec, nhưng dưới sự kiểm soát của chính quyền Tây Ban Nha, đôi khi ủy thác cho họ mô tả các hoạt động tôn giáo tiền thuộc địa, ví dụ Thủ bản Ríos. Sau cuộc chinh phạt, các thủ bản chứa thông tin về lịch hoặc tôn giáo bị nhà thờ truy lùng và thiêu hủy một cách có hệ thống – trong khi các loại sách vẽ khác, đặc biệt là các câu chuyện lịch sử và danh sách cống nạp tiếp tục được sản xuất. Các thủ bản được sản xuất ở Nam Puebla gần Cholula, tuy mô tả về các vị thần Aztec và các nghi lễ tôn giáo ở Thung lũng Mexico, đôi khi không được coi là thủ bản Aztec, bởi vì chúng được sản xuất bên ngoài trung tâm của đế quốc Aztec. Tuy nhiên, Karl Anton Nowotny cho rằng Thủ bản Borgia, được vẽ ở khu vực xung quanh Cholula và sử dụng phong cách Mixtec, là “tác phẩm nghệ thuật quan trọng nhất trong số các bản thảo còn tồn tại”.

  1. ^ Smith 1997, tr. 4 viết rằng “For many the term ‘Aztec’ refers strictly to the inhabitants of Tenochtitlan (the Mexica people), or perhaps the inhabitants of the Valley of Mexico, the highland basin where the Mexica and certain other Aztec groups lived. I believe it makes more sense to expand the definition of “Aztec” to include the peoples of nearby highland valleys in addition to the inhabitants of the Valley of Mexico. In the final few centuries before the arrival of the Spaniards in 1519 the peoples of this wider area all spoke the Nahuatl language (the language of the Aztecs), and they all traced their origins to a mythical place called Aztlan (Aztlan is the etymon of “Aztec,” a modern label that was not used by the Aztecs themselves)”
  2. ^ Lockhart 1992, tr. 1 viết rằng “These people I call the Nahuas, a name they sometimes used themselves and the one that has become current today in Mexico, in preference to Aztecs. The latter term has several decisive disadvantages: it implies a quasi-national unity that did not exist, it directs attention to an ephemeral imperial agglomeration, it is attached specifically to the pre-conquest period, and by the standards of the time, its use for anyone other than the Mexica (the inhabitants of the imperial capital, Tenochtitlan) would have been improper even if it had been the Mexica’s primary designation, which it was not”
  3. ^ Lỗi harv : không có tiềm năng : CITEREFNicholsRodríguez-Alegría2017 ( trợ giúpThe editors of the ” Oxford Handbook of the Aztecs “, Nichols và Rodríguez-Alegría 2017, tr. 3 write : ” The use of terminology changed historically during the Late Postclassic, and it has changed among modern scholars. Readers will find some variation in the terms authors employ in this handbook, but, in general, different authors use Aztecs to refer to people incorporated into the empire of the Triple Alliance in the Late Postclassic period. An empire of such broad geographic extent [ … ] subsumed much cultural, linguistic, and social variation, and the term Aztec Empire should not obscure that. Scholars often use more specific identifiers, such as Mexica or Tenochca, when appropriate, and they generally employ the term Nahuas to refer to indigenous people in central Mexico [ … ] after the Spanish Conquest, as Lockhart ( 1992 ) proposed. All of these terms introduce their own problems, whether because they are vague, subsume too much variation, are imposed labels, or are problematic for some other reason. We have not found a solution that all can agree on and thus accept the varied viewpoints of authors. We use the term Aztec because today it is widely recognized by both scholars and the international public. “
  4. ^ Lỗi harv : không có tiềm năng : CITEREFHajovsky2015 ( trợ giúpTên của hai vị hoàng đế Aztec ” Motecuzoma ” trong bài viết này có nhiều dị bản, từ sự biến tấu từ ngữ bởi người nói tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, và do lựa chọn chính tả để viết các từ Nahuatl. Trong tiếng Anh, cách viết ” Montezuma ” là thông dụng nhất, nhưng hầu hết đã bị thay thế sửa chữa bởi các cách viết ” motecuhzoma ” và ” moteuczoma ” ; trong tiếng Tây Ban Nha, cách viết ” moctezuma ” tráo đổi chữ t và k đã chiếm lợi thế và trở thành tên họ của nhiều người tại Mexico, nhưng giờ hầu hết cũng bị sửa chữa thay thế bởi cách viết tôn trọng cấu trúc gốc của tiếng Nahuatl, như thể ” motecuzoma “. Trong tiếng Nahuatl từ này được phát âm là / motekʷso : ma /, nghĩa là ” ông cau mày như một lãnh chúa ” ( Hajovsky năm ngoái, tr. ix, 147 : n # 3 ) .
  5. ^ Gillespie 1989Lỗi harv : không có tiềm năng : CITEREFGillespie1989 ( trợ giúpargues that the name ” Motecuzoma ” was a later addition added to make for a parallel to the later ruler, and that his original name was only ” Ilhuicamina ” .
  6. ^ Lỗi harv : không có tiềm năng : CITEREFDiel2005 ( trợ giúp

    Nhiều nguồn, kể cả Relación de Tula và Lịch sử của Motolinia, cho rằng Atotoztli là người cai trị Tenochtitlan nối ngôi cha cô. Không có ghi chép nào về chiến dịch chinh phạt của Motecuzoma những năm cuối đời, có thể là vì ông không còn khả năng trị vì nữa hoặc đã qua đời rồi( Diel 2005 ).

  7. ^

    số nhiều là Pipiltin

  8. ^ Cuốn này được dịch sang tiếng Tây Ban Nha bởi Ángel María Garibay K., thầy giáo của ông León-Portilla, và được dịch sang tiếng Anh bởi John Bierhorst

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://mix166.vn
Category: Cộng Đồng